TỜ TRÌNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ DỰ THẢO PHẦN CÁC TỘI PHẠM
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
(Do ông Phan Hiền, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày
tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VII, ngày 25-6-1983)
Thưa Đoàn Chủ
tịch,
Thưa các vị đại
biểu Quốc hội,
Bộ luật hình sự
gồm phần chung và phần các tội phạm - Phần chung quy định các nguyên tắc chung
thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta. Xuất phát từ thực tế tội phạm ở
nước ta, từ những yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, căn cứ vào chính
sách hình sự của Nhà nước ta, phần các tội phạm quy định cụ thể về các tội phạm
và hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm.
Phần chung đã được
Quốc hội thảo luận trong kỳ họp tháng 12-1982. Trong kỳ họp này của Quốc hội,
Hội đồng Bộ trưởng trình bản Dự thảo phần các tội phạm.
Trong khi biên
soạn phần các tội phạm, Ban Dự thảo đã được các ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án
và Tư pháp, các Bộ có liên quan, các đoàn thể nhân dân góp nhiều ý kiến. Trong
kỳ họp tháng 12-1982 của Quốc hội, nhân thảo luận Phần chung, một số vị đại biểu
Quốc hội cũng đã lưu ý đến một số tội phạm cần phải quy định. Ủy ban pháp luật
của Quốc hội đã dành nhiều thời gian để thẩm tra sơ bộ bản Dự thảo Phần các tội
phạm.
Thuận lợi cơ bản
cho việc xây dựng Bộ luật hình sự nói chung, Phần các tội phạm nói riêng, là
Đảng và Nhà nước đã có những nghị quyết, chỉ thị cần thiết về tình hình và nhiệm
vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Các Đại hội lần IV và lần V của Đảng đã vạch
rõ đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế - xã
hội chủ nghĩa, đã vạch rõ và khẳng định cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ
và Nhà nước quản lý. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp mới, mà Bộ luật hình sự có
nhiệm vụ quan trọng góp phần bảo vệ việc thực hiện các thể chế nói trong Hiến
pháp. Sau Hiến pháp có một số đạo luật và pháp lệnh mới như Pháp lệnh ngày
20-5-1981 về trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh ngày 10-7-1982 về trừng trị các tội
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép...
Nội dung Dự thảo
Bộ luật hình sự nói chung, Phần các tội phạm nói riêng, phải quán triệt những
yêu cầu sau đây:
Luật hình sự phải
thật sự là công cụ sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản để bảo vệ sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động và bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước. Bộ luật hình sự với hai
phần, Phần chung và Phần các tội phạm, phải phục vụ đắc lực hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bộ luật hình sự phải thể hiện tính giai đoạn của cách mạng nước ta hiện đang còn
ở chặng đầu của thời kỳ quá độ, phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước
và truyền thống dân tộc Việt Nam. Bộ luật kế thừa những kinh nghiệm phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm của ta từ trước đến nay, đồng thời, tiếp thu có chọn
lọc những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Hiện nay, đất nước
ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng, bá quyền... câu kết với đế
quốc Mỹ, đồng thời phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến
tranh xâm lược quy mô lớn. Vì vậy, Phần các tội phạm phải đặc biệt chú ý đến
việc trừng trị những tội xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ nước Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Thể hiện tinh thần này, những tội xâm phạm an ninh quốc gia đặc
biệt nguy hiểm (tức là những tội phản cách mạng) đã được quy định ngay trong
Chương I và cũng là chương quan trọng nhất.
Đồng thời, Chương XI quy định các tội phạm về quân sự, góp phần xây dựng và củng
cố quốc phòng, đặc biệt là góp phần củng cố kỷ luật - sức chiến đấu của quân đội
và các lực lượng vũ trang khác.
Chúng ta xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước đang có những chuyển biến mới trên mặt
trận kinh tế và còn nhiều khó khăn to lớn. Cuộc đấu tranh địch ta, cuộc đấu
tranh giai cấp, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa đang diễn ra gay gắt. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp. Sở hữu xã hội
chủ nghĩa bị xâm phạm nghiêm trọng. Công tác quản lý kinh tế còn lỏng lẻo, trong
phân phối - lưu thông có nhiều diễn biến xấu,... Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo
vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, góp phần lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trong quản
lý kinh tế, đặc biệt trong, lĩnh vực sản xuất, phân phối - lưu thông, ổn định
giá cả, tiền tệ, thị trường, trừng trị bọn xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa,
bọn đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, phá rối thị trường, xử
lý đích đáng những cán bộ thoái hóa, biến chất trở thành sâu mọt trong bộ máy
nhà nước,...
Cùng với việc bảo vệ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và chế độ quản lý kinh
tế, phần các tội phạm góp phần thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy
cách mạng tư tưởng và văn hóa, xóa bỏ những tệ nạn xã hội cũ, những tàn dư văn
hóa thực dân mới, chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa phản động.
Đường lối của Đảng
và Nhà nước ta là thực hiện, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động. Toàn bộ phần các tội phạm phải bảo vệ quyền làm chủ tập thể này,
bảo vệ quyền con người (tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của công dân),
bảo đảm công dân được hưởng và thi hành đúng đắn các quyền tự do dân chủ, bảo vệ
quyền tài sản của công dân và quyền của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình.
Để bảo vệ hiệu lực
pháp lý của Nhà nước, Phần các tội phạm phải trừng trị những hành vi xâm phạm
hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, xâm phạm trật tự xã hội, an toàn của
nhân dân.
Trong khi thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược, nhân dân ta còn phải làm nhiệm vụ quốc tế. Bởi
vậy, Phần các tội phạm cũng có những quy định thích hợp trừng trị những tội
chống lại các Nhà nước tiến bộ, xâm phạm tài sản của các Nhà nước khác hoặc tổ
chức quốc tế. Đặc biệt, có dành một Chương quy định về những tội ác phá hoại hòa
bình và chống loài người, khẳng định lập trường của Nhà nước ta đối với những
tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người đã và đang bị cả loài người lên án.
Phần các tội phạm
phải thể hiện tinh thần kiên quyết trừng trị và trừng trị nặng trong tình hình
hiện nay đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu xã
hội chủ nghĩa, các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, các tội giết người, hiếp
dâm, cướp của và các tội nghiêm trọng khác.
Đối với bọn chủ
mưu, bọn cầm đầu, bọn ngoan cố chống đối, bọn lưu manh côn đồ, bọn tái phạm,
những kẻ biến chất, sa đọa, lợi dụng chức vụ để phạm tội, những kẻ phạm tội có
tổ chức, cố ý gây hậu quả nghiệm trọng, thì phải nghiêm trị.
Với tinh thần trên
đây, trong 214 tội được dự kiến, có 46 tội thuộc loại nguy hiểm nhất có thể bị
phạt tới tù chung thân hoặc tử hình (tỷ lệ 21,5%).
Đối với những
người thật thà hối cải, tự thú, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, tự nguyện
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra, thì có thể khoan hồng. Nhất là đối
với những người phạm tội lần đầu, tội không nghiêm trọng và đã hối lỗi thì có
thể áp dụng những hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (như cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ) và giao họ cho các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức xã hội giáo dục
hoặc cho gia đình bảo lãnh. Thể hiện tinh thần này, có 31 tội (14%) có thể phạt
cảnh cáo và có 124 tội (58%) có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Điều này thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa có khả năng giáo
dục và cải tạo con người.
Đối với hầu hết các tội phạm phải dự kiến nhiều khung hình phạt nặng nhẹ khác
nhau (rất nhiều tội có tới ba khung hình phạt) để có thể thực hiện đúng mức sự
nghiêm khắc và sự khoan hồng thích đáng đối với từng người phạm tội, trong từng
hoàn cảnh cụ thể.
Bộ luật hình sự
phải dự kiến đầy đủ những hành vi phạm tội, không được bỏ sót một tội phạm
nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, cũng tránh khuynh hướng trừng trị tràn lan. Nếu
giải quyết một số hành vi vi phạm pháp luật bằng các biện pháp xã hội, hành
chính, dân sự cũng đủ để bảo đảm kỷ cương xã hội, kỷ luật nhà nước, bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa thì không cần thiết quy tội để trừng trị.
Thưa các vị đại
biểu Quốc hội,
Trên đây là tinh
thần chỉ đạo việc biên soạn Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Sau đây là
nội dung chính của phần này.
Phần các tội phạm
gồm 231 Điều, quy định 214 tội sắp xếp thành 12 Chương:
Chương I:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
Chương II:
Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa;
Chương III:
Các tội phạm về kinh tế;
Chương IV:
Các tội xâm phạm con người;
Chương V:
Các tội xâm phạm sở hữu của công dân;
Chương VI:
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa
thành niên;
Chương VII:
Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng;
Chương VIII:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý;
Chương IX:
Các tội phạm về chức vụ;
Chương X:
Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp;
Chương XI:
Các tội phạm về quân sự;
Chương XII:
Các tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người.
Chương I:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia
Chương I quy định
những tội nói chung nghiêm trọng nhất, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, xâm phạm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Chương này có tác dụng góp phần trực tiếp đấu tranh chống bọn bành
trướng, bá quyền... câu kết với đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác
trong việc thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam.
Có hai mục chính:
Mục A quy định những tội xâm phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm; mục B quy
định các tội khác xâm phạm an ninh quốc gia.
A- MỤC A
Những tội quy định
trong mục này là những tội phạm “đặc biệt nguy hiểm”, xâm phạm toàn bộ lợi ích
của Nhà nước ta, đe dọa sự tồn tại của Nhà nước ta, của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây chính là những tội phản cách mạng. Và do vậy, hình phạt dự kiến ở mức nghiêm
khắc nhất: trong 12 tội được quy định thì đối với 9 tội, có thể phạt tới tù
chung thân, tử hình.
Có mấy điểm dưới
đây đáng lưu ý:
Tội phản bội Tổ
quốc (Điều 75)
Điều 76 Hiến pháp
quy định: “Công dân phải trung thành với Tổ quốc - Phản bội Tổ quốc là tội nặng
nhất đối với dân tộc”. Do đó, Điều 75 Dự thảo Bộ luật hình sự nêu rõ: “công dân
Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm chống lại độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ nước Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là phạm tội “phản bội Tổ quốc”. Như vậy,
diện truy tố về tội phản bội Tổ quốc không hạn chế trong một số trường hợp kẻ
phản bội là người có trọng trách, cũng không mở ra quá rộng.
Tội phá hoại đoàn
kết (Điều 84)
Đoàn kết dân tộc
luôn luôn là một chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Do thực hiện đúng đắn chính
sách này mà phát huy được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên
các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo hăng hái tham gia phong trào
cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết quốc tế cũng là một chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trên tinh thần này, Bộ luật hình sự coi những hành
vi phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách đoàn kết quốc tế là tội xâm
phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm.
Tội chống lại Nhà
nước tiến bộ
Xuất phát từ chính
sách đoàn kết quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, Điều 87 quy định những hành vi
đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh của một Nhà nước tiến bộ cũng bị xử theo
những điều tương ứng của Mục A, Chương I, Phần các tội phạm. Nói Nhà nước tiến
bộ là đã bao hàm các nước anh em trong khối Cộng đồng xã hội chủ nghĩa; còn xác
định thế nào là một Nhà nước tiến bộ khác thì sẽ căn cứ vào đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta trong từng trường hợp cụ thể.
B- MỤC B
Mục này quy định
những tội tuy không có mục đích phản cách mạng nên không xếp vào mục A nhưng
cũng rất nguy hiểm cho an ninh quốc gia (thí dụ: tội cướp máy bay, tàu thủy; tội
làm, lưu hành tiền giả; tội truyền bá văn hóa đồi trụy,...). Hầu hết các tội nói
trong Mục B là những tội mới, chưa được quy định trong các văn bản hiện hành.
Trong số 21 tội, thì đối với 7 tội có dự kiến các hình phạt tù chung thân, tử
hình.
Có mấy vấn đề đáng
lưu ý:
Tội cướp máy bay,
tàu thủy (Điều 88)
Tội này được quy
định để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn Việt Nam, đồng thời cũng để giải quyết
những vấn đề mà pháp luật quốc tế đặt ra, nhất là nước ta đã gia nhập Công ước
quốc tế về chống bắt cóc máy bay.
Về việc trốn đi
nước ngoài
Những năm gần đây
có một số người trốn đi nước ngoài với những động cơ, mục đích khác nhau. Để xử
lý những trường hợp trốn đi nước ngoài vì mục đích phản cách mạng, Điều 82 trong
Mục A, quy định “tội trốn theo địch hoặc trốn đi nước ngoài, trốn ở lại nước
ngoài nhằm chống lại chính quyền”. Đối với những trường hợp trốn đi nước ngoài
không có mục đích phản cách mạng thì ta nghiêm trị những kẻ tổ chức, những kẻ
cưỡng ép, xúi giục. Vì vậy, Điều 89 quy định “tội tổ chức, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài”. Đối với những
người bị lừa dối, lôi kéo trốn đi nước ngoài mà không có mục đích phản cách mạng
thì chủ yếu xử lý bằng biện pháp hành chính, lấy giáo dục để răn bảo họ; trường
hợp cần phải xử phạt về hình sự thì áp dụng Điều 90 về tội xuất cảnh, nhập cảnh
trái phép (đối với công dân thường) hoặc Điều 248 về tội đào nhiệm (đối với nhân
viên cơ quan nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội).
Tội buôn lậu qua
biên giới
Pháp lệnh ngày
30-6-1982 về trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái
phép đã quy định tội buôn lậu qua biên giới. Bộ luật hình sự lấy lại nội dung
quy định của Pháp lệnh và đưa vào Mục B để làm rõ hơn tính chất nguy hiểm của
tội buôn lậu qua biên giới. Đây không đơn thuần là một tội phạm kinh tế, nó còn
vi phạm các quy định của Nhà nước đối với việc ra vào biên giới, tức là xâm phạm
an ninh quốc gia.
Tội truyền bá
văn hóa đồi trụy
cũng được đặt trong Chương này, vì đây cũng là một lĩnh vực mà kẻ thù đang tìm
cách phá hoại ta một cách thâm hiểm. “Phải đập tan âm mưu thủ đoạn của địch đang
tìm mọi cách phá hoại hòng làm lung lay tư tưởng, làm xói mòn đạo đức, làm suy
đồi lối sống của nhân dân và thanh niên ta”, (trích bài nói của Tổng Bí thư Lê
Duẩn tại đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội ngày 13-6-1983).
Chương II:
Các tội
xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa
Sở hữu xã hội chủ
nghĩa dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân của Nhà nước và sở hữu tập thể của hợp
tác xã, là cơ sở của nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa, là nền tảng, nguồn sức mạnh
của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguồn ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta. Vì vậy,
bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước
ta. Và đó là lý do để đặt Chương về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa ở
một vị trí quan trọng trong Bộ luật hình sự.
Chương này quy định các tội xâm phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt các tài sản của Nhà nước, của tập thể.
Có những tội xâm phạm cả ba quyền trên đây (thí dụ: tội cướp, tội trộm cắp, tội
tham ô,... làm Nhà nước hoặc tập thể mất cả ba quyền); có những tội chỉ xâm phạm
một, hai quyền (thí dụ: tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa chỉ xâm
phạm quyền sử dụng).
Sau ngày đất nước
thống nhất và cả nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, khối lượng tài sản xã
hội chủ nghĩa không ngừng phát triển. Do những khuyết điểm, thiếu sót về quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, do buông lỏng chuyên chính vô sản, do địch thường xuyên
phá hoại về nhiều mặt, các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa tăng về số
lượng, về tính chất nghiêm trọng.
Bởi vậy, Chương II
thể hiện chính sách kiên quyết bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, trừng trị nghiêm
khắc những kẻ phạm tội. Trong 13 tội được quy định thì đối với 6 tội, có thể
phạt tới tù chung thân, tử hình (các tội cướp, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, phá
hủy hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa); ngoài ra, đối với 9 tội, có
thể tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản.
Hiện nay, việc
công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa bất chấp sự can thiệp của người
khác cũng đang diễn ra ngày càng trắng trợn, bởi vậy, cũng cần quy định thành
tội ở Điều 114.
Do sự phát triển
các quan hệ nhiều mặt của nước ta với nước ngoài, ngày càng có nhiều tài sản của
các Nhà nước khác hoặc các tổ chức quốc tế để ở lãnh thổ nước ta. Theo Điều 124,
Nhà nước ta bảo vệ tài sản của các Nhà nước khác hoặc các tổ chức quốc tế như
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
Chương III:
Các tội phạm về kinh tế
Nhiệm vụ kinh tế là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước ta. Để thực
hiện nhiệm vụ kinh tế, Nhà nước ta phải thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, phải xây dựng và phát triển hệ thống kinh tế
- xã hội chủ nghĩa.
Chương II ở trên
có nhiệm vụ trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, còn Chương III
này trừng trị các hành vi vi phạm các quy định và chính sách về sản xuất, phân
phối-lưu thông và các chế độ khác về quản lý kinh tế, gây thiệt hại cho nền kinh
tế - xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt các nghị quyết, quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước về quản lý
kinh tế, đặc biệt là Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa V về phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội cho một số năm tới,
căn cứ vào thực tiễn thi hành Pháp lệnh ngày 10-7-1982 về trừng trị các tội đầu
cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, Chương III quy định 21 tội về
kinh tế. Có 3 tội có thể xảy ra ở mọi ngành, mọi cấp, mọi cơ sở. Đó là các tội:
cố ý làm trái những quy định về kinh tế, tài chính (Điều 127); lập quỹ trái phép
(Điều 128); lừa dối các cơ quan quản lý kinh tế (Điều 129). Đây là tội cố tình
báo cáo sai sự thật.
Có 18 tội riêng
cho những lĩnh vực kinh tế nhất định. Đó là các tội trong lĩnh vực sản xuất,
trong lĩnh vực phân phối-lưu thông, quản lý thị trường, trong một số lĩnh vực
quản lý khác (quản lý tài chính, quản lý đất đai, quản lý rừng, quản lý chim
thú, thủy sản, quản lý điện, v.v..).
Do tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh trong khâu phân phối -
lưu thông, đối với 4 tội, bản dự thảo đã quy
định hình phạt nặng nhất là tù chung thân, tử hình, ngoài ra, còn có thể tịch
thu một phần hay toàn bộ tài sản: tội trộm cắp tem phiếu, làm giả hoặc lưu hành
tem phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối (Điều 132), tội đầu cơ (Điều
133), tội buôn lậu trong nội địa hoặc tàng trữ hàng cấm (Điều 134), tội làm hàng
giả hoặc buôn bán hàng giả (Điều 135).
Chương IV:
Các tội xâm phạm con người
Nghị quyết của Đại
hội lần thứ V của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý,
là vấn đề có ý nghĩa quyết định để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng
quan trọng và cấp bách trong thời gian tới”. Các Chương của Bộ luật hình sự đều
nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
trong những lĩnh vực khác nhau. Chương này gồm những quy định trực tiếp bảo vệ
quyền con người của công dân vì chế độ xã hội chủ nghĩa coi con người là vốn quý
nhất.
Có hai mục chính:
Mục A trừng trị
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Mục B trừng trị
các tội xâm phạm những quyền tự do dân chủ của công dân.
A- Mục A quy định 23 tội, trong đó, tội giết người và tội hiếp dâm được coi là
nguy hiểm nhất, có thể phạt tới tù chung thân, tử hình.
Có mấy tội sau đây
đáng lưu ý:
Tội giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
(Điều 152)
Phần chung đã nêu
trong Điều 13:
“1. Phòng vệ chính
đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, hoặc bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, mà chống trả lại một các
tương xứng người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính
đáng không phải là phạm tội”.
“2. Nếu hành vi
chống trả rõ ràng là quá đáng, tức là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì
người có hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Vận dụng các
nguyên tắc trên đây, Điều 152 quy định tội giết người do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng. Chính sách của ta là biểu dương, khen thưởng những người tích cực
đấu tranh chống tội phạm, mặt khác, phải ngăn ngừa và chống những hành vi làm
bừa, làm ẩu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác; tuy nhiên, đối với
những hành vi đó ta cũng chỉ dùng hình phạt nhẹ, có thể phạt cải tạo không giam
giữ và hình phạt cao nhất là 3 năm tù.
Tội giết hoặc
vứt bỏ con mới đẻ
(Điều 154)
Tội giết trẻ em
mới đẻ là một tội nặng. Đối với con mình đẻ ra, bình thường không người mẹ nào
lại nhẫn tâm muốn giết, muốn vứt bỏ. Trong xã hội ta ngày nay, nếu có người mẹ
nào phạm tội này, thường là do hoàn cảnh đặc biệt, vì vậy, nên giảm nhẹ hình
phạt cho người đó và cũng chỉ nên giảm nhẹ cho riêng người đó. Còn những người
khác, nếu họ phạm tội thì không thể được hưởng khoan hồng như đối với người mẹ.
Bản Dự thảo quy
định trong Điều 154: “người mẹ nào do chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc
hậu hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt mà giết con mới đẻ, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm...”
Tội hiếp dâm
trẻ em
(Điều167)
Trên tinh thần bảo
vệ triệt để trẻ em, Điều 167 quy định mọi trường hợp giao cấu với trẻ em từ 13
tuổi trở xuống đều coi là hiếp dâm; việc giao cấu mặc dù được trẻ em thỏa thuận
cũng vẫn coi là hiếp dâm.
B- Mục B quy định
9 tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân (các Điều từ 173 đến 181) như
xâm phạm quyền bầu cử, quyền được bầu, quyền lao động, quyền tự do thân thể,
quyền bình đẳng của phụ nữ,...
Quyền lao động là
một trong những quyền cơ bản của công dân. Trong một thời gian nữa, ở nước ta
còn tồn tại 5 thành phần kinh tế. Vì vậy, Điều 174 quy định tội sa thải trái
phép người lao động hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật lao động, để xử
lý thích đáng những trường hợp làm trái pháp luật, vượt phạm vi xử lý bằng biện
pháp hành chính.
Đối với một số
quyền tự do dân chủ, có chú ý cả hai mặt: trừng trị những hành vi xâm phạm các
quyền tự do dân chủ của công dân, đồng thời cũng phòng ngừa những hành vi lạm
dụng các quyền đó.
Chương V:
Các tội xâm phạm sở hữu của công dân
Hiến pháp quy định
trong Điều 27: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong
những trường hợp được phép lao động riêng lẻ”. Trong xã hội ta, do xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, do mỗi người đều có quyền và có nghĩa vụ lao động để xây
dựng đất nước và xây dựng đời sống ấm no của bản thân nên những tài sản hợp pháp
thuộc sở hữu cá nhân ngày càng nhiều. Chương V trừng trị những tội xâm phạm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của công dân đối với các tài
sản trên đây.
Hiện nay, ta vẫn
áp dụng Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân thông
qua ngày 21-10-1970.
Chương V về cơ bản
lấy lại nội dung của Pháp lệnh ngày 21-10-1970 nhưng có bổ sung sửa đổi ít
nhiều. Có thêm những tội mới và mức hình phạt đối với một số tội có tăng lên.
Tội mới chưa có trong Pháp lệnh ngày 21-10-1970 là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản của công dân. Tội này chủ yếu xảy ra ở những vùng mới giải phóng; nó
mang tính chất đặc biệt nguy hiểm, vì vậy, Điều 185 dự kiến là có thể phạt tới
tù chung thân, tử hình.
Chương VI:
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa
thành niên
A- Luật hôn nhân
và gia đình đã được thông qua ngày 29-12-1959. Ở miền Bắc, về cơ bản, luật được
thi hành tốt. Tuy nhiên, những hành vi trái luật như tảo hôn, cưỡng ép kết hôn,
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, lấy vợ lẽ, thông gian, hành hạ, ngược đãi
vợ con, v.v. vẫn còn xảy ra nhiều.
Từ năm 1977, Luật
hôn nhân và gia đình đã được công bố để thi hành thống nhất trong cả nước. Thời
gian còn ngắn, tác dụng của Luật ở miền Nam còn rất hạn chế.
Hiện nay, Hội liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam cùng một số cơ quan đang tiến hành khảo sát tình hình hôn
nhân và gia đình nhằm chuẩn bị một dự thảo luật mới. Đối với xã hội ta, sau mấy
chục năm chiến tranh với những hậu quả hết sức nặng nề, sáng kiến của Hội liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam là rất hợp thời cơ, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân
dân.
Trước mắt, muốn
Luật hôn nhân và gia đình hiện hành được thi hành tốt, thì phải tuyên truyền,
vận động thường xuyên, liên tục, sâu rộng. Trong việc xử lý các hành vi vi phạm
luật, chủ yếu là phân rõ phải trái, phê phán, giáo dục để người vi phạm nhận rõ
sai lầm, tự nguyện sửa chữa, hàn gắn, củng cố những quan hệ bị xâm phạm. Chỉ xử
lý bằng biện pháp hình sự trong một số ít trường hợp thật cần thiết và hình phạt
nói chung nhẹ, thường là phạt cải tạo không giam giữ và đối với nhiều tội có thể
chỉ phạt cảnh cáo. Dù là xử lý về hình sự cũng phải cân nhắc ý kiến, nguyện vọng
của người trong cuộc. Đã có nhiều trường hợp trong đó bản thân người bị hại
không muốn người phạm tội bị phạt nặng sẽ gây khó khăn cho gia đình.
Bởi vậy, cần phải
đấu tranh kiên quyết chống thái độ coi thường pháp luật, vi phạm trắng trợn Luật
hôn nhân và gia đình, nhưng mặt khác cũng tránh khuynh hướng trừng trị tràn lan
và trừng trị nặng.
Tinh thần trên đây
đã chỉ đạo việc biên soạn Chương VI và sau này cũng sẽ chỉ đạo việc áp dụng các
điều luật của Chương VI.
Chương VI quy định
4 tội xâm phạm quan hệ hôn nhân và 5 tội xâm phạm quan hệ gia đình.
B- Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta được thể
chế hóa trong Hiến pháp. Pháp lệnh ngày 14 tháng 11 năm 1977 quy định cụ thể
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Chương VI quy định 4 tội nhằm trừng
trị những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em, gây tổn hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em.
Chương VII:
Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng
Cùng với việc bảo vệ an ninh chính trị, Nhà nước ta giữ gìn trật tự, an toàn
công cộng nhằm bảo đảm cuộc sống lao động sáng tạo, lành mạnh, hạnh phúc của
nhân dân. Điều 78 Hiến pháp nói rõ công dân có nghĩa vụ “bảo vệ an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội”, “tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội
chủ nghĩa”.
Chương VII quy
định 19 tội chia thành hai nhóm: Các tội xâm phạm trật tự công cộng;
Các tội xâm phạm
an toàn công cộng.
A- Mục A quy định
các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Song song với việc
xây dựng và thực hiện trật tự xã hội chủ nghĩa trong đời sống kinh tế, chúng ta
xây dựng và thực hiện trật tự xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội, một trật
tự thể hiện nền văn hóa mới do con người mới làm chủ.
Mục A quy định
những tội như tội gây rối trật tự công cộng; tội chứa mãi dâm hoặc môi giới mãi
dâm; tội tổ chức dùng ma túy; tội đánh bạc; tội chứa gá bạc; tội hoạt động mê
tín dị đoan, gây hậu quả nghiêm trọng; tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
phạm tội mà có;...
B- Mục B quy định
các tội xâm phạm an toàn công cộng.
Đây là những hành
vi vi phạm các quy định về bảo vệ an toàn trong các lĩnh vực hoạt động của đời
sống công cộng, gây tổn hại đến lợi ích của xã hội, đến tính mạng và tài sản của
nhân dân.
Có những tội như:
tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải, gây hậu quả nghiêm trọng
(mức án đối với tội này có thể lên tới tù chung thân, tử hình); tội vi phạm các
quy định về an toàn lao động, an toàn ở những nơi sinh hoạt đông người, gây hậu
quả nghiêm trọng; tội vi phạm các quy định về quản lý vũ khí, phương tiện kỹ
thuật, chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ hay chất độc hại; tội vi phạm các quy
định về chữa bệnh, chế thuốc, bán thuốc, gây hậu quả nghiêm trọng,...
Chương VIII:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý
Một trong những
vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước. Muốn vậy,
phải kiện toàn bộ máy Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, cải tiến
phương pháp hoạt động, đổi mới phong cách làm việc của các cơ quan nhà nước. Mặt
khác, không ai được gây trở ngại cho hoạt động của cơ quan nhà nước, mọi người
phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định mang tính chất chung cũng như những
quyết định hợp pháp giải quyết những vấn đề cụ thể của cơ quan nhà nước.
Chương VIII quy
định 9 tội trong đó có những tội như: tội chống lại người đang làm công vụ; tội
giả mạo chức vụ; tội không chấp hành các quyết định hành chính về quản chế, cấm
cư trú hoặc lao động bắt buộc; tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở và đất
xây dựng;...
Chương IX:
Các tội
phạm về chức vụ
Hiệu quả hoạt động
của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tùy thuộc một phần không nhỏ ở những người
có chức vụ thực hiện đúng đắn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều 8
Hiến pháp xác định: "tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân... Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,
cửa quyền". Tuyệt đại đa số nhân viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội nêu cao
đạo đức xã hội chủ nghĩa, hết lòng vì nước, vì dân. Nhưng cũng có một số người
thoái hoá, biến chất, tham ô, hối lộ, lạm quyền, ức hiếp quần chúng... Nghị
quyết của Đại hội lần V của Đảng nói rõ "phải xử lý nghiêm minh những cán bộ,
nhân viên lợi dụng chức quyền để làm trái pháp luật".
Chương IX trừng
trị những hành vi của chính những người có chức vụ trong khi thi hành nhiệm vụ
đã xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội,
làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, xâm phạm quyền làm chủ tập thể của nhân
dân.
Người có chức vụ
là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hay do một hình thức khác mà được
cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao thực hiện một công vụ nhất định. Trong
khi thực hiện công vụ, người có chức vụ có những quyền hạn cụ thể.
Người không giữ
một chức vụ thường xuyên, nhưng trong những trường hợp nhất định được giao thi
hành một công vụ, thì cũng được coi là người có chức vụ (thí dụ: thanh niên cờ
đỏ làm nhiệm vụ giữ trật tự).
Người có chức vụ
có thể là người được hưởng lương hay không hưởng lương.
Những người có
chức vụ nhưng lợi dụng người có chức vụ để xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ
quan nhà nước, của tổ chức xã hội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Chương IX quy định
8 tội, trong đó, 4 tội đã được ghi trong Pháp lệnh ngày 20-5-1981: tội nhận hối
lộ, tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ, tội lợi dụng ảnh hưởng đối với
người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Trong 4 tội này thì 3 tội đầu đều bị
phạt tội nặng: có thể phạt tù tới 20 năm, chung thân.
Có 4 tội mới: tội
lợi dụng quyền hạn hoặc vượt quyền làm trái với công vụ, gây thiệt hại cho lợi
ích Nhà nước, của xã hội hoặc lợi ích hợp pháp của công dân (Điều 245), tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 246) (nếu không gây hậu quả
nghiêm trọng thì xử lý bằng biện pháp khác, không xử lý về hình sự), tội giả mạo
trong công tác (Điều 247), tội đào nhiệm (Điều 248) (lôi kéo người khác cùng đào
nhiệm, đào nhiệm trong thời chiến, đào nhiệm ra nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài
đều là những trường hợp bị phạt nặng).
Chương X:
Các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp
Các cơ quan điều
tra, kiểm sát, xét xử và tư pháp khác có nhiệm vụ, theo chức năng của mình, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ
tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân, gìn giữ pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý theo pháp
luật những hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi hợp
pháp của công dân.
Muốn các cơ quan
trên đây thực hiện tốt nhiệm vụ, cần bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của nó.
Hơn ai hết, cán bộ
điều tra, cán bộ kiểm sát, cán bộ xét xử, cán bộ tư pháp khác phải đề cao ý thức
tuân theo pháp luật, đạo đức chí công vô tư, cần kiệm liêm chính. Đây là điều
kiện đầu tiên bảo đảm sự đúng đắn của hoạt động tư pháp.
Những người có
liên quan đến công tác tư pháp (bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng,
người làm giám định, người bào chữa, người phiên dịch) cũng phải làm đầy đủ
nhiệm vụ của mình. Bất cứ ai dù ở cương vị nào cũng không được can thiệp một
cách trái pháp luật vào công việc của các cơ quan tư pháp.
Để bảo đảm hoạt
động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, Chương X quy định 17 tội, chia thành
những nhóm sau đây:
- Những tội do
nhân viên tư pháp phạm: tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; tội
ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật; tội bức cung; tội dùng nhục hình.
- Những tội do
người có liên quan đến công tác tư pháp phạm (bị can, bị cáo, người bị hại,
người làm chứng, người giám định, người bào chữa, người phiên dịch...): tội cung
cấp tài liệu sai sự thật, khai báo gian dối; tội từ chối khai báo, từ chối kết
luận giám định; tội trốn khỏi nơi giam, giữ;...
- Những tội do
người không liên quan đến tố tụng phạm: tội che giấu tội phạm; tội không tố giác
tội phạm; tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật; tội cản trở việc thi
hành án;...
Có mấy điểm đáng
lưu ý:
Điều 268 quy định
tội che giấu tội phạm. Điều 18 thuộc phần chung đã định nghĩa thế nào là
che giấu: không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã
che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm, v.v.. Nếu có hứa
hẹn trước thì là người đồng phạm, không phải là người che giấu và trách nhiệm
hình sự nói chung sẽ nặng hơn.
Điều 256 quy định
tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật. Trong thực tế, đã xảy
ra không ít trường hợp cán bộ có chức quyền, do động cơ cá nhân, ép buộc cán bộ
tư pháp bắt giam, truy tố, xét xử trái pháp luật. Hành vi đó trái Hiến pháp, làm
mất tính chất khách quan, chí công vô tư của công tác tư pháp, có khi gây hậu
quả nghiêm trọng. Điều 256 quy định những người có hành vi này phải chịu trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hình phạt dự kiến không nặng (cao nhất là 5 năm tù),
vì trong việc bắt giam, truy tố, xét xử trái pháp luật, trách nhiệm chính vẫn
thuộc về cán bộ tư pháp đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ chân lý.
Chương XI:
Các tội phạm về quân sự
Nhiệm vụ của quân
đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay vẫn rất nặng nề. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm việc xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, có sức chiến
đấu cao, luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh
của quân đội do nhiều yếu tố tạo nên nhưng trước hết là ở tinh thần kỷ luật tự
giác, ở ý thức tổ chức chặt chẽ của cán bộ và chiến sĩ. Kỷ luật tự giác, nghiêm
minh là nét tiêu biểu phẩm chất của người chiến sĩ quân đội cách mạng, là truyền
thống tốt đẹp của quân đội. Giữ nghiêm kỷ luật ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh là
yêu cầu bắt buộc đối với mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội.
Để góp phần củng
cố kỷ luật, tăng cường sức chiến đấu của quân đội, Chương XI quy định những tội
về quân sự.
Những người phạm
tội quân sự là:
- Quân nhân tại
ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
- Công dân được
trưng tập vào phục vụ trong quân đội;
- Dân quân, tự vệ
phối thuộc chiến đấu với quân đội;
- Những người khác được luật quy định thuộc các lực lượng vũ trang.
Ngoài những tội
quy định trong Chương này, quân nhân có thể phạm những tội quy định ở các Chương
khác; trong những trường hợp này, họ phải chịu trách nhiệm hình sự như những
công dân khác phạm tội (có điều là việc xét xử thuộc Toà án quân sự).
Chương XI quy định
25 tội chia thành những nhóm sau đây:
- Những tội xâm phạm quan hệ chỉ huy - phục tùng hoặc quan hệ đồng đội: tội
không phục tùng mệnh lệnh; tội không nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh; tội lăng
nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; tội đánh đập, hành hạ, xỉ nhục quân
nhân dưới quyền;...
- Những tội xâm
phạm kỷ luật trong chiến đấu: tội đầu hàng địch; tội bỏ vị trí chiến đấu;...
- Những tội xâm
phạm chế độ phục vụ và các quy tắc công tác hằng ngày: tội đào ngũ; tội trốn
tránh nhiệm vụ; tội cố ý hủy hoại vũ khí và phương tiện chiến đấu;...
- Những tội xâm
phạm quan hệ quân-dân-chính: tội quấy nhiễu nhân dân; tội lạm dụng nhu cầu quân
sự.
Chương XII:
Các tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người
Đây là một loại
tội cực kỳ nguy hiểm, xâm phạm nền hòa bình khu vực hay thế giới, xâm phạm sự
tồn tại và sự phát triển của một bộ tộc, một chủng tộc, một dân tộc hoặc một tôn
giáo, phá hoại nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia.
Hòa bình là nguyện
vọng của loài người. Ngày nay, đấu tranh cho hòa bình là nhiệm vụ chính trị hàng
đầu của mỗi dân tộc.
Pháp luật quốc tế
lên án và trừng trị tội ác xâm lược, tội ác phá hoại hòa bình, tội ác diệt
chủng, tội ác diệt sinh,...
Nhiều nước xã hội
chủ nghĩa đã quy định những tội ác trên đây trong Bộ luật hình sự của mình.
Việt Nam từng là
nạn nhân của những tội ác trên đây mà đế quốc Mỹ đã phạm trên dưới 10 năm ở nước
ta với quy mô lớn, với mức độ tàn ác, thâm độc ít thấy; hậu quả của nó còn nặng
nề, dai dẳng. Gần đây, chúng ta lại là nạn nhân của cuộc xâm lược của bọn bành
trướng, bá quyền...
Chúng ta đã tố cáo
mạnh mẽ tội ác của bọn xâm lược trước dư luận thế giới, trước các tòa án quốc
tế. Chúng ta đã góp phần làm phát triển pháp luật quốc tế đối với loại tội này.
Việc quy định các
tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người trong Bộ luật hình sự của Nhà nước
ta sẽ có ý nghĩa chính trị - pháp lý trong nước và ngoài nước.
Thưa các vị đại
biểu Quốc hội,
Trên đây tôi đã
trình bày về nội dung Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Bộ luật hình sự là
Bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta. Ban hành Bộ luật hình sự đánh dấu một bước
phát triển mới của hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, của việc tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa; nó có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Sau này, khi Bộ luật đã được Quốc hội thông qua, phải tổ chức tốt việc thi hành
Bộ luật và công tác có ý nghĩa hàng đầu là phải tuyên truyền giáo dục sâu rộng,
để động viên quần chúng đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các cơ quan Công
an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp phải nghiên cứu kỹ, nắm vững nội dung Bộ luật và
thường xuyên rút kinh nghiệm để cải tiến công tác. Các cơ quan nhà nước khác,
các tổ chức xã hội cũng có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền mình quản
lý về ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, kịp thời có những biện pháp loại trừ
những nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các vi phạm pháp luật khác
trong cơ quan, tổ chức mình. Cần đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền giáo
dục pháp luật, làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm.
Tiếp theo Bộ luật hình sự, cần khẩn trương chuẩn bị và trình Quốc hội Bộ luật tố
tụng hình sự. Bộ luật hình sự là cần thiết để xác định những hành vi nào nguy
hiểm cho xã hội bị Nhà nước ta coi là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối
với mỗi tội phạm. Nhưng muốn cho Bộ luật hình sự phát huy tác dụng, phải đặt ra
những quy tắc bảo đảm cho tội phạm được phát hiện nhanh chóng, chính xác, được
xử lý kịp thời và đúng đắn theo phương châm "xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật". Đây là nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Bởi vậy, tiếp theo Bộ luật hình
sự, việc soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự cũng cần được xúc tiến để có thể sớm
ban hành.
Toàn văn Văn kiện
lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội