VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

BÁO CÁO
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1981
VÀ NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1982

(Do ông Nguyễn Lam, Phó Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trình bày tại kỳ họp thứ 2,
Quốc hội khóa VII, ngày 21-12-1981)

 

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Năm 1981, năm đầu của kế hoạch 5 năm sắp kết thúc, chúng ta sắp bước sang năm thứ hai của kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985).

Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin trình bày trước Quốc hội bản báo cáo về “Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1981 và nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1982”.

Báo cáo gồm ba phần:

I. Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1981.

II. Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch nhà nước năm 1982.

III. Tổ chức quản lý và chỉ đạo thực hiện.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
 NĂM 1981

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 7, đồng bào và chiến sĩ cả nước đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nghiêm chỉnh thực hành Hiến pháp mới, quán triệt khẩu hiệu hành động mà Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra: “với phương tiện vật tư do Nhà nước cung ứng bằng hoặc ít hơn trước, phải sản xuất tốt hơn, làm ra nhiều của cải vật chất hơn”, hăng hái thi đua lao động sản xuất và tiết kiệm, phấn đấu thực hiện nhiệm vụ và các chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước năm 1981. Đồng thời, việc thực hành một số chủ trương, chính sách mới, bước đầu chú ý sử dụng các đòn bẩy kinh tế, khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với người lao động, như khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, ổn định nghĩa vụ lương thực, điều chỉnh giá thu mua nông sản; mở rộng quyền chủ động của các xí nghiệp, trả lương theo sản phẩm, thưởng năng suất trong công nghiệp; mở rộng quyền cho địa phương kinh doanh xuất nhập khẩu, v.v., đã có tác dụng động viên tính tích cực lao động sản xuất, thúc đẩy các đơn vị cơ sở phát huy tính năng động trong sản xuất, kinh doanh, tính toán hiệu quả kinh tế, khai thác tiềm năng về lao động, vật tư, nguyên liệu, tiền vốn để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Công tác điều hành, chỉ đạo thực hiện cũng có những chuyển biến nhất định. Nhờ vậy, trên một số mặt, đã đạt được những thành tíchtiến bộ đáng kể:

1. Nông nghiệp đạt thắng lợi quan trọng về nhiều mặt, cả sản xuất lương thực, cây công nghiệp và chăn nuôi. Trong điều kiện vật chất kém các năm trước (phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu...), song nhờ tác động tích cực của các chính sách mới và thời tiết nói chung có thuận lợi, nên nông nghiệp được mùa. Trong nông dân đã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, tận dụng các khả năng lao động, đất đai, thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, làm vụ đông xuân... Sản lượng lương thực đạt kế hoạch 15 triệu tấn, tăng trên 60 vạn tấn so với năm 1980 và là năm đạt sản lượng cao nhất từ trước đến nay. Nếu như miền Nam không giảm 23 vạn ha so với năm trước, thì thắng lợi còn lớn hơn. Nhu cầu lương thực trong nông thôn được bảo đảm tốt hơn các năm trước, kể cả ở những nơi thường gặp khó khăn nhất như Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Bình Trị Thiên... Nông dân khắp nơi, nhất là ở miền Bắc, rất phấn khởi và tin tưởng.

Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày tăng 1,8% so với năm 1980. Sản lượng một số cây tăng khá, nhất là đậu tương tăng gấp hai lần. Chăn nuôi gia súc, gia cầm đều tăng, riêng đàn lợn tăng 4,5%, đàn trâu tăng 2,7%, đàn bò tăng 6,3%.

2. Huy động lương thực được 2,5 triệu tấn. Đó là mức cao nhất từ trước tới nay. Thu mua nông sản, thực phẩm như đậu tương, thịt lợn, cá nước ngọt, v.v., đều tăng nhiều so với các năm trước. So với năm 1980, thu mua lạc tăng 14%, mía tăng 74%, thuốc lá tăng 15%, đay tăng 2%, cói tăng 4%, thịt lợn tăng 19%, cá nước ngọt tăng 26%...

3. Sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch và tăng một ít so với năm 1980, trong đó, công nghiệp địa phương tăng 7%, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tăng 7%, nhưng công nghiệp Trung ương giảm hơn 8%. Sản lượng một số sản phẩm quan trọng tăng khá: điện tăng 4,4%, than tăng 11,7%, thiếc tăng 2,7%, sà lan vận tải tăng 18,2%, canô, tàu kéo tăng 31,5%, đường mía tăng 33%, đồ hộp tăng 23%, thuốc lá điếu tăng 41,8%, cá biển vượt kế hoạch và tăng 4.000 tấn so với năm 1980,... Đặc biệt, nhiều xí nghiệp công nghiệp đã chủ động tìm, khai thác nguyên liệu từ nông, lâm, hải sản và tận dụng phế liệu, phế phẩm để phát triển các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Các địa phương phát triển khá là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Hậu Giang, Tiền Giang, Quảng Nam - Đà Nẵng...

4. Trong xây dựng cơ bản, tiến độ thi công các công trình trọng điểm, như thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, phân lân Lâm Thao, giấy Vĩnh Phú, các nhà máy sợi Hà Nội, Nha Trang, cơ sở dịch vụ dầu khí Vũng Tàu, v.v., được đẩy mạnh.

5. Công tác giáo dục, văn hóa, y tế, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, hoạt động thể dục thể thao tiếp tục phát triển. Việc chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ được quan tâm hơn. Công tác cải cách giáo dục được triển khai. Các ngành khoa học - kỹ thuật đã có nhiều cố gắng vươn lên giải quyết những yêu cầu của kinh tế và quốc phòng.

Hội đồng Bộ trưởng trân trọng đề nghị Quốc hội nhiệt liệt biểu dương đồng bào cả nước, công nhân, nông dân, trí thức, các tầng lớp lao động khác, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ các ngành, các cấp đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, ra sức phấn đấu thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhiệt liệt biểu dương đồng bào các dân tộc, các chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang và an ninh nhân dân, đặc biệt là đồng bào và chiến sĩ ở các vùng biên giới và hải đảo, đã thường xuyên nêu cao cảnh giác cách mạng, đập tan mọi âm mưu và hành động khiêu khích, phá hoại của kẻ thù, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống lao động hòa bình của nhân dân.

Những thắng lợi của nhân dân ta không tách rời sự giúp đỡ, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước anh em trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế đối với công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước ta.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Bên cạnh những thành tích và tiến bộ nói trên, trong năm 1981, còn nhiều mặt kế hoạch đạt thấp, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Đáng chú ý là đã không cấy được hết 23 vạn ha ở miền Nam và để sản lượng màu giảm 22 vạn tấn; nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như vải, hàng may mặc, giấy, chiếu cói, phụ tùng xe đạp, thuốc chữa bệnh giảm; sản xuất của công nghiệp quốc doanh, nhất là công nghiệp quốc doanh trung ương, giảm so với năm 1980.

- Xuất khẩu chỉ đạt 88% kế hoạch và chưa có tiến bộ đáng kể so với các năm trước. Cán cân xuất khẩu và nhập khẩu còn mất cân đối lớn.

- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện được gần 90% kế hoạch, nhưng tình trạng đầu tư phân tán, thời gian xây dựng kéo dài vẫn còn nặng. Hiệu quả của vốn đầu tư rất thấp.

- Khối lượng hàng hóa vận tải trong nước chỉ đạt 83% về tấn và 78% về tấn km so với kế hoạch, các mục tiêu chủ yếu như tiếp nhận và vận chuyển hàng nhập khẩu, vận chuyển than, lương thực, gỗ, v.v., chưa được thực hiện tốt. Tình trạng yếu kém của ngành Vận tải đã gây trở ngại đối với các ngành sản xuất, xây dựng và sinh hoạt của nhân dân.

Những mặt yếu kém nói trên là do khuyết điểm trong công tác chỉ đạo quản lý kinh tế, trong việc điều hành thực hiện kế hoạch của các cấp, các ngành. Nếu có sự chỉ đạo và điều hành tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm của kế hoạch; tiến hành sắp xếp lại kịp thời một số mặt sản xuất; điều hòa phối hợp ăn khớp giữa cung ứng điện với sản xuất, xây dựng; bảo đảm giao thông vận tải và cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, v.v., thì một số mục tiêu quan trọng và mặt hàng thiết yếu không đến nỗi đạt kế hoạch quá thấp.

Trên mặt trận phân phối lưu thông đang có những diễn biến phức tạp. Việc nắm nguồn hàng vào tay Nhà nước về lương thực, thực phẩm, nông sản có tiến bộ rõ; nhưng trong khi sản xuất nhiều mặt hàng tiêu dùng quan trọng không đạt kế hoạch, thì việc nắm hàng công nghiệp và một số nông sản nguyên liệu còn thấp. Một số xí nghiệp không chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Quản lý vật tư, hàng hóa chưa chặt chẽ, còn nhiều sơ hở, để thất thoát không ít. Quản lý thị trường chưa tốt. Do tình hình đó, quỹ hàng hóa thiếu hụt, làm cho quan hệ cung cầu mất cân đối nặng hơn, làm phức tạp thêm công tác phân phối lưu thông vốn đã căng thẳng, tác hại xấu đến cân đối hàng - tiền, đến giá cả và đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức.

Trong khi đời sống công nhân, viên chức có nhiều khó khăn, thì ngược lại, bọn gian thương, đầu cơ, những kẻ làm ăn phi pháp, v.v., thu được những khoản lời bất chính hơn, do ta chưa làm tốt công tác cải tạo, quản lý thị trường...

Việc điều chỉnh hệ thống giá cả của Nhà nước (bao gồm giá thu mua, giá bán buôn và giá bán lẻ) là cần thiết, nhưng tổ chức thực hiện chưa tốt, chưa chuẩn bị đầy đủ, dự đoán các tác động về kinh tế, chính trị, xã hội chưa chính xác và việc giải quyết những biến động xảy ra chưa chu đáo, chỉ đạo thực hiện chưa đồng bộ ăn khớp, gây ra những tác động tiêu cực đối với sản xuất và đời sống. Việc chấp hành kỷ luật giá có những biểu hiện không nghiêm. Công tác quản lý thị trường chỉ làm ráo riết trong một vài tháng rồi lại buông lỏng, không nắm chắc tiền, hàng, do đó bị động đối phó với những biến động về giá cả, thị trường.

Tóm lại, năm 1981, năm mở đầu của kế hoạch 5 năm, tình hình kinh tế có những chuyển biến bước đầu, nhưng rất có ý nghĩa. Đó là: công tác quản lý kinh tế bắt đầu được đổi mới theo hướng xóa bỏ dần cơ chế quản lý hành chính bao cấp, đi vào cơ chế quản lý mới hạch toán kinh doanh; một số chính sách và phương thức quản lý mới vừa ban hành, tuy có những mặt cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh, nhưng đã có tác dụng lay động thế trì trệ tồn tại từ lâu, tạo ra những kích thích mới đối với việc phát triển sản xuất, cổ vũ quần chúng hăng hái lao động (khoán mới trong nông nghiệp là một thí dụ nổi bật). Sự hiểu biết tình hình thực tế của đất nước (khó khăn cũng như thuận lợi); việc nhận thức sâu hơn và nhất trí hơn về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; những kinh nghiệm thành công và không thành công của những năm qua, nhất định giúp chúng ta tìm ra cách đi đúng hơn, tiến hành công việc có hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Nông nghiệp bắt đầu chuyển mình, có khả năng phát triển tốt. Riêng miền Bắc trong năm 1981 tăng trên 90 vạn tấn lương thực, nhiều loại cây trồng trong cả nước tăng khá, là những dấu hiệu tốt về bước phát triển của nông nghiệp. Nếu tổ chức, chỉ đạo đúng và sát sao hơn, kịp thời giải quyết những yêu cầu cấp bách về phân bón, thuốc trừ sâu, hàng đối lưu, chính sách giá cả, v.v., thì chắc chắn sẽ thực hiện được những mục tiêu đề ra.

Tuy nhiên, nhiều mặt kế hoạch đạt thấp (nhiều sản phẩm công nghiệp quan trọng, xuất khẩu, vận tải, xây dựng cơ bản...), công tác phân phối lưu thông đang có nhiều diễn biến phức tạp. Do vậy, tình hình kinh tế hiện nay vẫn mất cân đối lớn; đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức, đang có nhiều khó khăn; năng lượng, nguyên liệu, phụ tùng sửa chữa thiếu nghiêm trọng; năng lực vận tải quá yếu; xuất khẩu tăng chậm và nhập khẩu phải hạn chế không bảo đảm được hoạt động bình thường của nền kinh tế; xây dựng cơ bản vẫn rất phân tán; tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả chưa ổn định.

Tình hình trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Về khách quan, nền kinh tế nước ta vốn là sản xuất nhỏ, lạc hậu, lại chịu hậu quả rất nặng nề của 30 năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân cũ và mới nên rất chậm phát triển và phụ thuộc nặng vào bên ngoài; tiếp đến lại chịu những sự đảo lộn lớn do những hành động phá hoại và chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng... câu kết với đế quốc Mỹ gây ra; sau nữa lại bị thiên tai liên tiếp trong ba năm 1977, 1979, 1980 và giá nhập khẩu của thị trường quốc tế tăng vọt.

Nhưng về chủ quan, nhận thức cũng như việc làm còn nhiều mặt không theo kịp tình hình và nhiệm vụ đòi hỏi.

- Trong kế hoạch năm 1981, đã mạnh dạn bố trí sát hơn với khả năng thực tế, nhưng vẫn chưa đánh giá đúng tình hình. Một số mặt của kế hoạch đề ra còn vượt quá khả năng cân đối của nền kinh tế, nhưng mặt khác cũng chưa có biện pháp khai thác tốt tiềm năng của nền kinh tế. Tuy có đề ra việc sắp xếp lại sản xuất, xây dựng cơ bản, phân phối và tiêu dùng, nhưng thực tế đã không làm tốt từ xây dựng kế hoạch đến chỉ đạo thực hiện.

- Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành còn nhiều thiếu sót, nhất là chưa kiên quyết tập trung bám sát các mục tiêu quan trọng nhất của nền kinh tế.

Tư tưởng ỷ lại vẫn chưa được khắc phục trong các ngành, các cấp. Quan hệ giữa ngành và cấp, giữa Trung ương và địa phương chưa được xác định rõ, đang là một cản trở trong quản lý, gây ra nhiều mắc mứu trong điều hành công việc.

Kỷ luật mọi mặt chưa được đề cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa còn yếu, lề lối làm việc chưa được cải tiến, chưa tập trung xử lý các vấn đề cụ thể.

Tình hình kinh tế không bình thường hiện nay đòi hỏi sớm có các biện pháp thiết thực và kiên quyết để nhanh chóng lập lại trật tự kinh tế, ổn định tình hình sản xuất và đời sống, đưa nền kinh tế từng bước tiến lên. Những kinh nghiệm mới, những nhân tố mới trong sản xuất - kinh doanh, trong quản lý kinh tế năm 1981 khẳng định chúng ta có khả năng to lớn để vượt qua khó khăn, giành những thắng lợi mới.

Nắm vững và cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế của Đảng, tập trung sức vào mặt trận quan trọng hàng đầu là nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, phát huy tinh thần tự lực tự cường, nâng cao ý thức làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính bao cấp, chuyển sang cơ chế quản lý kinh doanh, có hạch toán kinh tế, phát động phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng ở khắp các ngành, các địa phương và cơ sở, nhất định chúng ta sẽ tạo ra một chuyển biến mới trong nền kinh tế quốc dân ngay trong năm 1982 và những năm tới.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU
CỦA KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1982

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Chúng ta bước vào năm 1982 trong tình hình kinh tế đang có những khó khăn và mất cân đối lớn, kẻ thù đang tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt và âm mưu xâm lược nước ta, buộc ta phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng và an ninh hơn nữa, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta có những khả năng tiềm tàng to lớn, trong đó có những khả năng trong tầm tay chưa được khai thác tốt; chúng ta có những thuận lợi, những nhân tố mới quan trọng để vượt qua những khó khăn, đưa nền kinh tế từng bước tiến lên:

- Đảng ta có đường lối đúng đắn và sáng tạo cho cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong toàn Đảng, toàn dân về sự đánh giá tình hình, về phương hướng, nhiệm vụ, bước đi, qua Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và đại hội đảng bộ các cấp sẽ được củng cố và nâng cao thêm. Đảng và Nhà nước ta có thêm những kinh nghiệm mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế sau 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước.

- Tiềm năng về lao động, đất đai và các năng lực sản xuất khác chưa được khai thác còn lớn. Các công trình mới đã được xây dựng và sắp đưa vào sử dụng sẽ tăng thêm đáng kể năng lực sản xuất của xã hội.

- Chúng ta có sức mạnh tổng hợp từ việc thực hiện tốt chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, từ việc đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, đổi mới quản lý, áp dụng các thành tựu của khoa học - kỹ thuật; nâng cao tinh thần tự lực tự cường, tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành để khai thác những tiềm năng vật chất sẵn có.

- Sự liên minh, hợp tác toàn diện với Liên Xô, sự liên minh đặc biệt với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa Nhân dân Campuchia và sự hợp tác ngày càng mở rộng với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực đối với chúng ta.

Năm 1982 là năm có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội của nhân dân ta. Đại hội lần thứ V của Đảng sắp họp sẽ quyết định phương hướng, nhiệm vụ tiến lên của đất nước trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và bước đi 5 năm 1981 - 1985. Năm 1982 là năm đầu triển khai toàn diện những nghị quyết của Đại hội đưa đất nước tiến lên một bước mới.

Trong năm 1982, toàn Đảng và toàn dân ta, trên cơ sở thấu suốt phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu mà Đại hội đã thông qua, sẽ phát huy mạnh mẽ những kinh nghiệm và những nhân tố mới đã xuất hiện trong năm 1981, đồng thời khắc phục những thiếu sót, kiên quyết tạo ra chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, đưa tình hình kinh tế - xã hội đi vào trật tự xã hội chủ nghĩa, ổn định dần mọi mặt sản xuất và đời sống xã hội theo hướng đi lên, tạo đà chuyển biến mạnh mẽ trong các năm sau của kế hoạch 5 năm 1981 -1985.

Xuất phát từ tình hình kinh tế nước ta hiện nay, với những thuận lợi và khó khăn nói trên, nhiệm vụ cơ bản của năm 1982 là: Phát huy cao độ chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tinh thần tự lực, chủ động và liên tục tiến công, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng; đổi mới quản lý kinh tế, vừa tăng cường sự chỉ đạo và quản lý tập trung thống nhất đúng đắn của Trung ương, vừa phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo của các ngành, các địa phương, các cơ sở, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm; coi trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả, triệt để tiết kiệm; ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học - kỹ thuật; phát động sâu rộng phong trào cách mạng sôi nổi của nhân dân; quyết tâm tạo ra sự chuyển biến sâu sắc, toàn diện, mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực để đưa hoạt động kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội đi vào trật tự xã hội chủ nghĩa; từng bước ổn định tình hình và tạo đà phát triển trong những năm sau; đồng thời làm tốt công tác quốc phòng, an ninh và nghĩa vụ quốc tế.

Về kinh tế và đời sống, nội dung cơ bản của kế hoạch năm 1982 là phải tự lực phấn đấu đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, gắn phát triển sản xuất với làm tốt công tác phân phối lưu thông để tự trang trải mọi nhu cầu cần thiết của xã hội theo tinh thần: tiêu dùng trong phạm vi sản xuất cho phép.

Để thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản trên đây, cần thực hiện tốt những nhiệm vụ và biện pháp chủ yếu sau đây:

1. Nâng cao tinh thần tự lực tự cường, chủ động vươn lên bảo đảm nhu cầu cần thiết của xã hội

Cần nhận rõ rằng, chúng ta chỉ có thể vượt qua mọi khó khăn để xây dựng cuộc sống của chúng ta bằng chính sức của ta, chỉ tiêu dùng trong phạm vi chúng ta có và làm ra được. Vì vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là các ngành, các địa phương và cơ sở phải khai thác tốt mọi khả năng, vươn lên bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, tạo dần nguồn dự trữ và tích lũy trong toàn bộ nền kinh tế cũng như trong từng ngành, từng địa phương và cơ sở, khắc phục tâm lý ỷ lại, thụ động, xóa bỏ lối làm ăn không tính toán hiệu quả kinh tế.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang có nhiều khó khăn và mất cân đối lớn, chúng ta phải tập trung sức lực vào việc thực hiện những nhiệm vụ then chốt, cấp bách nhất. Trước hết phải:

- Tập trung cao độ sức lực cho nhiệm vụ hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, thực phẩm và huy động lương thực cho Nhà nước, bảo đảm nhu cầu lương thực cho cả nước. Cần phát triển tốt cả lúa, màu và rau, đậu.

- Khai thác mọi tiềm năng, đặc biệt là tiềm năng về lao động, đất đai, nguyên liệu trong nước và năng lực sản xuất hiện có của công nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, nhất là các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu trong đời sống nhân dân và hàng xuất khẩu.

- Từng huyện, từng tỉnh (trừ vùng chuyên canh cây công nghiệp) phải bằng mọi cách tự cân đối lấy lương thực, và giải quyết lấy một phần vải mặc cho dân cư trong địa phương.

- Các ngành Công nghiệp nặng: điện, than, cơ khí, hóa chất, phân bón, v.v., phải phát huy tối đa năng lực của mình nhằm phục vụ đắc lực cho nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, giao thông vận tải...

- Tăng cường năng lực giao thông vận tải, khắc phục tình trạng yếu kém hiện nay để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sản xuất, xây dựng và đời sống nhân dân.

2. Sắp xếp lại sản xuất, xây dựng và đời sống cho phù hợp với khả năng kinh tế của đất nước

Năm 1982 phải thực hiện một bước quan trọng việc sắp xếp lại kinh tế (bao gồm sắp xếp lại cơ cấu xây dựng cơ bản, cơ cấu sản xuất, cơ cấu phân phối, tiêu dùng, cơ cấu các thành phần kinh tế), từng bước đưa nền kinh tế tiến lên trên cơ sở mới. Cần sắp xếp lại nền kinh tế theo thứ tự ưu tiên, trước hết ưu tiên tập trung vật tư nguyên liệu, năng lượng, vận tải, tiền vốn cho sản xuất lương thực và thực phẩm, cho sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và xuất khẩu. Cần xem xét lại các công trường, lâm trường quốc doanh, các trạm trại nông nghiệp để có kế hoạch củng cố, bảo đảm làm ăn có hiệu quả.

Sắp xếp lại công tác xây dựng cơ bản cho phù hợp với quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, với khả năng vật tư, tiền vốn. Trước mắt, năm 1982 cần tập trung ưu tiên các điều kiện vật chất để bảo đảm tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm của Nhà nước, các công trình quan trọng của các ngành, các địa phương.

Các ngành Giao thông vận tải, Cung ứng vật tư, Thương nghiệp, Văn hóa, Y tế, Giáo dục, v.v., cũng phải chấn chỉnh, sắp xếp lại tổ chức và hoạt động của mình cho phù hợp với khả năng và yêu cầu của nền kinh tế nhằm phục vụ đắc lực cho sản xuất, xây dựng và đời sống nhân dân.

3. Tập trung giải quyết một bước việc sử dụng hợp lý lao động xã hội, phân bố lại lao động ở từng địa phương và trong cả nước

Trong những năm trước mắt, phải phấn đấu tạo việc làm và tổ chức sử dụng lao động xã hội hợp lý hơn.

Việc phân bố lại lao động và dân cư trong từng địa phương và trong phạm vi cả nước là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa rất to lớn. Nhiệm vụ này cần được thực hiện bằng nhiều hình thức: tập trung và phân tán, Nhà nước tổ chức đi và nhân dân tự đi, có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng lo liệu, cùng làm”.

4. Đẩy mạnh xuất khẩu, nhập khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài

Tận lực đẩy mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ chiến lược cấp bách và lâu dài của nước ta. Phải khai thác tốt mọi tiềm năng lao động, đất đai và khoáng sản, phát triển mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong nước để đẩy mạnh xuất khẩu.

Cần khẳng định lại xuất khẩu là nghĩa vụ của tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở; từng ngành, từng địa phương phải tính toán chặt chẽ khả năng xuất khẩu và yêu cầu nhập khẩu, theo hướng tăng mạnh xuất khẩu cân đối với yêu cầu nhập khẩu.

Thực hiện đầy đủ nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý xuất, nhập khẩu. Đồng thời, khuyến khích các ngành, các địa phương đẩy mạnh xuất khẩu để tự cân đối một phần yêu cầu nhập khẩu của mình.

5. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới trong cả nước. Mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực, củng cố vững chắc vai trò chủ đạo của kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Năm 1982 phải kiên quyết thực hiện và hoàn thành việc điều chỉnh lại ruộng đất ở Nam bộ, bảo đảm cho mọi người nông dân có ruộng cày, trên cơ sở đó đẩy mạnh việc đưa nông dân vào con đường sản xuất tập thể dưới các hình thức tổ đoàn kết sản xuất và tập đoàn sản xuất. Củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý các hợp tác xã nông nghiệp. Áp dụng rộng rãi và hoàn thiện hình thức khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động.

Ở các thành thị, phải tiếp tục thực hiện cải tạo công thương nghiệp. Việc này phải kết hợp với tổ chức lại sản xuất, gắn với tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ, buôn lậu và các hoạt động phá hoại nền kinh tế, phá rối thị trường của địch.

Củng cố và nâng cao chất lượng của các cơ sở kinh tế quốc doanh (xí nghiệp công nghiệp, nông trường, lâm trường, công trường, cửa hàng...). Kiện toàn tổ chức và cải tiến quản lý theo hướng mở rộng quyền chủ động sản xuất - kinh doanh của cơ sở, tăng cường công tác hạch toán kinh tế, tính toán hiệu quả kinh tế, nhằm nêu cao vai trò của kinh tế quốc doanh về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả, xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm ăn phi pháp.

6. Phải nghiêm ngặt thực hành tiết kiệm

Triệt để tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng, trước hết là điện, than, xăng dầu, vật tư, nguyên liệu, lương thực,... Khẩn trương hoàn chỉnh các định mức tiêu hao lao động, vật tư, tiền vốn, đi đôi với việc xây dựng cơ chế quản lý mới và kiểm tra chặt chẽ để buộc mọi người phải tuân theo. Mỗi ngành, mỗi địa phương đều phải có kế hoạch, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể để thực hành triệt để tiết kiệm trong sản xuất từng sản phẩm, trong thiết kế, thi công mỗi công trình xây dựng, trong vận tải và bảo quản vật tư, hàng hóa... Hằng năm, Nhà nước sẽ quy định mức giảm tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, vật tư, v.v., và coi đó là một chỉ tiêu pháp lệnh giao cho các ngành, các địa phương, các cơ sở.

Cần giảm mạnh những khoản chi tiêu chưa có yêu cầu cấp bách để tập trung cho những yêu cầu cần thiết trước mắt. Chủ yếu là giảm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để dành vật tư cho sản xuất và đời sống; giảm biên chế hành chính; giảm chi phí hành chính; tiết kiệm chi phí quốc phòng, an ninh...

Ngoài việc giáo dục tư tưởng, cần thi hành các biện pháp hành chính, kinh tế thích đáng; thưởng phạt nghiêm minh, khuyến khích những đơn vị và cá nhân chấp hành tốt chính sách tiết kiệm.

Phải có kế hoạch xây dựng và tăng cường từng bước lực lượng dự trữ Nhà nước, lực lượng tồn kho vật tư, hàng hóa chủ yếu.

7. Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất và xây dựng, góp phần tích cực giải quyết các khó khăn của nền kinh tế, nhất là vật tư, nguyên liệu, phụ tùng sửa chữa, thiết bị. Đặc biệt chú trọng các thành tựu của cách mạng sinh học trong trồng trọt và chăn nuôi.

Có chính sách và cơ chế quản lý đúng để kích thích người sản xuất ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, khuyến khích nghiên cứu khoa học, sáng chế, phát minh, thúc đẩy các cơ quan khoa học - kỹ thuật đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.

8. Kết hợp kinh tế với quốc phòng. Bảo đảm các nhu cầu cần thiết về phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh. Có kế hoạch chuẩn bị động viên nền kinh tế luôn luôn ở tư thế sẵn sàng đối phó với chiến tranh, đánh thắng kẻ địch trong mọi tình huống. Đi đôi với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt, các lực lượng vũ trang, tùy theo điều kiện của mình, cần tham gia xây dựng kinh tế, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm, làm đường giao thông, làm thủy lợi...; kết hợp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng, phát huy năng lực của công nghiệp quốc phòng, nhằm tăng sản phẩm cho xã hội.

9. Thiết lập trật tự mới trên lĩnh vực phân phối lưu thông theo hướng kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phục vụ tốt sản xuất và đời sống. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là tập trung nắm nguồn hàng vào tay Nhà nước; quản lý chặt chẽ việc phân phối và sử dụng hợp lý lương thực, thiết bị, tiền vốn, vật tư, hàng hóa..., thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ba lợi ích, tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh giá cả một cách vững chắc; tăng cường quản lý thị trường, điều tiết những thu nhập không hợp lý, tăng cường thị trường xã hội chủ nghĩa, ổn định tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức và bộ đội ở các thành phố và khu công nghiệp tập trung.

10. Tiếp tục tạo ra một bước chuyển biến mạnh từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang cơ chế quản lý và kế hoạch hóa theo hướng kinh doanh xã hội chủ nghĩa và hạch toán kinh tế, nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ đối với sản xuất, phát huy sức sáng tạo của các ngành, các địa phương, các tập thể và cá nhân người lao động, khơi dậy mọi tiềm năng trong nền kinh tế, khắc phục tình trạng trì trệ, thụ động, vô trách nhiệm trong quản lý sản xuất - kinh doanh hiện nay.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Theo những phương hướng chung đã trình bày ở trên và căn cứ vào khả năng cân đối hiện thực của năm 1982, nhiệm vụ cụ thể của các ngành kinh tế - văn hóa như sau:

I- NÔNG NGHIỆP

1. Tập trung cao độ sự cố gắng của cả nước, của tất cả các ngành, các cấp và các tổ chức có liên quan vào nhiệm vụ hàng đầu là phát triển sản xuất nông nghiệp, đạt được những thắng lợi toàn diện và vững chắc hơn năm 1981 nhằm giải quyết những nhiệm vụ cấp bách và quan trọng nhất là ăn, mặc, xuất khẩu, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Đặc biệt là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm: lúa, màu, rau, đậu các loại (nhất là đậu tương), lạc, mía đường, cá và một phần thịt, trứng để giải quyết vấn đề ăn.

Phấn đấu đạt cho được 16 triệu tấn lương thực quy thóc (trong đó thóc 13 triệu tấn, màu quy thóc 3 triệu tấn), tăng một triệu tấn so với năm 1981 là năm có sản lượng cao.

Từ năm 1982, ta phải tích cực đẩy mạnh sản xuất để tự bảo đảm đủ nhu cầu ăn. Vì vậy, từng địa phương, nhất là từng huyện, phải có một cơ cấu sản xuất và tiêu dùng lương thực phù hợp với đặc điểm của mình để tự giải quyết nhu cầu lương thực. Phải cân đối lương thực trên địa bàn từng huyện, từng tỉnh.

Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hà Bắc, Nghĩa Bình, Phú Khánh, v.v., phải ra sức tăng mạnh sản xuất, nâng cao tỷ suất lương thực hàng hóa, huy động được khối lượng lương thực ngày càng lớn, thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Đây là yêu cầu số một của kế hoạch nhà nước năm 1982 mà nhất thiết chúng ta phải phấn đấu thực hiện cho kỳ được.

Các tỉnh nông nghiệp khác phải vươn lên giải quyết cho được nhu cầu lương thực của địa phương mình và tiến tới có đóng góp cho nhu cầu chung. Nhà nước chỉ cung cấp lương thực cho các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung, bộ đội, các vùng chuyên canh cây công nghiệp, nghề muối, nghề cá,... Bộ đội, công nhân, viên chức ở những nơi có điều kiện phải tăng gia sản xuất để tự giải quyết một phần nhu cầu lương thực cho mình.

Để đạt được mục tiêu trên, cần tiến hành các biện pháp sau đây:

Sử dụng lao động, đất đai theo hướng thâm canh, chuyên canh nhằm phát triển trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và các ngành nghề phụ ở nông thôn. Theo hướng đó, cần tổ chức tốt việc phân công lao động trong từng cơ sở, từng địa phương; đồng thời phải phân bố lao động trong phạm vi cả nước để mở thêm diện tích canh tác mới.

Tận dụng mọi khả năng đất đai, sử dụng hết diện tích còn bỏ hoang hóa, tăng vụ và đưa nhanh đất khai hoang vào sử dụng, cố gắng tăng 7% diện tích cây lương thực so với năm 1981.

Về chỉ đạo, cần tập trung cho vùng sản xuất ổn định và các huyện, hợp tác xã ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, Khu IV, Khu V cũ, các tỉnh miền núi có điều kiện chắc chắn đạt sản lượng cao. Vụ đông xuân cần được hết sức coi trọng vì sản xuất vụ này ổn định hơn.

Nhà nước tập trung mọi cố gắng để bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết cho nông nghiệp: phân bón, thuốc trừ sâu, bơm thuốc trừ sâu, xăng dầu, điện,...

Tổ chức tốt công tác bảo vệ thực vật, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, nghiên cứu thay thế giống lúa và có biện pháp chống sâu rầy có hiệu quả cho những tỉnh vừa qua bị sâu rầy phá hoại.

Về thủy lợi, tập trung sức hoàn thành các công trình có thể phát huy tác dụng trong năm 1982, đưa diện tích tưới lên 3,8 triệu ha, tăng 4,4 vạn ha; diện tích tiêu úng lên 10,4 vạn ha, tăng 1,4 vạn ha; ngăn mặn tăng 7.200 ha.

Tận dụng mọi khả năng đất đai, phát triển mạnh sản xuất hoa màu lương thực ở tất cả các nơi có điều kiện. Đồng thời, hết sức coi trọng sản xuất rau. Đặc biệt, phải tổ chức tốt việc sản xuất và cung cấp rau, bảo đảm đủ nhu cầu của các thành phố và khu công nghiệp tập trung.

2. Cây công nghiệp: Chú trọng phát triển mạnh các cây công nghiệp ngắn ngày thích hợp với từng vùng. Tổ chức lại sản xuất ở các vùng tập trung. Đối với cây công nghiệp lâu năm, chủ yếu tập trung thâm canh, khai thác hết diện tích hiện có.

Đặc biệt phải có được chính sách phát triển mạnh đỗ tương, dự kiến sản lượng tăng gấp 2 lần so với 1981, lạc tăng 25%, mía tăng 32%, thuốc lá tăng 21%, đay tăng 50%, cói tăng 8%, cà phê tăng 26%, chè tăng 14%, cao su tăng 5%...

Phát triển rộng rãi trong nhân dân phong trào trồng dâu, nuôi tằmnhững cây có sợi khác như bông, bông gòn, lanh, dứa dại, v.v., ở tất cả những nơi có điều kiện để từng bước giải quyết nhu cầu về mặc. Chú ý phát triển cây dược liệu.

3. Chăn nuôi: Khuyến khích phát triển mạnh chăn nuôi gia đình. Chú trọng phát triển trâu, bò để giải quyết sức kéo. Đàn lợn tăng 6% so với năm 1981, sản lượng thịt lợn hơi tăng 9%. Đàn trâu tăng 4%, đàn bò tăng 4%. Cân đối thức ăn để duy trì và phát triển đàn lợn và gà công nghiệp tập trung chung quanh các thành phố lớn.

II- LÂM NGHIỆP VÀ NGƯ NGHIỆP

Về lâm nghiệp: khai thác gỗ tăng 5% so với năm 1981. Ưu tiên bảo đảm cho khai thác gỗ trụ mỏ, nguyên liệu giấy, gỗ làm hàng tiêu dùng, gỗ bao bì, đóng phương tiện vận tải, bán cho nông dân để thu mua nông sản, xuất khẩu...

Sử dụng quỹ nuôi rừng để nhanh chóng trồng rừng tập trung, phủ xanh đồi trọc; chú trọng việc quy hoạch và trồng rừng các vùng trọng điểm gỗ trụ mỏ, nguyên liệu giấy sợi và trồng rừng biên giới,... Phát động phong trào rộng khắp trong nhân dân các địa phương trồng cây lấy gỗ, củi.

Đẩy mạnh trồng và khai thác các lâm sản quý như nhựa thông, cánh kiến, quế và các lâm sản khác như tre, song, mây, lá buông, cây có dầu, cây dược liệu.

Tăng cường bảo vệ rừng, có biện pháp phòng và chống nạn đốt, phá rừng.

Các tỉnh còn đồng bào du canh cần có kế hoạch định canh để sớm hoàn thành việc định canh, định cư.

Về ngư nghiệp: Tổ chức lại sản xuất của ngành Hải sản cho phù hợp với khả năng vật tư và điều kiện sản xuất của từng vùng; phát triển đánh bắt cá bằng những phương tiện thủ công, dành xăng dầu cho những nơi, những nghề sử dụng phương tiện cơ giới có hiệu quả kinh tế cao.

Sản lượng cá biển tăng 5% so với năm 1981, thu mua giao nộp tăng 12%, chế biến nước mắm tăng 20%, giá trị hải sản xuất khẩu tăng 20%.

Tận dụng các mặt nước để nuôi cá nước ngọt, nhất là ở các vành đai thực phẩm; củng cố và phát triển các cơ sở nuôi cá giống; tổ chức quản lý, khai thác tốt cá sông ngòi, đầm, đạt sản lượng cá nuôi tăng 6% so với năm trước.

III- CÔNG NGHIỆP

Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng để tăng nguồn hàng đối lưu với nông dân, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, mở rộng thị trường trong nước và góp phần tăng nhanh hàng xuất khẩu; trước hết là các mặt hàng thiết yếu đối với đời sống, như vải, giấy, thuốc chữa bệnh. Ưu tiên bảo đảm các điều kiện cho các ngành công nghiệp then chốt: điện, than, phân bón, v.v., để các ngành này phục vụ đắc lực nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và giao thông vận tải.

Trong điều kiện vật tư, năng lượng có hạn, một mặt phải cố gắng bảo đảm cho những nhiệm vụ quan trọng nhất, sản xuất những mặt hàng thiết yếu nhất như vải, giấy, thuốc chữa bệnh,...; mặt khác, các địa phương, các cơ sở cần cố gắng đến mức cao nhất, khai thác các nguồn năng lượng, nguyên liệu, vật tư của địa phương để sản xuất tại chỗ hoặc trao đổi với các đơn vị khác. Phải kiểm kê lại tất cả những ngành, nghề mà chúng ta có, khôi phục lại những ngành nghề bị sao lãng, mai một. Khuyến khích mạnh tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển theo hướng tinh xảo, đặc biệt là tận dụng nguyên liệu tại chỗ và phế liệu, phế phẩm để đẩy mạnh sản xuất. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán phải tổ chức nắm nguồn hàng này để tăng lực lượng hàng hóa trong tay Nhà nước và làm chủ thị trường. Phải tận dụng tất cả các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp, từ hợp tác xã, tổ đoàn kết sản xuất đến thợ thủ công cá thể sản xuất ở gia đình và nghề phụ ở nông thôn. Phải tận dụng thế mạnh của các thành phố (nhất là thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh) để phát triển công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Sản lượng vải tăng 62% so với năm 1981, giấy tăng 31%, trong đó giấy viết tăng 33%, lốp xe đạp tăng 40%, phụ tùng xe đạp tăng 18%,... Phải ưu tiên bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết cho sản xuất các mặt hàng này, đặc biệt đối với sản xuất sợi, vải.

Về điện, tận lực huy động công suất của các nhà máy hiện có, huy động thêm nguồn điện tuốc bin khí ở Thái Bình và Hải Phòng... để tăng sản lượng 6% so với năm 1981.

Sắp xếp lại sản xuất công nghiệp, xây dựng cho phù hợp với khả năng cung cấp nguyên liệu và năng lượng. Có kế hoạch tổ chức sản xuất ca đêm để sử dụng hợp lý nguồn điện. Tiết chế nghiêm ngặt điện trong sinh hoạt. Chấn chỉnh công tác quản lý ngành Điện, ban hành chính sách tiết kiệm điện. Ngành Điện cần có biện pháp giảm đến mức thấp nhất điện tự tiêu dùng và điện tổn thất trên đường dây.

Sản lượng than tăng 3% so mới năm 1981. Thực hiện tốt kế hoạch bốc đất đá để chuẩn bị cho việc khai thác than các năm sau.

Có biện pháp hoàn thiện hệ thống tuyển, rửa để tăng chất lượng than. Đẩy mạnh khai thác than ở các địa phương, kể cả than nâu và than bùn. Trong việc phân phối than, phải bảo đảm yêu cầu than xuất khẩu, than cho các nhà máy nhiệt điện, cho vận tải, cho các xí nghiệp dệt, sợi, thủy tinh xuất khẩu, giấy, sản xuất phân bón, và các xí nghiệp chế biến thực phẩm quan trọng...

Về dầu khí: Tiến hành thi công giếng khoan sâu đầu tiên thuộc thềm lục địa phía Nam theo chương trình hợp tác với Liên Xô. Hoàn thành xây dựng một số công trình phụ trợ trong Khu công nghiệp dầu khí Vũng Tầu. Tiếp tục triển khai tìm kiếm xác định trữ lượng ở các cấu tạo Đông Quan, Tiền Hải (Thái Bình).

Về cơ khí: Trong tình hình vật tư, năng lượng có hạn, cần tập trung đẩy mạnh sản xuất công cụ lao động, phụ tùng sửa chữa cho các ngành, sản xuất các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, giao thông vận tải; tăng các sản phẩm phục vụ xuất khẩu và một số mặt hàng tiêu dùng.

Dự kiến sản xuất phụ tùng tăng 12% so với năm 1981, tăng mức trung tu, đại tu sà lan, ca nô, tàu kéo, toa xe, đầu máy xe lửa và ôtô lên 12-25%, sản xuất 20 triệu công cụ lao động, tăng 24%, thuyền xi măng lưới thép tăng 25%, bơm thuốc trừ sâu tăng 70%, tăng các mặt hàng tiêu dùng như xe đạp, phụ tùng xe đạp, đồng hồ, máy khâu, quạt máy, v.v..

Về luyện kim: Cần đẩy mạnh khai thác than mỡ ở mỏ Phấn Mễ và nhập thêm để cung cấp cho Nhà máy Gang thép Thái Nguyên hoạt động. Tăng sản lượng thiếc và bảo đảm khai thác cờrôm xuất khẩu.

Về hóa chất: Sản xuất phân đạm tăng 67%, thuốc trừ sâu tăng 35%, sơn hóa học tăng 32%, đất đèn tăng 43%, tăng mức sản xuất xà phòng, bột giặt,...

Xúc tiến việc sản xuất thử các thiết bị sản xuất xút với công suất nhỏ.

Về vật liệu xây dựng: Đẩy mạnh xây dựng hai nhà máy xi măng Bỉm Sơn và Hoàng Thạch để bảo đảm tiến độ huy động vào sản xuất, đưa sản lượng xi măng tăng 77% so với năm 1981; gạch tăng 34%; ngói tăng 19%; khai thác đá tăng 8,5%,...

IV- VẬN TẢI VÀ BƯU ĐIỆN

Nhanh chóng khắc phục tình trạng yếu kém của ngành Vận tải. Đi đôi với việc tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, phải kiên quyết chấn chỉnh công tác tổ chức quản lý, nâng cao năng lực chỉ đạo của ngành Vận tải, nhất là đối với đường sắt, đường biển, đường sông, các bến cảng, trước hết là giảm thời gian quay vòng toa xe, giảm thời gian chờ đợi xếp dỡ của các phương tiện, v.v., nhằm bảo đảm các mục tiêu chính: tiếp nhận, vận chuyển hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu, than, gỗ, vận chuyển lương thực, vận chuyển cho các tỉnh biên giới phía Bắc, vận chuyển nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới,.. Nâng cao các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật và hiệu quả của vận tải.

Sử dụng các biện pháp tổ chức quản lý, khoa học - kỹ thuật, kết hợp với sắp xếp lại mạng lưới vận tải, phát triển mạnh vận tải địa phương, sử dụng rộng rãi các phương tiện vận tải thô sơ để thích ứng với cân đối xăng dầu hiện nay.

Dự kiến khối lượng vận tải đường sắt tăng 22%, đường biển tăng 15%, đường sông tăng 11% so với năm 1981.

Phát huy mọi năng lực hiện có, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, với chất lượng tốt từ Trung ương đến các địa phương, nhất là đến các vùng trọng điểm kinh tế, quốc phòng, bảo đảm thông tin quốc tế, đưa giá trị sản lượng nghiệp vụ bưu điện tăng 12% so với năm 1981.

V- XÂY DỰNG CƠ BẢN

Bố trí vốn đầu tư tập trung, phù hợp với khả năng thực tế. Trước hết, tập trung cho các ngành then chốt của nền kinh tế, như nông nghiệp, công nghiệp điện, than, dệt sợi, giấy, dầu khí, phân bón, luyện kim (thiếc), vật liệu xây dựng, thực phẩm, giao thông vận tải để đạt cho được những mục tiêu thiết yếu nhất.

Ưu tiên tiền vốn, vật liệu xây dựng cho các công trình trọng điểm của Nhà nước, như Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Thủy điện Hòa Bình, các mỏ than, Nhà máy sửa chữa ôtô mỏ, Nhà máy động cơ đieden Gò Đầm, các nhà máy kéo sợi, các nông trường trồng cây công nghiệp hợp tác với các nước, các lâm trường sản xuất gỗ nguyên liệu cho công nghiệp và gỗ xuất khẩu, các khâu quan trọng của giao thông vận tải như khu vực cảng Hải Phòng, cảng Cửa Lò; các tuyến đường sắt phục vụ khai thác than, apatít, đường sắt Thống Nhất,... Bảo đảm tiến độ các công trình sắp hoàn thành đi vào sản xuất. Đầu tư thích đáng xây dựng nhà ở của Hà Nội và của các xí nghiệp đã và sẽ đi vào sản xuất, các kho lương thực và nông sản.

Phải hạn chế khởi công xây dựng các công trình mới, dãn tiến độ xây dựng một số công trình xét thấy không bảo đảm được các điều kiện xây dựng và các điều kiện huy động vì thiếu nguyên liệu, năng lượng sau khi xây dựng xong, các công trình chưa có yêu cầu cấp thiết và không có hiệu quả kinh tế. Vốn đầu tư của các địa phương cũng phải tập trung trước hết cho nông nghiệp. Khắc phục mọi biểu hiện phân tán, phô trương, lãng phí trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản; triệt để thực hiện tiết kiệm trong thiết kế, thi công và xây dựng bỏ bao che...

Với hướng bố trí kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản như trên, trong năm 1982 và 1983, những công trình lớn sau đây sẽ đi vào sử dụng: nhiệt điện Phả Lại (tổ máy I), xi măng Hoàng Thạch, xi măng Bỉm Sơn, sợi Nha Trang, sợi Hà Nội, đường La Ngà, ba nhà máy gỗ lạng ở Buôn Mê Thuộc, Gia Lai - Công Tum, Sông Bé, xây dựng 10 vạn tấn kho lương thực, 18 vạn mét vuông nhà ở cho Hà Nội và các khu công nghiệp.

VI- XUẤT, NHẬP KHẨU VÀ HỢP TÁC KINH TẾ
 VỚI NƯỚC NGOÀI

Xuất khẩu và hợp tác quốc tế với nước ngoài là nhiệm vụ chiến lược cấp bách và lâu dài đối với nước ta. Phải ra sức phát triển sản xuất và tiết kiệm tiêu dùng trong nước để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, giải quyết các mất cân đối giữa xuất và nhập khẩu; đồng thời mở rộng hình thức doanh nghiệp dịch vụ, cung ứng tàu biển, du lịch,..., thực hiện các biện pháp, chính sách thích hợp để thu hút các nguồn kiều hối, mở các cửa hàng kinh doanh thu ngoại tệ,...

Ra sức mở rộng hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia; đồng thời, mở rộng quan hệ ngoại thương và hợp tác kinh tế với các nước khác.

Xuất khẩu là nghĩa vụ của mọi ngành, mọi địa phương và mỗi cơ sở. Từng ngành, từng địa phương và đơn vị cơ sở phải khai thác mọi khả năng để tăng nguồn xuất khẩu. Nói chung, ngành nào, địa phương nào cũng phải tính toán, tìm mọi khả năng tăng mạnh xuất khẩu để bảo đảm yêu cầu nhập khẩu.

Chúng ta có đất đai và điều kiện thuận lợi để tăng diện tích trồng cây công nghiệp. Phấn đấu đưa thêm được mỗi năm hàng chục vạn lao động vào mặt trận nông nghiệp, thực hiện tăng vụ và khai hoang để trồng cây công nghiệp ngắn ngày, thì sẽ mở ra một khả năng lớn đẩy mạnh xuất khẩu. Đó là con đường mà nông nghiệp phải phấn đấu để tự trang bị kỹ thuật cho mình và góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước sẽ tìm mọi cách thực hiện cho được nhiệm vụ đó, đồng thời sẽ tạo mọi điều kiện để giúp các tỉnh, các huyện đẩy mạnh xuất khẩu.

Ưu tiên đầu tư để tăng nhanh năng lực xuất khẩu, phấn đấu tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chú trọng các nguồn hàng xuất khẩu về nông sản, lâm sản, khoáng sản, hải sản, hàng tiêu dùng, cơ khí...

Các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất cần thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch giao nộp hàng xuất khẩu cho Trung ương. Phần xuất khẩu tăng thêm về những mặt hàng này và những mặt hàng không do Nhà nước thống nhất quản lý, địa phương có thể xuất để nhập các vật tư, hàng hóa cần thiết.

Dự kiến kim ngạch xuất khẩu tăng 45% so với năm 1981, trong đó hàng nông sản và nông sản chế biến tăng 62%, hàng lâm sản tăng 60%, hải sản tăng 20%, hàng khoáng sản tăng 67%, hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp tăng 28%. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng khá: đậu tương (các năm trước chưa xuất khẩu), lạc tăng 15%, rau quả hộp tăng 30%, quả ướp đông tăng 60%, cà phê tăng 33%, rượu tăng 20%, chè tăng 10%, quế gấp hai lần, v.v., so với năm 1981, và đặc biệt, thuốc lá tăng mạnh.

VII- KHOA HỌC - KỸ THUẬT

Đẩy mạnh việc áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, coi đó là một bộ phận quan trọng của kế hoạch nhà nước. Trong năm 1982 và các năm sau, tập trung giải quyết các mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Góp phần tăng nhanh sản lượng lương thực, thực phẩm: Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống sản xuất và cung cấp giống lúa từ Trung ương tới cơ sở (hợp tác xã). Đưa vào sản xuất trên hàng vạn ha các giống lúa mới có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh, chịu chua mặn, chịu chân trũng... áp dụng quy trình tưới tiêu khoa học cho trên 50 vạn ha có hệ thống thủy nông hoàn chỉnh. Phổ biến rộng rãi kỹ thuật bón phân đạm viên, quy trình chế biến phân chuồng, phát triển bèo dâu, điền thanh, cốt khí. Mở rộng các mô hình cải tạo đất bạc màu, đất dốc, đất phèn. Nhanh chóng hoàn chỉnh và xây dựng hệ thống bảo vệ thực vật ở hợp tác xã, áp dụng tổng hợp các biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại lúa. Tăng nhanh diện tích trồng các giống khoai tây mới. Phổ biến giống ngô, đậu tương ngắn ngày, mở rộng vụ đông trên đất lúa xuân ở miền Bắc.

Phát triển nhanh các giống lợn mới, giám định, bình tuyển lợn nái, tăng đàn lợn lai kinh tế, áp dụng biện pháp tổng hợp phòng trừ bệnh cho lợn. Áp dụng biện pháp tiêu diệt bệnh toi gà trên quy mô toàn tỉnh.

Áp dụng tổng hợp các kỹ thuật tiến bộ về nuôi cá tăng sản, cho cá đẻ nhân tạo, phổ biến các giống cá mới, năng suất cao, bảo đảm đủ giống và giống tốt, v.v., cho vành đai thực phẩm các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung, nhằm sử dụng hết khả năng nuôi cá ở các khu vực này. Áp dụng các kỹ thuật tiến bộ đánh bắt tôm, cá để tăng sản lượng cá, tôm xuất khẩu. Áp dụng các biện pháp bảo quản tôm, cá xuất khẩu.

- Góp phần giải quyết các khó khăn và tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng: Áp dụng công nghệ sản xuất, sửa chữa tàu, thuyền bằng xi măng lưới thép, phổ biến rộng rãi công nghệ kéo nguội cốt thép, hàn đối đầu và hàn điện; áp dụng quy trình đúc gang tiến bộ, giảm tỷ lệ phế phẩm dưới 15%...

Áp dụng rộng rãi các thiết kế định hình, mở rộng sản xuất gạch không nung, các chất kết dính thay thế xi măng mác thấp, gạch chịu lửa và các nguyên liệu khác, như sản xuất axít phốtphorích, sơn chống bám bẩn đáy tàu, nguyên liệu bột giặt,...

Áp dụng các biện pháp kỹ thuật đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng trồng rừng, đẩy nhanh tốc độ vận xuất, vận chuyển gỗ, lắp đặt dây chuyền cưa xẻ gỗ tại cửa rừng, đưa hệ số sử dụng gỗ từ 40% lên 50-60%, đẩy mạnh ngâm tẩm, bảo quản gỗ.

Áp dụng bù công suất vô công cho hệ thống điện miền Bắc để tiết kiệm 30 - 50 kWh điện, sản xuất các thiết bị sử dụng các dạng năng lượng mới: khí sinh vật, động cơ gió bơm nước.

- Góp phần giải quyết các khó khăn về thiếu thiết bị, phụ tùng: Mở rộng áp dụng công nghệ sản xuất bộ đôi kim phun, với phun bơm cao áp của động cơ điêden. Sản xuất trục cán thép, vòng cao su kéo giãn sợi, thoi gỗ nén cho máy sợi. Sản xuất động cơ D 12M cải tiến có độ bền gấp hai lần so với trước, dao phay lăn răng dạng chắp.

- Góp phần nâng cao năng lực giao thông vận tải: Mở rộng việc áp dụng các phương tiện vận tải mới (tàu mẹ chở tàu con), cải tiến công nghệ bốc dỡ (dùng côngtơnơ), áp dụng tổ chức khoa học trong điều độ và tổ chức lại các kho bãi, đặc biệt là khu đầu mối trong vận tải đường sắt, vận tải ôtô; tăng nhanh thời gian quay vòng phương tiện, tăng hệ số sử dụng quãng đường.

Tiếp tục thực hiện các chương trình tiến bộ khoa học - kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân trong 5 năm 1981 - 1985.

- Đẩy mạnh công tác quản lý kỹ thuật: tiêu chuẩn hóa, đo lường, quản lý chất lượng sản phẩm một cách đồng bộ nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm và hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất và góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Tiến hành soát xét, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn. Trang bị đầy đủ các phương tiện và dụng cụ đo lường cho các cơ sở sản xuất và phân phối lưu thông, đặc biệt là đối với các sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phấn đấu giữ vững và ổn định chất lượng các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.

Cần bảo đảm công tác thông tin khoa học - kỹ thuật phục vụ các chương trình tiến bộ khoa học - kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước, tăng cường cơ sở vật chất về thông tin cho một số Bộ có yêu cầu cấp bách, từng bước hoàn chỉnh mạng lưới thông tin trong toàn quốc.

Những chương trình tiến bộ kỹ thuật đã được Hội đồng khoa học - kỹ thuật của các bộ và Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước xét duyệt cần được thực hiện trong các kế hoạch của nền kinh tế quốc dân năm 1982 và các năm sau.

VIII- LAO ĐỘNG VÀ ĐÀO TẠO

Để giải quyết việc làm cho người lao động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lao động xã hội, từng địa phương, từng huyện phải có kế hoạch cân đối lao động với việc làm. Chú trọng giải quyết việc làm cho thanh niên ở các thành phố, trước hết là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng.

Ngoài việc phân bổ lao động tại chỗ để thâm canh và tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và đàn gia súc, phải phát triển mạnh các ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp, sử dụng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ để vừa thu hút thêm lao động vào sản xuất, vừa tạo thêm những mặt hàng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Phân bố lại lao động trên phạm vi cả nước là một nhiệm vụ chiến lược nhằm mở mang kinh tế, củng cố quốc phòng.

Cần phát động cuộc vận động cách mạng sâu rộng trong nhân dân, trong các đoàn thể quần chúng, đặc biệt là thanh niên, kêu gọi tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đi khai khẩn các vùng đất mới nhằm giải quyết vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước. Nhiệm vụ này cần được thực hiện bằng nhiều hình thức, tập trung và phân tán, đi trong phạm vi mỗi huyện, mỗi tỉnh, từng vùng và cả nước theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng lo liệu, cùng làm...

Trong khu vực Nhà nước, trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ bản, cần sắp xếp, chấn chỉnh lại tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết giảm mạnh biên chế, nhất là biên chế hành chính khu vực Nhà nước; đồng thời từng bước đổi mới cơ cấu lao động của khu vực Nhà nước bằng việc thu nhận số được đào tạo trong các trường công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp và đại học; thay thế số cán bộ, công nhân già yếu, hạn chế về trình độ và năng lực bằng lực lượng trẻ, khỏe, có trình độ và năng lực phù hợp với công tác được giao.

Ban hành chính sách và mở cuộc vận động cán bộ, công nhân về nông thôn tham gia sản xuất nông nghiệp, trước hết là đối với số cán bộ, nhân viên mới tuyển, chưa qua đào tạo. Buộc thôi việc đối với những người vi phạm kỷ luật lao động.

Mở rộng việc khoán quỹ lương theo khối lượng sản xuất - kinh doanh. Chấn chỉnh công tác tiền lương, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động và phù hợp với tình hình giá cả thay đổi.

Về đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật: Trên cơ sở xác định lại quy mô đào tạo, sắp xếp lại mạng lưới các trường đào tạo cho phù hợp hơn với khả năng kinh tế, tài chính và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn trước mắt và sau này; đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo; chuyển mạnh sang hình thức đào tạo chuyên tu, tại chức. Chú ý hơn nữa việc bổ túc đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và đốc công.

Cần chuyển học sinh hiện có của các ngành học chưa có yêu cầu sử dụng sang học các ngành học đang còn thiếu; chỉ tuyển mới có mức độ và phải tính toán chặt chẽ.

Kết hợp việc tuyển sinh đào tạo theo địa phương và vùng lãnh thổ với yêu cầu sử dụng tại chỗ. Mở rộng việc đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật cho khu vực kinh tế tập thể.

Nghiên cứu và ban hành chế độ, chính sách đối với cán bộ đại học và trung học chuyên nghiệp được phân công về làm việc ở các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp, đi miền núi...

IX- THƯƠNG NGHIỆP VÀ ĐỜI SỐNG

Tập trung nắm nguồn hàng vào tay Nhà nước, nhất là các nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu, hàng tiêu dùng thiết yếu cho công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang. Thực hiện các biện pháp nghiêm ngặt để Nhà nước nắm cho được toàn bộ sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh và đại bộ phận sản phẩm của các hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.

Mỗi địa phương, mỗi vùng cần đẩy mạnh sản xuất, thu mua, nắm nguồn hàng để tự trang trải nhu cầu tại chỗ, giảm bớt căng thẳng về vận chuyển.

Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải được tăng cường nhanh chóng để làm chủ thị thường, đồng thời tăng cường quản lý thị trường tự do, đấu tranh chống các hành động phá rối thị trường. Dự kiến lương thực Nhà nước huy động tăng 32%, thịt lợn tăng 22%, đỗ tương gấp 3,3 lần, lạc tăng 40%, đay tăng 20%, cói tăng 22%, muối tăng 48%, nước chấm tăng 23%, đường mật tăng 30%, v.v., so với năm 1981.

Việc phân phối hàng hóa đối với từng địa phương phải cân đối với sức mua, đồng thời căn cứ vào mức đóng góp của địa phương cho nhu cầu chung của cả nước.

Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, nắm nguồn hàng vào tay Nhà nước, cố gắng bảo đảm nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như vải mặc, giấy viết, thuốc chữa bệnh, săm lốp, phụ tùng xe đạp, xà phòng, chiếu cói, đồ sứ, v.v.; cố gắng bảo đảm cung cấp những mặt hàng tiêu chuẩn định lượng để ổn định đời sống của công nhân, viên chức, các lực lượng vũ trang, chú trọng ở các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung.

Dù hoàn cảnh khó khăn như thế nào, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa cũng phải luôn luôn phấn đấu là người nội trợ tốt của mọi gia đình và góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển.

X- TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ VÀ GIÁ CẢ

Sớm nghiên cứu các chính sách tài chínhtiền tệ, nhằm chuyển từ nền kinh tế phụ thuộc bên ngoài sang xây dựng nền kinh tế dựa trên cơ sở khai thác các khả năng của bản thân mình là chính, chuyển từ cơ chế bao cấp sang hạch toán kinh doanh, từ ỷ lại sang làm chủ, tự lực tự cường, phát huy vai trò của tài chính và tiền tệ thúc đẩy việc đổi mới quản lý kinh tế và phát triển sản xuất, phục vụ việc ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Điều chỉnh lại phân phối theo nguyên tắc: chỉ phân phối và tiêu dùng trong phạm vi thu nhập quốc dân cho phép, bổ sung dự trữ và từng bước có tích lũy. Phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi. Thực hiện điều hòa thống nhất quản lý lưu thông tiền tệ, tăng cường kỷ luật tài chính, tiền tệ.

Về giá cả, tiền lương: Giải quyết tốt các hệ quả của việc điều chỉnh giá và các vấn đề phát sinh, trên cơ sở đó phấn đấu bằng mọi cách ổn định hệ thống giá mới, bao gồm giá thu mua, giá bán buôn, giá bán lẻ, tăng cường kỷ luật giá cả. Bằng mọi biện pháp, cố gắng giữ tiền lương thực tế của công nhân, viên chức để bảo đảm đời sống và sức khỏe của công nhân, viên chức.

XI- VĂN HÓA, GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ XÃ HỘI

Về công tác nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội: Các ngành khoa học xã hội phải chuyển biến mạnh mẽ để phát huy hơn nữa vai trò tích cực của mình trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, đẩy mạnh cách mạng văn hóa và tư tưởng; kết hợp chặt chẽ việc tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin với việc thuyết minh, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng; đẩy mạnh công tác nghiên cứu các vấn đề về quản lý kinh tế, quản lý xã hội cũng như các vấn đề cụ thể của ba cuộc cách mạng. Xúc tiến nghiên cứu các đề tài khoa học xã hội về làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, lý luận về Nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa, v.v..

Về văn hóa, thông tin: Hướng các hoạt động văn hóa, thông tin, nghệ thuật vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, nhằm thực hiện tốt kế hoạch nhà nước năm 1982, đồng thời, đấu tranh mạnh mẽ chống chiến tranh tâm lý của địch; chống các tư tưởng bi quan, tiêu cực, vô tổ chức, vô kỷ luật; loại trừ văn hóa nô dịch, đồi trụy, mê tín, dị đoan. Đi đôi với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật cần phát triển mạnh, góp phần tăng nguồn thu cho Nhà nước.

Dự kiến số trang in sách giáo khoa tăng 4%. Chấn chỉnh công tác xuất bản nhằm nâng cao chất lượng sách, báo, tạp chí; giảm bớt sách, báo, tạp chí chưa có yêu cầu thật cần thiết.

Nâng cao chất lượng các buổi phát thanh, truyền hình; kịp thời phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, động viên tinh thần phấn khởi, lạc quan cách mạng của nhân dân.

Việc sản xuất và phát hành phim cần kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị và bảo đảm kinh doanh lấy thu bù chi, tiến tới có lãi.

Về giáo dục: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tiếp tục thực hiện từng bước cải cách giáo dục. Khuyến khích và chỉ đạo tốt phong trào các trường học tham gia lao động sản xuất thêm sản phẩm cho xã hội. Chú trọng giáo dục kỹ thuật và hướng nghiệp cho học sinh ra trường. Đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa tại chức, có kế hoạch chống mù chữ trở lại, nhất là ở các tỉnh miền núi. Tăng cường bổ túc văn hóa tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh miền Nam. Củng cố các lớp mẫu giáo hiện có, bảo đảm thu nhận khoảng 33% số trẻ trong độ tuổi.

Dự kiến số học sinh mẫu giáo năm học 1982-1983 khoảng 1,6 triệu cháu. Số học sinh phổ thông đầu năm học 12,3 triệu (trong đó, cấp I phổ thông cơ sở 8,2 triệu em, cấp II - 3,4 triệu em, phổ thông trung học - 75 vạn em); số học sinh bổ túc văn hóa tập trung khoảng 5 vạn người, tăng 15%.

Về y tế, xã hội, thể dục, thể thao: Đẩy mạnh cuộc vận động vệ sinh, phòng bệnh, tăng cường việc sản xuất vắcxin để chủ động ngăn ngừa dịch bệnh. Phát huy tác dụng của mạng lưới y tế cơ sở, đặc biệt là y tế xã, để làm tốt hơn nữa việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ sở điều trị, điều dưỡng hiện có, đẩy nhanh việc xây dựng các công trình nước ngoài viện trợ.

Trong điều kiện ta chưa sản xuất được thuốc kháng sinh và sản xuất hóa dược còn nhỏ bé, việc vận động trồng và sử dụng rộng rãi cây làm thuốc tại xã, và trong mỗi gia đình, cũng như việc tăng cường sử dụng dược liệu trong nước làm nguyên liệu trong công nghiệp dược phẩm là một yêu cầu hết sức bức thiết.

Cải tiến việc quản lý và phân phối thuốc, ưu tiên cung cấp đủ thuốc cho người đang điều trị ở bệnh viện; bảo đảm thuốc đến người bệnh. Nghiêm trị bọn đầu cơ thuốc và sản xuất thuốc giả.

Dự kiến có 11.430 cơ sở điều trị, điều dưỡng (kể cả 2.100 trạm y tế xã), với gần 20 vạn giường bệnh, tăng 3,7% so với năm 1981.

Củng cố và kiện toàn các cơ sở nuôi dưỡng thương, bệnh binh, kết hợp tốt công tác điều trị với phục hồi chức năng lao động. Nghiên cứu, bổ sung chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Nâng cao chất lượng các nhà trẻ; tiếp nhận khoảng 1,3 triệu cháu vào các nhà trẻ, tăng 2% so với năm 1981. Đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch phải được xem là nhiệm vụ của tất cả các ngành để hạ tỷ lệ tăng dân số hơn nữa, đến năm 1985, bình quân cả nước đạt 1,7%, đi đôi với tăng cường công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

Tiếp tục mở rộng cuộc vận động rèn luyện thân thể trong nhân dân, phấn đấu năm 1982 có 2,6 triệu người đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, tăng 4%; số vận động viên tăng 2% so với năm 1981.

PHẦN THỨ BA

TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Chúng ta bước vào năm 1982 với một sự nhất trí cao trong việc đánh giá tình hình và vạch ra bước đi của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ hiện nay. Chúng ta nhận thức sâu sắc hơn những năng lực sẵn có cũng như những khả năng tiềm tàng của đất nước, đặc biệt là những khả năng về lao động, đất đai, ngành nghề là những vốn quý đầu tiên mà chúng ta có thể sử dụng.

Kế hoạch nhà nước năm 1982 đã được bố trí trên cơ sở tính toán và tiến hành một bước việc sắp xếp lại một số mặt trong sản xuất, xây dựng và đời sống cho phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế để tập trung các điều kiện cần thiết cho những mục tiêu quan trọng nhất, những nhu cầu bức thiết nhất, nhằm khắc phục một bước các khó khăn và mất cân đối hiện nay, đồng thời tạo thế đi lên vững chắc cho nền kinh tế trong những năm sau.

Trong điều kiện còn phải khắc phục những khó khăn và mất cân đối từ những năm trước dồn lại, muốn ổn định một bước kinh tế và đời sống, phải đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, giảm tiêu hao năng lượng, vật tư, sử dụng tốt công suất thiết bị, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế, kiên quyết tăng thu, tiết kiệm chi để bảo đảm cân đối ngân sách nhà nước. Muốn vậy, phải có một loạt biện pháp, chế độ, chính sách thích hợp. Đồng thời, sự chuyển biến của tình hình còn tùy thuộc rất lớn vào nhân tố có tính chất quyết định của công tác tổ chức quản lý và việc chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở.

Nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch năm 1982 và một số năm tiếp theo hết sức nặng nề:

- Từ chỗ đời sống xã hội dựa một phần vào bên ngoài, phải tiến lên tự bảo đảm lấy mọi nhu cầu;

- Từ chỗ nền kinh tế chưa bảo đảm được tái sản xuất giản đơn tiến lên có tích lũy để tái sản xuất mở rộng;

- Từ cơ cấu kinh tế có phần không hợp lý chuyển sang cơ cấu quản lý kinh tế thích hợp với bước đi ban đầu;

- Từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp chuyển sang cơ chế quản lý kinh doanh, hạch toán phù hợp với quy luật kinh tế khách quan;

- Từ trạng thái kinh tế không bình thường chuyển lên trạng thái ổn định trên cơ sở mới.

Chúng ta hoàn toàn có thể khai thác được các tiềm năng đó nếu nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn các vấn đề có tính quy luật trong đường lối đúng đắn do Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra. Trước hết là, thực hiện việc chuyển mạnh từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa, hạch toán kinh tế; thực hiện đúng đắn chế độ làm chủ tập thể ở các cấp; thực hiện sự thống nhất và kết hợp đúng đắn giữa ba lợi ích: lợi ích của xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích cá nhân của người lao động; phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của các đơn vị cơ sở và tính tích cực của mỗi người trong lao động sản xuất, cũng như ý thức trách nhiệm của các ngành, các địa phương trong chỉ đạo thực hiện.

Vì vậy, phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương, nhất là của cơ sở; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân để vươn lên nhanh chóng bảo đảm cho được mọi nhu cầu thiết yếu của sản xuất, đời sống, quốc phòng và an ninh. Tình hình đòi hỏi cấp bách phải đạt được ngay trong năm 1982 một sự chuyển biến sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội, khắc phục dần các mặt mất cân đối, bảo đảm tạo ra thế cân đối mới, một trật tự mới để đưa nền kinh tế tiến lên. Muốn vậy, trong các ngành, các cấp, trong nhân dân, phải chuyển biến một cách căn bản từ nhận thức tư tưởng đến cách làm kế hoạch, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện. Đặc biệt, phải làm cho mỗi người công dân: công nhân, nông dân, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang, mỗi người lao động chân tay và trí óc, thấy được vai trò và trách nhiệm làm chủ của mình ngay tại cơ sở, tại từng hợp tác xã, nhà máy, công trường, nông trường, từ đó dấy lên phong trào cách mạng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước. Phải áp dụng những phương thức quản lý mới, thực hiện phương châm: “Trung ương, địa phương và cơ sở, Nhà nước và nhân dân cùng làm” để nhanh chóng vươn lên bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, đồng thời từng bước tạo tích lũy từ nội bộ nền kinh tế nói chung, cũng như trong từng ngành, địa phương và cơ sở nói riêng.

Xuất phát từ cách đặt vấn đề như trên, chúng ta phải:

1. Tăng cường và cải tiến công tác quản lý kinh tế. Kiên quyết nhanh chóng xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa phù hợp với quá trình từng bước đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh đề án về đổi mới công tác quản lý kinh tế. Trong khi chưa giải quyết được vấn đề một cách cơ bản, cần phải giải quyết cụ thể một số vấn đề cấp bách về quan hệ giữa kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương, về bảo đảm phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở, của địa phương, của ngành dưới sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước. Cần xúc tiến nghiên cứu pháp chế kinh tế và tăng cường pháp chế kinh tế xã hội chủ nghĩa; củng cố quyền quản lý tập trung của Nhà nước; xây dựng trật tự kỷ luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt trong tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất; tình trạng cồng kềnh, trì trệ, kém hiệu lực, thiếu kỷ cương trong bộ máy quản lý và trong phong cách quản lý.

2. Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa, gắn liền với hạch toán và kinh doanh.

a) Để phát huy năng lực hiện có và khả năng tiềm tàng của đất nước, cần đổi mới công tác kế hoạch hóa. Thực hiện ba cấp cơ bản làm kế hoạch, gắn kế hoạch hóa với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng kế hoạch từ các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp và rất coi trọng kế hoạch của địa phương, đặc biệt là xây dựng kế hoạch cấp huyện. Đó là vấn đề có tính quy luật, bảo đảm cho việc phát triển kinh tế địa phương tăng nhanh sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường trong nước và thực hiện sự phân bố, phân công lao động trong cả nước.

Tích cực xây dựng 400 huyện, coi huyện là địa bàn quan trọng để thực hiện làm chủ tập thể về kinh tế kết hợp với làm chủ tập thể về các mặt khác. Coi huyện là cơ cấu kinh tế (trong đó đơn vị cơ sở là hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, các xí nghiệp nhỏ và đơn vị kinh tế khác); lấy huyện làm địa bàn phân công lao động, tổ chức lại sản xuất, sử dụng tốt lao động và đất đai, đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật, thực hiện thâm canh, chuyên canh, mở mang ngành nghề, sản xuất hàng xuất khẩu.

Muốn tạo được sự phát triển mạnh mẽ đó, chỉ riêng sự phát triển các ngành kinh tế ở Trung ương thì không đủ, tuy rằng đó là một phương hướng rất quan trọng. Từng ngành, từng cấp cần được xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mình để biết rõ mình làm chủ được bao nhiêu lao động, đất đai, có bao nhiêu ngành nghề, cơ sở vật chất, hàng năm nhận được của Nhà nước bao nhiêu vật tư, hàng hóa; do đó phải sản xuất và tái sản xuất mở rộng bao nhiêu để bảo đảm đời sống trong phạm vi mình phụ trách, đồng thời giao nộp bao nhiêu sản phẩm cho Nhà nước, đóng góp bao nhiêu cho sự nghiệp xây dựng đất nước và quốc phòng. Theo phương pháp đó, cần cải tiến nội dung số kiểm tra và hệ thống chỉ tiêu kế hoạch giao cho các ngành, địa phương và cơ sở.

b) Kế hoạch phải quán triệt đường lối của Đảng, vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế, cụ thể hóa đường lối, chiến lược kinh tế của Đảng thành cơ cấu kinh tế, bước đi và quy mô, tốc độ phát triển hợp lý của các ngành, các địa phương, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng thời kỳ để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng.

c) Kế hoạch phải bảo đảm cân đối tích cựcvững chắc, triệt để khai thác mọi khả năng nhằm đáp ứng những nhu cầu hợp lý của xã hội trong từng giai đoạn. Trước hết, phải thực sự cân đối tập trung đồng bộ cho các mục tiêu then chốt, các công trình trọng điểm, sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Khắc phục tình trạng dàn đều, không bảo đảm các điều kiện thực hiện.

d) Kế hoạch phải xây dựng trên tinh thần kinh doanh xã hội chủ nghĩahạch toán kinh tế, nhằm khai thác các khả năng tiềm tàng, bảo đảm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Thống nhất kế hoạch hiện vật với kế hoạch giá trị, kế hoạch tài chính phải được xây dựng và thông qua cùng một lúc với kế hoạch sản xuất, kinh doanh.

Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần tăng cường công tác hạch toán, thông tin kinh tế. Củng cố hệ thống tổ chức thống kê, kế toán, nhất là ở cơ sở, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm và kỷ luật báo cáo trung thực, kịp thời, chính xác, phục vụ đắc lực công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước.

đ) Kế hoạch phải kết hợp với sử dụng thị trường, nắm sát yêu cầu của thị trường có tổ chức, lãnh đạo thị trường từ đó đi theo quỹ đạo của kế hoạch nhà nước; sử dụng các chính sách đòn bảy kinh tế, giá cả, tiền tệ, tài chính và các chính sách khuyến khích sản xuất như tiền lương, tiền thưởng...

e) Gắn kế hoạch kinh tế với kế hoạch khoa học - kỹ thuật, nhằm bảo đảm cho các chỉ tiêu kế hoạch vừa thể hiện tính tích cực, đồng thời có căn cứ khoa học. Tiến hành công tác điều tra cơ bản, phân vùng quy hoạch, dự đoán và phân tích kinh tế; xây dựng và hoàn chỉnh từng bước hệ thống đơn giá, hệ thống tiêu chuẩn và định mức kinh tế kỹ thuật tiến bộ, hoàn thiện phương pháp cân đối tính toán, xây dựng và lựa chọn các phương án kinh tế kỹ thuật có căn cứ vững chắc.

g) Tăng cường tổ chức và cán bộ của hệ thống kế hoạch từ Trung ương đến các ngành, các địa phương, nhất là các huyện và cơ sở, để làm tốt chức năng tham mưu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Kiên quyết từng bước đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và kỹ thuật, nghiệp vụ ở các cấp, các ngành và cơ sở.

Bố trí đúng, sử dụng tốt, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ cán bộ hiện có. Đào tạo cán bộ mới có chất lượng ngày càng cao.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Bước sang năm 1982, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đặt ra rất lớn và cấp bách. Với sức mạnh đoàn kết, nhất trí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; với những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc quản lý và chỉ đạo kinh tế của các cấp, các ngành và của đông đảo cán bộ trong những năm qua; với Nghị quyết mà Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam sắp tới sẽ thông qua, là bó đuốc soi đường và là nguồn cổ vũ lớn đối với nhân dân cả nước; “Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”, anh chị em công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, các tầng lớp lao động khác, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc trong cả nước, hãy nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy tinh thần tự lực tự cường và truyền thống chiến đấu dũng cảm và lao động cần cù, sáng tạo, dấy lên cao trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, phấn đấu tạo ra những chuyển biến mới về kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1982, tạo điều kiện tiến lên mạnh mẽ hơn nữa trong những năm sau của kế hoạch 5 năm 1981-1985.

 

Toàn văn Văn kiện
lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội