Lịch sử Quốc hội Việt Nam Tập 4

I- BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA XI, QUỐC HỘI BẦU VÀ PHÊ CHUẨN NHÂN SỰ, TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CẤP CAO

Bước vào thế kỷ XXI, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, nhằm tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu thế kỷ XXI, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, tổng kết 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), Đại hội khẳng định, đất nước “đã đạt những thành tựu to lớn và rất quan trọng”. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; chính trị ổn định bất chấp sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; an ninh, quốc phòng được giữ vững và tăng cường; từng bước phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa, xã hội gây bức xúc trong nhân dân chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.

Đại hội chủ trương: “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật. Quốc hội làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như sử dụng vốn và tài sản nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu”.

Tiếp nối tinh thần đổi mới tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, bộ máy và hoạt động của Quốc hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006) chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, căn cứ các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã từng bước tích cực chuẩn bị và triển khai thực hiện kế hoạch bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Tại phiên họp tháng 1-2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 284/2002/NQ-UBTVQH10, ngày 26-1-2002 về việc công bố ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và thành lập Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội. Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI được chính thức ấn định là Chủ nhật, 19-5-2002. Hội đồng bầu cử sẽ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về bầu cử và hết nhiệm vụ sau khi bàn giao hồ sơ cuộc bầu cử cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI.

Xác định cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng của đất nước, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm lựa chọn những đại biểu xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, ngày 25-1-2002, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 07-CT/TW Về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, nhấn mạnh vai trò quan trọng của Quốc hội khóa XI và nêu bật ý nghĩa chính trị to lớn của công tác bầu cử; đồng thời yêu cầu các cấp ủy Đảng, đảng đoàn, ban cán sự Đảng cần có kế hoạch chỉ đạo cụ thể việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2002. Tiếp đó, ngày 30-1-2002, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 02/2002/CT-TTg Về tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Theo đó, các tổ chức phụ trách bầu cử của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước cũng nhanh chóng được thành lập và triển khai công việc theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Từ ngày 31-1 đến ngày 1-2-2002, Hội nghị toàn quốc về triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI do Bộ Chính trị triệu tập có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lãnh đạo cuộc bầu cử trong cả nước và ở các địa phương. Đây là sự chuẩn bị cần thiết để bảo đảm cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI diễn ra an toàn, tiết kiệm và theo đúng luật định.

Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, ngày 7-3-2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 296-NQ/2002/UBTVQH10 công bố số đơn vị bầu cử, số đại biểu Quốc hội được bầu, danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Căn cứ vào số lượng đại biểu Quốc hội được bầu, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã trao đổi ý kiến với Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện các tổ chức chính trị - xã hội để dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội và đã hai lần điều chỉnh dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội.

Trên cơ sở điều chỉnh dự kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành hiệp thương ba lần để thỏa thuận về cơ cấu thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương và địa phương được bầu làm đại biểu Quốc hội và lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI.

Việc lấy ý kiến cử tri ở nơi công tác và nơi cư trú đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội được tiến hành tích cực, khẩn trương và dân chủ. Với tinh thần trách nhiệm cao, đông đảo cử tri đã tham gia các cuộc tiếp xúc và đóng góp nhiều ý kiến xác đáng với những người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Ý kiến cử tri đã được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tổng hợp đầy đủ, nghiên cứu và xem xét khi hiệp thương, lựa chọn và lập danh sách những người ứng cử.

Căn cứ vào danh sách chính thức do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Ủy ban bầu cử các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi đến, ngày 23-4-2002, Hội đồng bầu cử ban hành Nghị quyết số 134-NQ/HĐBC công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI tại 188 đơn vị bầu cử trong cả nước.

Ủy ban bầu cử và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các địa phương đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những người ứng cử thực hiện việc tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử, báo cáo với cử tri chương trình hành động và dự kiến việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội. Tại các buổi tiếp xúc, cử tri nêu lên nhiều ý kiến, kiến nghị, mong muốn Quốc hội khóa XI tiếp tục phát huy vị trí, vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đồng thời, đề nghị các đại biểu Quốc hội thường xuyên tiếp xúc cử tri, nắm bắt, phản ánh kịp thời ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội.

Danh sách những người ứng cử và danh sách cử tri đã được các Ban bầu cử tại các địa phương lập và niêm yết, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội được chuẩn bị chu đáo, đúng tiến độ và đạt kết quả tốt. Các hoạt động tuyên truyền được triển khai tích cực trong cả nước với nhiều hình thức phong phú đã trực tiếp góp phần nâng cao ý thức làm chủ và ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, tạo không khí phấn khởi trong ngày hội lớn của nhân dân cả nước.

Công tác chỉ đạo bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội trong quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử đã góp phần tích cực vào thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI.

Trong quá trình triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử đã tổ chức 3 đợt kiểm tra giám sát, gồm 31 đoàn đi kiểm tra giám sát tại 57/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kể cả các nơi biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Qua các đợt kiểm tra, các đoàn đã trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn địa phương giải quyết hoặc có ý kiến kịp thời để giải quyết một số vấn đề cụ thể của địa phương, hoặc đã đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện tốt các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, như nói rõ quyền bầu cử, ứng cử của công dân, việc lập danh sách cử tri, quy trình vận động bầu cử...

Hội đồng bầu cử, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nghiên cứu, xử lý kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân với tinh thần tôn trọng quyền dân chủ của công dân và bảo đảm các quy định của pháp luật. Đồng bào và chiến sĩ cả nước đã hăng hái tham gia việc chuẩn bị cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI.

1. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, ngày 19-5-2002

Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, sau một thời gian chuẩn bị tích cực, chu đáo và khẩn trương, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI được tiến hành vào ngày Chủ nhật 19-5-2002, đúng dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 112 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt được thắng lợi to lớn, bảo đảm yêu cầu dân chủ, đúng pháp luật, an toàn và tiết kiệm; 49.768.515 cử tri cả nước đã hăng hái đi bỏ phiếu, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, thực hiện trách nhiệm của công dân, trực tiếp tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân và vì dân. Tỷ lệ cử tri đi bầu so với tổng số cử tri cả nước đạt 99,73%. Đây là tỷ lệ đạt được cao nhất từ trước đến nay, điều đó thể hiện tinh thần yêu nước và ý thức chính trị, khẳng định niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI là sự tiếp tục quá trình đổi mới hệ thống chính trị và thực hiện công cuộc cải cách bộ máy nhà nước. Kết quả cuộc bầu cử quyết định chất lượng hoạt động của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất theo tinh thần Luật bầu cử đại biểu Quốc hội được sửa đổi, bổ sung. Ngày 24-5-2002, Hội đồng bầu cử Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 217 NQ/HĐBC công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XI trong cả nước. Theo đó, tổng số đơn vị bầu cử trên cả nước là 188. Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu là 498 người. Tổng số cử tri ghi trong danh sách 49.902.967 người. Tổng số cử tri đã đi bầu 49.768.515 người. Số cử tri vãng lai tham gia bầu cử là 133.374 người. Số phiếu hợp lệ là 49.560.669 phiếu. Tỷ lệ cử tri đi bầu so với tổng số cử tri là 99,73%.

Tổng số người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XI là 498 người, trong đó đại biểu Quốc hội khóa X tái cử: 135 người (27,11%), đại biểu Quốc hội ở các cơ quan Trung ương: 154 người (30,92%), đại biểu Quốc hội địa phương: 344 người (69,08%), đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số: 86 người (17,27%), đại biểu Quốc hội là phụ nữ: 136 người (27,31%), đại biểu Quốc hội trẻ tuổi: 56 người (11,24%), đại biểu Quốc hội có trình độ đại học và trên đại học: 465 người, đạt tỷ lệ 93,37%, trên đại học: 126 người, đạt tỷ lệ 25,30%), đại biểu Quốc hội là người ngoài Đảng: 51 người (10,24%), đại biểu Quốc hội là người tự ứng cử: 2 người (0,40%), đại biểu Quốc hội là chức sắc tôn giáo: 7 người (1,40%), đại biểu Quốc hội thuộc khối doanh nghiệp: 25 người (5,02%) trong đó, doanh nghiệp nhà nước có 20 người (4,02%), doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có 5 người (1,0%).

Nhìn chung, những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã hội tụ đủ tiêu chuẩn theo quy định. Cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội khóa XI về cơ bản đạt yêu cầu theo dự kiến. Đại biểu Quốc hội là phụ nữ, là người dân tộc thiểu số đạt tỷ lệ cao hơn khóa trước, đại biểu trẻ tuổi cũng đạt tỷ lệ khá; hầu hết đại biểu có trình độ đại học và trên đại học. Với thành phần, cơ cấu đại biểu được bầu, Quốc hội khóa XI đã “bao gồm mọi thành phần nhân dân, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, nghề nghiệp, trong Đảng và ngoài Đảng, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử đã đánh giá kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và thống nhất nhận định: “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã đạt được thắng lợi to lớn và thành công tốt đẹp; bảo đảm dân chủ, đúng pháp luật, an toàn và tiết kiệm”. Do yêu cầu nhiệm vụ mới, số lượng đại biểu Quốc hội khóa XI so với khóa X tăng 48 đại biểu, đưa tổng số đại biểu lên 498 người. Việc tăng thêm số lượng đại biểu Quốc hội ở khóa XI đã tạo điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa cơ cấu đại biểu và tiêu chuẩn đại biểu. Quốc hội khóa XI đã thể hiện hợp lý hơn về cơ cấu giữa đại biểu các ngành, các giới, dân tộc, độ tuổi; giữa đại biểu công tác ở Trung ương và đại biểu hoạt động tại địa phương. Yêu cầu về tiêu chuẩn đại biểu được nâng cao và toàn diện hơn, số đại biểu có năng lực, trình độ nhiều hơn, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của người đại biểu, góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội; đó chính là cơ sở để Quốc hội khóa XI có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tuy nhiên, trong các khâu chuẩn bị cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI vẫn còn một số hạn chế, đó là: việc hướng dẫn về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách; về kê khai tài sản đối với những người ứng cử còn chậm, dẫn đến tình trạng nhiều địa phương lúng túng trong việc triển khai thực hiện. Trong quá trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử, nhiều tỉnh, thành phố để số dư người ứng cử so với số đại biểu được bầu ở các đơn vị bầu cử quá ít, hạn chế việc lựa chọn đại biểu trong quá trình bầu cử. Công tác chỉ đạo chưa thật sâu sát đến từng tổ bầu cử nên đã phải tiến hành bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu số 3 (thôn Dương Lôi, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn) thuộc đơn vị bầu cử số 2, tỉnh Bắc Ninh.

Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã đạt được thắng lợi to lớn và thành công tốt đẹp. Điều đó thể hiện ý thức chính trị, trách nhiệm công dân, trình độ dân trí và sinh hoạt dân chủ của các tầng lớp nhân dân đã được nâng lên một bước. Kết quả đó thể hiện sự gắn bó và niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo tiền đề để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thành mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

2. Quốc hội khóa XI bầu và phê chuẩn các cơ quan và các chức danh lãnh đạo bộ máy nhà nước

Trong khí thế thắng lợi của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, ngày 17-7-2002, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI đã khai mạc trọng thể tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự phiên khai mạc có Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội khóa X Nguyễn Văn An, các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các vị cán bộ cách mạng lão thành, nhiều vị đại biểu Quốc hội các khóa trước và đông đủ các vị đại biểu Quốc hội vừa mới trúng cử trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Đến dự phiên khai mạc còn có nhiều vị khách trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc tế tại Hà Nội, đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước.

Phát biểu tại kỳ họp, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh chỉ rõ: “Quốc hội khóa XI là Quốc hội đầu tiên của nước ta trong thế kỷ mới. Quốc hội khóa XI có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, vừa có vinh dự to lớn, vừa có trách nhiệm nặng nề trước vận mệnh của dân tộc ta trong những năm đầu của thế kỷ XXI”.

Với ý nghĩa đó, Tổng Bí thư yêu cầu Quốc hội cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Nhà nước mà Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã xác định.

Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng theo nguyên tắc: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, hoàn toàn không có sự phân lập giữa các quyền này. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Việc cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải gắn liền với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Hai là, tiến hành mạnh mẽ việc cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước: “...kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện có hiệu quả quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”.

Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất và năng lực của các cơ quan và cán bộ tư pháp.

Để nâng cao chất lượng và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động lập pháp của Quốc hội, Tổng Bí thư nhấn mạnh, cần có chương trình lập pháp dài hạn cho cả thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở đó, xây dựng chương trình kế hoạch lập pháp hằng năm và cả nhiệm kỳ. Đổi mới hơn nữa quy trình lập pháp bảo đảm việc xây dựng luật phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, bao gồm nhiều công đoạn với nhiều chủ thể tham gia; đổi mới công tác lấy ý kiến nhân dân và các chuyên gia; thay đổi cách thức và nâng cao hiệu quả thông qua luật tại các kỳ họp Quốc hội.

Cùng với việc yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lập pháp, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đề nghị Quốc hội khóa XI đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát. Trong đó, công tác giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc đang được nhân dân quan tâm và kỳ vọng. Đồng thời, tăng cường giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo của công dân và các kiến nghị của cử tri. Tăng cường các hình thức giám sát của Quốc hội trong và ngoài các kỳ họp; tập trung giám sát việc thực hiện lời hứa của các cơ quan nhà nước đối với các chất vấn của cử tri.

Nhằm thực hiện tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Tổng Bí thư yêu cầu phải phấn đấu để Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, trên cơ sở những nguồn thông tin đầy đủ, phát huy trí tuệ, đầu tư công sức, thảo luận dân chủ, tìm ra phương án tối ưu, quyết định một cách thực chất các vấn đề về kế hoạch và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, các chương trình quốc gia, các dự án đầu tư lớn, các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và nhân sự cũng như các vấn đề quan trọng khác; đồng thời có chương trình và
kế hoạch đổi mới hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội, nhất là các hoạt động khảo sát thực tiễn, tiếp xúc với cử tri, với nhân dân; thu thập, phân tích thông tin để có cơ sở quyết định chính xác. Mỗi đại biểu Quốc hội dù ở cương vị công tác nào cũng phải đề cao trách nhiệm người đại biểu của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn xã hội, theo trách nhiệm và quyền hạn do Hiến pháp quy định, đã, đang và sẽ tiếp tục chăm lo xây dựng Nhà nước và Quốc hội thật sự của dân, do dân và vì dân, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả”.

Phát biểu khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội khóa X Nguyễn Văn An khẳng định thắng lợi quan trọng của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI; nêu lên những thành tựu cơ bản của Quốc hội khóa X; đồng thời, xác định những nhiệm vụ quan trọng tại kỳ họp. Tiếp đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đọc Tờ trình Quốc hội về dự kiến danh sách Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa XI. Với 99% số phiếu tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua danh sách Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa XI gồm 18 ủy viên do ông Trần Đình Hoan làm Trưởng ban.

Căn cứ vào Điều 89 Hiến pháp 1992 và Điều 69 Luật tổ chức Quốc hội, căn cứ kết quả thẩm tra của Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa XI, ngày 19-7-2002, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 01 NQ/2002/QH11, xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội của 498 vị đã được Hội đồng bầu cử công bố trúng cử trong cuộc bầu cử ngày 19-5-2002 theo biên bản tổng kết cuộc bầu cử ngày 24-5-2002 của Hội đồng bầu cử.

Nội dung quan trọng trong chương trình nghị sự của kỳ họp thứ nhất là Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các chức danh của các cơ quan của Quốc hội; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về thành lập Hội đồng Quốc phòng và An ninh; đồng thời quyết định một số vấn đề quan trọng khác nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ngày 23-7-2002, sau khi nghe Chủ tịch Quốc hội khóa X Nguyễn Văn An đọc báo cáo kết quả trao đổi ở Đoàn đại biểu Quốc hội về chức danh Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu các chức danh nói trên. Kết quả:

Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội

Chủ tịch

Các Phó Chủ tịch

 

 

Các ủy viên

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

 

Nguyễn Văn An

Trương Quang Được

Nguyễn Phúc Thanh

Nguyễn Văn Yểu

 

Tráng A Pao

Lê Quang Bình

Trần Thị Tâm Đan

Vũ Đức Khiển

Nguyễn Đức Kiên

Vũ Mão

Bùi Ngọc Thanh

Nguyễn Thị Hoài Thu

Hồ Đức Việt

Tiếp sau đó, căn cứ tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước; căn cứ kết quả trao đổi ở Đoàn đại biểu Quốc hội, ngày 24-7-2002, Quốc hội đã nhất trí danh sách và bầu ông Trần Đức Lương giữ chức Chủ tịch nước; Quốc hội cũng đã trao đổi ở Đoàn về dự kiến nhân sự Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Ngày 25-7-2002, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu cử. Kết quả:

Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước

Chủ tịch

Phó Chủ tịch

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Trần Đức Lương

Trương Mỹ Hoa

 

Nguyễn Văn Hiện

 

Hà Mạnh Trí

Ngày 29-7-2002, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trình Quốc hội danh sách đề cử để Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên Hội đồng Dân tộc; bầu Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các ủy viên của các ủy ban của Quốc hội; Trưởng đoàn Thư ký và các thành viên của Đoàn Thư ký kỳ họp. Trên cơ sở trao đổi ý kiến tại các Đoàn đại biểu Quốc hội, ngày 30-7-2002, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu cử. Kết quả:

1. Hội đồng Dân tộc do ông Tráng A Pao làm Chủ tịch. Phó Chủ tịch gồm các ông, bà: Bùi Thị Bình, Mã Điền Cư, Huỳnh Đảm (Bảy Đảm), Yly Niê Kđăm, Nguyễn Thị Nương và 33 ủy viên.

2. Ủy ban Pháp luật do ông Vũ Đức Khiển làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Nguyễn Thị Bắc, Phan Trung Lý, Nguyễn Văn Thuận, Trần Thế Vượng và 29 ủy viên.

3. Ủy ban Kinh tế và Ngân sách do ông Nguyễn Đức Kiên làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Dương Thu Hương, Tào Hữu Phùng, Trịnh Huy Quách, Đặng Văn Thanh và 35 ủy viên.

4. Ủy ban Quốc phòng và An ninh do ông Nguyễn Phúc Thanh, Phó Chủ tịch Quốc hội kiêm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông Nguyễn Văn Khá, Nguyễn Kim Khanh và 35 ủy viên.

5. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng do bà Trần Thị Tâm Đan làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Nguyễn Viết Chức, Lê Minh Hồng, Nguyễn Đình Hương, Trương Thị Mai và 32 ủy viên.

6. Ủy ban về Các vấn đề xã hội do bà Nguyễn Thị Hoài Thu làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Tôn Thất Bách, Trần Thị Minh Chánh, Lương Phan Cừ, Lê Văn Diêu, Đặng Như Lợi và 31 ủy viên.

7. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường do ông Hồ Đức Việt làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông: Trần Việt Hùng, Vũ Minh Mão, Nguyễn Văn Tri và 33 ủy viên.

8. Ủy ban Đối ngoại do ông Vũ Mão làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Ngô Anh Dũng, Tôn Nữ Thị Ninh, Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyễn Ngọc Trân và 29 ủy viên.

9. Đoàn Thư ký kỳ họp do ông Bùi Ngọc Thanh làm Trưởng Đoàn và 10 ủy viên.

Sau khi Quốc hội nhất trí thông qua việc đổi tên và thành lập mới một số bộ và cơ quan ngang bộ, ngày 8-8-2002, Quốc hội đã biểu quyết phê chuẩn việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

Cùng ngày, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trình Quốc hội phê chuẩn danh sách Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu. Kết quả:

Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ

Thủ tướng

Các Phó Thủ tướng

Phan Văn Khải

Nguyễn Tấn Dũng

Vũ Khoan

Phạm Gia Khiêm

Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Bộ trưởng Bộ Công an

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Bộ trưởng Bộ Tài chính

Bộ trưởng Bộ Thương mại

Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải

Bộ trưởng Bộ Xây dựng

Bộ trưởng Bộ Thủy sản

Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Bộ trưởng Bộ Y tế

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông

Bộ trưởng Bộ Nội vụ

Tổng Thanh tra Chính phủ

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục, Thể thao

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ

Phạm Văn Trà

Lê Hồng Anh

Nguyễn Dy Niên

Uông Chu Lưu

Nguyễn Sinh Hùng

Trương Đình Tuyển

 

Nguyễn Thị Hằng

Đào Đình Bình

Nguyễn Hồng Quân

Tạ Quang Ngọc

Phạm Quang Nghị

Nguyễn Minh Hiển

 

Lê Huy Ngọ

Hoàng Trung Hải

Võ Hồng Phúc

Trần Thị Trung Chiến

 

Hoàng Văn Phong

 

Mai Ái Trực

 

Đỗ Trung Tá

Đỗ Quang Trung

Quách Lê Thanh

Lê Đức Thúy

 

Nguyễn Danh Thái

 

Ksor Phước

 

Lê Thị Thu

 

Đoàn Mạnh Giao

 

Hội đồng Quốc phòng và An ninh

Chủ tịch

Phó Chủ tịch

Các ủy viên

Trần Đức Lương

Phan Văn Khải

Nguyễn Văn An

Phạm Văn Trà

Lê Hồng Anh

Nguyễn Dy Niên

 

Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội không chỉ có nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của mình nhằm đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, mà còn phải đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XI có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước trong suốt nhiệm kỳ. Với trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, việc bầu và phê chuẩn nhân sự cấp cao của Nhà nước đã được Quốc hội tiến hành nghiêm túc, dân chủ, đúng pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác nhân sự.

Việc Quốc hội khóa XI bầu những đại biểu có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và trí tuệ xứng đáng vào các chức danh lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, phản ánh sinh động khối đại đoàn kết toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, góp phần quan trọng, đặt nền móng và tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XI - một nhiệm kỳ có nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Ngày 23-7-2002, sau khi được bầu lại làm Chủ tịch Quốc hội khóa XI, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã thay mặt các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát biểu bày tỏ niềm xúc động và chân thành cảm ơn sự tín nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội và nhấn mạnh: “...với trách nhiệm là cơ quan thường trực của Quốc hội, tại kỳ họp đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có nhiều ý nghĩa này, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội và với cương vị Chủ tịch Quốc hội, chúng tôi xin nguyện cùng với các vị đại biểu Quốc hội trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kiên trì phấn đấu, đem hết khả năng và nghị lực, đề cao tinh thần trách nhiệm, đóng góp tích cực vào việc tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập pháp, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát tối cao và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, để Quốc hội ngày càng xứng đáng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”.

Được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong bài phát biểu nhậm chức, Chủ tịch nước Trần Đức Lương bày tỏ lòng biết ơn về sự tin cậy, giao phó trách nhiệm của Quốc hội và nhân dân. Trên cương vị công tác của mình, Chủ tịch nước đã hứa trước Quốc hội: “nguyện phấn đấu hết sức mình phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”.

Nhận thức rõ vinh dự to lớn gắn liền với trách nhiệm nặng nề khi đảm nhận cương vị người đứng đầu Chính phủ, trong lời phát biểu nhậm chức, Thủ tướng Phan Văn Khải hứa trước Quốc hội: “tận trung với nước, tận hiếu với dân, mang hết tâm sức gánh vác trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó”2; đồng thời khẳng định quyết tâm sẽ cùng Chính phủ “tiếp tục đổi mới phương thức làm việc, đề cao trách nhiệm của tập thể và của từng người để tăng cường hiệu lực chỉ đạo, điều hành” và “dốc lòng đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”3.

Ngày 12-8-2002, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI đã thành công tốt đẹp. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước mới do Quốc hội khóa XI bầu ra có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình tiếp tục sự nghiệp đổi mới; tạo nền tảng vững chắc và động lực mới để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI.

Để Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, cùng với việc kiện toàn tổ chức của Quốc hội, cần phải có chương trình kế hoạch đổi mới hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội, nhất là các hoạt động khảo sát thực tiễn, tiếp xúc với cử tri, thu thập và phân tích thông tin để có cơ sở quyết định chính xác những vấn đề quan trọng. Do đó, phát biểu tại phiên bế mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã nhấn mạnh về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc tích cực thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân, góp phần cùng cơ quan nhà nước các cấp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong năm 2002, tạo tiền đề cho Quốc hội khóa XI hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Chủ tịch Quốc hội cũng kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài nêu cao truyền thống đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, lao động cần cù, thông minh và sáng tạo, phát huy mọi nguồn lực trong nước và hiệu quả hợp tác quốc tế, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

II- QUỐC HỘI KHÓA XI TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÌ MỤC TIÊU DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, XÃ HỘI CÔNG BẰNG, DÂN CHỦ, VĂN MINH

1. Bối cảnh hoạt động của Quốc hội khóa XI

Để đưa dân tộc vững bước tiến lên trong thế kỷ mới, Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã đề ra phương hướng cơ bản là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích bối cảnh mới của thế giới và khu vực, thế và lực của đất nước sau những năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định, đất nước đang đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức khó lường.

Trên bình diện quốc tế, cùng với các trào lưu tư tưởng mới với sự thắng thế của “lực lượng cánh tả” ở các nước châu Mỹ Latinh và trào lưu dân chủ ở các nước châu Âu là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đặc biệt là sự xuất hiện của các phần tử cực đoan ở một số nước có đông người theo đạo Hồi đã đe dọa hòa bình và ổn định thế giới. Từ sau cuộc khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ, tình hình diễn biến càng phức tạp, chủ nghĩa khủng bố đã hình thành và ngày càng phát triển, gây hoang mang dao động cho nhân dân toàn thế giới, đặt nhân loại trước nguy cơ của một cuộc “chiến tranh hủy diệt” bởi vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân. Nhiều bất trắc, gây tác động bất lợi đến kinh tế, chính trị và an ninh đối với nhiều nước. Thực trạng đó, đòi hỏi tất cả các quốc gia, dân tộc phải đoàn kết lại và kịp thời đề ra đối sách nhằm tiêu diệt và vô hiệu hóa những hành động manh động của chủ nghĩa khủng bố, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển.

Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới; tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường đáng kể; khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng lên; văn hóa - xã hội có nhiều mặt tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia được giữ vững. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém, bất cập; việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội còn kém hiệu quả làm cho nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực.

Bên cạnh đó, đất nước vẫn đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ rõ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây bất bình và làm suy giảm lòng tin của nhân dân.

Mặc dù vậy, nét nổi bật của tình hình vẫn là những nỗ lực phấn đấu của Đảng, Nhà nước và nhân dân nhằm đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đi vào cuộc sống. Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua các kỳ hội nghị đã lần lượt cụ thể hóa nhiều nội dung trọng yếu của Nghị quyết, từ phát triển kinh tế - xã hội đến văn hóa, giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị... Nhà nước đã có nhiều cố gắng thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, tiếp tục đổi mới quản lý và điều hành, cải cách hành chính, đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại..., nhân dân ta tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và vì cuộc sống của chính mình đã đẩy mạnh lao động sản xuất, nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống. Nhờ đó, những thành tựu đạt được tiếp tục tạo sự chuyển biến theo hướng tích cực. Đặc biệt, năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002 tuy một số chỉ tiêu về kinh tế - xã hội không đạt mức dự kiến, một số mặt công tác còn yếu kém, nhưng nhìn chung kinh tế tiếp tục tăng trưởng, tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có nhiều tiến bộ.

Trên cơ sở kế thừa, phát huy những thành quả, những bài học kinh nghiệm của Quốc hội các khóa trước, Quốc hội khóa XI đã tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện có hiệu quả quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

2. Đẩy mạnh hoạt động lập pháp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh

Để đưa đất nước vững bước tiến lên trong thế kỷ mới, Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng (4-2001) đã xác định: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là một nhiệm vụ cơ bản lâu dài, có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001-2010. Điều đó không chỉ khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Đại hội đã tập trung trí tuệ giải quyết nhiều vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược nhằm đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, hội nhập sâu rộng với thế giới. Đại hội xác định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước”.

Đại hội chỉ rõ, phải đổi mới cơ cấu tổ chức và kiện toàn Quốc hội, nâng cao năng lực đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, hoàn thiện cơ chế bầu cử theo hướng thật sự dân chủ, làm cho Quốc hội thật sự là cơ quan quyền lực tối cao, bảo đảm thực hiện tốt các chức năng hiến định, nhất là chức năng lập pháp, từng bước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa IX đã có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội, hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết xác định: “Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội để nâng cao chất lượng của các luật, pháp lệnh; hoàn thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội chuyên trách; tổ chức chặt chẽ và hiệu quả công tác giám sát tối cao. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan của Quốc hội... Tiếp tục hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp”.

Trước yêu cầu cấp bách phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, ngày 24-5-2005, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 48-NQ/TW Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết xác định mục tiêu của chiến lược là: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.

Để hoàn thành những nhiệm vụ có tính định hướng nêu trên, Nghị quyết đề ra các nhóm giải pháp về xây dựng hệ pháp luật và 5 nhóm giải pháp về thi hành pháp luật:

Một là, xác định rõ các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

Hai là, đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến pháp luật đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật. Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.

Ba là, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Bốn là, hiện đại hóa phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật.

Năm là, hoàn thiện pháp luật về công báo, bảo đảm tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, văn bản hành chính có hiệu lực áp dụng chung đều được công bố trên Công báo đầy đủ, kịp thời và chính xác.

Sáu là, nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật.

Phát triển chủ trương của Đại hội đại biểu lần thứ IX, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật... Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh”.

Có thể nói, Đại hội lần thứ IX, Đại hội lần thứ X và Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị đều thống nhất chủ trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam với những mục tiêu, định hướng và giải pháp mang tầm chiến lược, đã tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy hoạt động lập pháp của Quốc hội đi vào chiều sâu, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước. Những chủ trương đó, một mặt, bắt nguồn từ sự đổi mới tư duy của Đảng, mặt khác, bắt nguồn từ yêu cầu của thực tiễn cuộc sống đặt ra, đòi hỏi phải tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật, thông qua pháp luật. Pháp luật phải trở thành công cụ chủ yếu để điều chỉnh các mối quan hệ nảy sinh trong cuộc sống, nhất là trong quan hệ kinh tế - xã hội.

Thực hiện chủ trương ”kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội” đã được Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định, Quốc hội khóa XI đã từng bước xác lập cơ chế phân công, phối hợp trong tổ chức và hoạt động nói chung. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban cũng như các cơ quan giúp việc của Quốc hội tiếp tục được tăng cường, tổ chức và phương thức hoạt động được đổi mới một bước.

Điểm mới của Quốc hội khóa XI là sự gia tăng của các đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lên 118 người trong số 498 đại biểu (đến cuối nhiệm kỳ tăng lên 121 đại biểu chuyên trách), chiếm gần 25% tổng số đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc sắp xếp, bố trí cán bộ, kiện toàn bộ máy của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội chuyên trách đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội, nhất là trong lĩnh vực lập pháp.  

Trong nhiệm kỳ khóa XI, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành gần 50 phiên họp định kỳ, thực hiện nghiêm túc trình tự, thủ tục xem xét các vấn đề thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật, bảo đảm vai trò chỉ đạo, điều hòa hoạt động giữa Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Điểm đáng lưu ý nhất là Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thêm thẩm quyền chỉ đạo, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội đối với dự án luật để hoàn thiện dự án và cơ quan có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật đã hoàn thiện để Quốc hội xem xét, thông qua. Thực hiện chức năng hiến định, Ủy ban Thường vụ đã thực hiện được quyền giải thích pháp luật trên thực tế. Điều này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động lập pháp của Quốc hội, mở ra khả năng Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện được đầy đủ thẩm quyền và trách nhiệm trong hoạt động lập pháp.

Do điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, phần lớn đại biểu hoạt động kiêm nhiệm, ngày 17-3-2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 369/2003/NQ-UBTVQH về việc thành lập Ban Công tác lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó xác định Ban Công tác lập pháp có các nhiệm vụ:

1. Chủ trì trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm và cả nhiệm kỳ để trình Quốc hội.

2. Phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

3. Chủ trì trong việc phối hợp với các cơ quan thẩm tra, cơ quan trình dự án, Ủy ban Pháp luật, Bộ Tư pháp hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản đối với dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết sau khi các văn bản này đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ cho ý kiến.

4. Phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội để cơ quan chủ trì thẩm tra trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét thông qua.

5. Chủ trì rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản đối với dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua để trình Quốc hội chứng thực.

6. Phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong công tác giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết.

7. Thực hiện những nhiệm vụ khác do Quốc hội giao.

Với nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định, Ban Công tác lập pháp có trách nhiệm góp phần nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội. Tuy nhiên, trong thực tế do những hạn chế và vướng mắc về cơ chế phối hợp giữa Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, nên Ban Công tác lập pháp đã không phát huy được hiệu quả.

Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội, tại kỳ họp thứ hai, ngày 16-12-2002, Quốc hội thông qua Nghị quyết 07/2002/NQ-QH11 ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội và Nghị quyết số 08/2002/NQ-QH11 ban hành Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội. Tiếp đó, ngày 25-9-2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Nghị quyết số 416/2003/NQ-UBTVQH11 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội và Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11, ngày 1-10-2003 về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu của Văn phòng Quốc hội.

Tại kỳ họp thứ 11, kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI (từ ngày 20-3 đến ngày 2-4-2007), Quốc hội đã xem xét, thảo luận và thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội, tạo điều kiện để Quốc hội tiếp tục đổi mới về tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Theo đó, Quốc hội đã quyết định thành lập mới 2 ủy ban, đó là: Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội trên cơ sở chia tách từ Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế và Ngân sách hiện hành.

Những thay đổi về cơ cấu, tổ chức của Quốc hội, đặc biệt là việc chia tách Ủy ban Pháp luật thành Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Tư pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các khóa sau, nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội, đưa hoạt động lập pháp từng bước đi vào chiều sâu, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, Quốc hội khóa XI tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp, bảo đảm việc soạn thảo, thẩm tra, thông qua dự án luật được nhanh chóng, có tính khả thi cao.

Tại kỳ họp thứ hai, ngày 16-12-2002, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây là đạo luật rất quan trọng tạo cơ sở pháp lý để hoạt động lập pháp được thực hiện theo đúng quy trình; đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan trình dự án, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra và đề cao trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc cho ý kiến đối với các dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua. Theo nội dung sửa đổi, bổ sung, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 đã xác lập quy trình thông qua dự án luật tại hai kỳ họp Quốc hội, tạo cơ sở vững chắc để Ủy ban Thường vụ Quốc hội lập kế hoạch triển khai hoạt động xây dựng pháp luật theo đúng tiến độ mà chương trình đã đề ra, đưa hoạt động lập pháp của Quốc hội đi vào nề nếp, chấm dứt tình trạng một dự án luật có thể trình ra Quốc hội nhiều lần, trong nhiều năm. Từ đó có căn cứ để xếp thứ tự xem xét, thông qua các dự án luật.

Chính nhờ những sửa đổi của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa XI đã có những tiến bộ, các văn bản luật được ban hành trong nhiệm kỳ tăng cả về số lượng và chất lượng. Theo thống kê, từ năm 2002 đến ngày 12-12-2006, Quốc hội đã ban hành được 80 đạo luật (trung bình mỗi năm Quốc hội ban hành được 20 đạo luật), nhiều gấp 2,5 lần so với thời gian tương tự trước đó.

Cũng tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 12/2002/QH11 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI (2002-2007) và năm 2003. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh toàn khóa, bao gồm 137 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, trong đó có 118 dự án luật thuộc chương trình chính thức và 19 dự án luật thuộc chương trình chuẩn bị bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước, trong nhiệm kỳ khóa XI, Quốc hội đã liên tục điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh toàn khóa. Tính đến trước kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XI đã 3 lần điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trong đó tiêu biểu nhất là việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005 theo hướng ban hành sớm hơn dự định và bổ sung một số luật chưa có trong chương trình như: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật phòng, chống nhiễm virút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AISD), Luật luật sư. Đây là lần điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm lớn nhất và cấp bách nhất của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI để phục vụ cho việc đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đáp ứng những quy định của Hiệp định Marrakesh về thành lập tổ chức WTO. Điều này một mặt thể hiện sự nhạy bén của Quốc hội trước yêu cầu của thực tiễn đất nước, song mặt khác cũng thể hiện sự yếu kém trong việc dự báo tình hình của cơ quan lập pháp.

Cùng với những điều chỉnh trong việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, việc soạn thảo văn bản pháp luật cũng được cải tiến. Trong nhiệm kỳ khóa XI, các cơ quan của Quốc hội được phân công soạn thảo nhiều dự án luật hơn so với các nhiệm kỳ trước. Điểm mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội nhiệm kỳ XI là lần đầu tiên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã chủ động đề xuất và chủ trì soạn thảo thành công dự án Luật giao dịch điện tử, mở ra khả năng các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có thể đề xuất, thực hiện sáng kiến lập pháp.

Đối với các dự án luật mà các cơ quan của Quốc hội được phân công soạn thảo, ngay sau khi được phân công, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã triển khai thành lập Ban soạn thảo với sự tham gia đầy đủ các cơ quan có liên quan. Ban soạn thảo đã quan tâm việc khảo sát thực tiễn làm cơ sở xây dựng luật, đồng thời tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện luật, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng; tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài... Trong quá trình xây dựng dự án luật, ban soạn thảo đã có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức hữu quan, nhất là với cơ quan thẩm tra, nhằm nâng cao chất lượng và tính khả thi của dự án luật.

 

Cũng trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã áp dụng kỹ thuật lập pháp “một luật sửa nhiều luật” (ban hành một luật để sửa đổi, bổ sung đồng thời các quy định trong các đạo luật khác có liên quan). Cách làm mới này đã giúp cho công tác xây dựng luật của Quốc hội có nhiều cải tiến, vừa tiết kiệm thời gian, đơn giản thủ tục mà vẫn bảo đảm chất lượng của dự án luật.

Hoạt động thẩm tra, lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật được coi trọng. Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002, góp phần tăng thêm trách nhiệm của cơ quan trình dự án, cơ quan chủ trì soạn thảo, các cơ quan thẩm tra và trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đối với các dự án luật quan trọng, trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội tổ chức thẩm tra kỹ lưỡng, bảo đảm đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Sự phối hợp trong công tác thẩm tra dự án luật giữa Hội đồng Dân tộc với các ủy ban của Quốc hội ngày càng chặt chẽ.

Vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích của người dân trong quá trình soạn thảo, thẩm tra và thông qua các dự án luật, pháp lệnh ngày càng được Quốc hội quan tâm. Việc lấy ý kiến về các dự án luật tập trung vào nhiều đối tượng, đặc biệt chú trọng đến các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của văn bản luật sẽ ban hành, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Các cơ quan truyền thông ngày càng tham gia sâu rộng vào hoạt động của Quốc hội nói chung, hoạt động lập pháp nói riêng. So với các nhiệm kỳ Quốc hội trước, số dự án luật đưa ra lấy ý kiến nhân dân tăng lên đáng kể. Các đợt lấy ý kiến nhân dân ngày càng hiệu quả, thể hiện tính dân chủ, sự thận trọng trong hoạt động lập pháp, huy động được trí tuệ của đông đảo nhân dân tham gia xây dựng luật, bảo đảm tính công khai, minh bạch ngay trong quá trình hoạch định chính sách.

Một trong những điểm mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa XI, đó là Quốc hội đã tổ chức nhiều hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách, nhằm phát huy trí tuệ của các vị đại biểu Quốc hội trong công tác lập pháp. Cho đến trước kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã tổ chức được 9 hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách với nội dung chủ yếu là xem xét, thảo luận và cho ý kiến về các dự án luật, dự thảo nghị quyết dự kiến sẽ trình Quốc hội trong phiên họp toàn thể. Đây là hình thức tư vấn tập thể giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan trình và thẩm tra dự án luật, dự thảo nghị quyết có thêm thông tin để hoàn thiện dự thảo luật, dự thảo nghị quyết cũng như báo cáo thẩm tra trình Quốc hội. Tuy nhiên, cho đến nay hình thức Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách chưa được pháp luật quy định. Do đó, tính pháp lý của hoạt động này chưa được rõ ràng.

Để có thể thông qua được nhiều luật, tiết kiệm thời gian và công sức, khắc phục hình thức “làm văn tập thể”, căn cứ quy định tại Điều 73 Luật tổ chức Quốc hội và các Điều 45, 45a, 45b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002, Quốc hội đã thực hiện quy trình xem xét dự án luật tại hai kỳ họp đối với những dự án luật phức tạp và thực hiện hình thức thảo luận các dự án luật trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại hai hội trường, góp phần nâng cao chất lượng văn bản luật, đẩy nhanh tiến độ làm luật, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức hữu quan, trước hết là Chính phủ không mất quá nhiều thời gian vào công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức này phần nào hạn chế quyền được tham gia xem xét, thảo luận đối với dự án luật của đại biểu Quốc hội; đồng thời làm tăng thêm kinh phí cho công tác xây dựng pháp luật.

Như vậy, trong nhiệm kỳ khóa XI, quy trình lập pháp của Quốc hội đã “được cải tiến hợp lý, chặt chẽ hơn; chất lượng thực hiện các khâu của quy trình lập pháp được nâng lên”.

Nhằm thể chế hóa chủ trương đổi mới công tác tài chính, ngân sách, tăng cường tính thống nhất của hệ thống ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương; đồng thời bảo đảm tính chủ động của địa phương và các ngành trong việc quản lý tài chính - ngân sách, đề cao vai trò, trách nhiệm của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong việc quyết định và giám sát thực hiện ngân sách, ngày 16-12-2002 tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã thông qua Luật ngân sách nhà nước, sửa đổi cơ bản Luật ngân sách nhà nước năm 1996 và ngày 17-6-2003 tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội đã thông qua Luật kế toán.

Để nâng cao năng lực giám sát của Quốc hội, bảo đảm thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao, ngày 17-6-2003 tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội đã thông qua Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thực hiện quyền giám sát chủ động, tích cực, đầy đủ và có nề nếp hơn. Sau khi luật hoạt động giám sát được ban hành, hoạt động giám sát của Quốc hội đã được tăng cường và đẩy mạnh. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc trong cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực từ kinh tế - ngân sách, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh đến đối ngoại, công tác tư pháp.

Nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cũng như phát huy vai trò của nhân dân trong việc lựa chọn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tại kỳ họp thứ năm, ngày 17-6-2003, Quốc hội thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi). Trong đó, có một số điểm mới đã được sửa đổi bổ sung: quy định cụ thể hơn tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân, tăng số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp, tăng số đại biểu ứng cử và số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử; tăng thời gian công bố ngày bầu cử, tăng tỷ lệ đại biểu là nữ và người dân tộc thiểu số trong Hội đồng nhân dân; quy định thẩm quyền của Thường trực Hội đồng nhân dân trong việc dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu hội đồng nhân dân được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử; thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong việc quyết định thành lập các tổ phụ trách bầu cử và về việc giới thiệu người ứng cử...

Để kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, đáp ứng tiêu chuẩn của Tổ chức Thươmg mại thế giới, nhiều bộ luật và luật, nhất là luật về kinh tế đã được Quốc hội xây dựng và ban hành. Chỉ tính từ năm 2005 đến hết nhiệm kỳ khóa XI, Quốc hội đã thông qua 26 dự án luật, trong đó hầu hết là các văn bản luật lần đầu tiên được soạn thảo, thông qua. Điểm nổi bật trong hoạt động lập pháp thời kỳ này là nội dung các luật được thông qua ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước mà Việt Nam ký kết. Đặc biệt tại kỳ họp thứ bảy, ngày 14-6-2005, Quốc hội đã thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, quy định cụ thể hơn về nghĩa vụ quốc gia trong việc thực hiện điều ước quốc tế. Ngoài ra, trong nhiệm kỳ khóa XI, Quốc hội đã thảo luận và thông qua: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Luật thi đua khen thưởng; Luật thủy sản; Luật thương mại; Luật hợp tác xã; Luật điện lực; Luật thanh tra; Luật giao thông đường thủy nội địa; Luật đường sắt; Bộ luật hàng hải Việt Nam; Luật xuất bản; Luật quốc phòng; Luật giáo dục, Luật an ninh quốc gia; Bộ luật dân sự; Luật nghĩa vụ quân sự; Luật bảo vệ môi trường; Luật thanh niên; Luật công an nhân dân...

Trong 5 năm (2002-2007), Quốc hội đã thông qua được 84 luật, gấp đôi số luật mà Quốc hội khóa X đã thông qua. Về cơ bản các dự án luật được “chuẩn bị kỹ hơn, bám sát yêu cầu của cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm, phản ánh đầy đủ thực tiễn xã hội”.

Cùng với việc tập trung xây dựng luật, Quốc hội khóa XI cũng quan tâm đến việc xây dựng và ban hành các pháp lệnh, nhằm kịp thời điều chỉnh những quan hệ nảy sinh trong cuộc sống khi chưa có đủ điều kiện xây dựng luật, như: Pháp lệnh dân số; Pháp lệnh ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam... Đặc biệt là Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, việc hạn chế quyền tự do dân chủ của công dân chỉ có thể được thực hiện bằng các thủ tục tư pháp đã được quy định công khai, minh bạch trong Luật hình sựLuật tố tụng hình sự. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến lớn trong nhận thức về quyền tự do dân chủ của công dân, đồng thời chấm dứt việc khám xét tuỳ tiện của các cơ quan công quyền, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân và kinh doanh theo luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do Quốc hội tập trung cho hoạt động xây dựng luật và thực hiện chủ trương “giảm dần pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ”, nên trong nhiệm kỳ khóa XI chỉ có 35 pháp lệnh được thông qua, ít hơn so với nhiệm kỳ Quốc hội khóa X.

Nhìn chung, hoạt động lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện sự nỗ lực cao, đánh dấu bước tiến mới của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan trong công tác xây dựng pháp luật, góp phần đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa XI vẫn còn nhiều bất cập, tình trạng “luật ống”, “luật khung” còn phổ biến. Việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp pháp luật còn hạn chế. Trong tổng số các dự án luật được thông qua, số luật sửa đổi, bổ sung còn nhiều, chiếm hơn 44%, trong đó có nhiều đạo luật thuộc lĩnh vực kinh tế do có sự chuyển đổi nhanh về cơ cấu nền kinh tế nên tỷ lệ sửa đổi khá cao, chiếm gần 58% tổng số dự án luật thuộc lĩnh vực này.

Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu là do chất lượng soạn thảo một số dự án luật chưa cao nên phải sửa đổi nhiều. Quy trình lập pháp chưa đồng bộ, toàn diện, mới chủ yếu tập trung về mặt kỹ thuật (thủ tục). Nhiều vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận chưa được tiến hành biểu quyết làm cơ sở cho việc chỉnh lý, trình Quốc hội xem xét, thông qua. Chưa quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan phối hợp thẩm tra đối với dự án được phân công tham gia thẩm tra; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để huy động các chuyên gia tham gia tích cực, hiệu quả vào hoạt động lập pháp. Việc lựa chọn, sắp xếp thứ tự ưu tiên đối với một số dự án trong chương trình có chỗ còn chưa sát với thực tế, điều đó đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng của dự án luật được ban hành trong nhiệm kỳ khóa XI.

3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát, giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của Quốc hội đối với sự phát triển của đất nước, quán triệt các nghị quyết của Quốc hội, hoạt động giám sát trong nhiệm kỳ khóa XI được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tập trung chỉ đạo chặt chẽ. Hàng năm, trong chương trình công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lĩnh vực giám sát được thể hiện với những nội dung, hình thức và sự phân công cụ thể, rõ ràng. Cùng với việc chỉ đạo xây dựng dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, từ đầu nhiệm kỳ, Chủ tịch Quốc hội đã làm việc với Thường trực Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội và các cơ quan hữu quan nhằm đẩy mạnh và nâng cao tính hiệu quả của hoạt động giám sát, để Quốc hội ngày càng xứng đáng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.

 

Thực hiện Luật hoạt động giám sát của Quốc hội được thông qua tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XI (họp từ ngày 2-5 đến ngày 7-6-2003), hoạt động giám sát trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có nhiều chuyển biến tích cực, đầy đủ hơn, có nề nếp hơn theo chương trình, kế hoạch và thực sự có chất lượng, hiệu quả. Quyền giám sát tối cao tại kỳ họp Quốc hội được tăng cường trên cơ sở hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội thông qua theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Điểm mới trong hoạt động giám sát của nhiệm kỳ khóa XI, đó là: bên cạnh việc giám sát trên diện rộng, thuộc nhiều lĩnh vực quan trọng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã từng bước đổi mới hình thức như giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, giám sát hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bảo đảm để hoạt động giám sát trở thành thường xuyên đối với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Có thể nói, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội được thông qua năm 2003 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.

Về nội dung giám sát, Quốc hội đã tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc trong cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực từ kinh tế - ngân sách, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, đến quốc phòng - an ninh, đối ngoại, công tác tư pháp và các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc. Một trong những nội dung quan trọng của việc thực hiện chương trình giám sát của Quốc hội, đó là: bên cạnh việc xem xét báo cáo của các cơ quan, tổ chức theo quy định, Quốc hội đã tăng cường giám sát tối cao tại kỳ họp về các chuyên đề, như: việc khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản; việc triển khai thực hiện một số dự án, công trình quan trọng quốc gia như Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Chương trình trồng mới 5 triệu hécta rừng. Quốc hội cũng đã xem xét các báo cáo chuyên đề về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về chất lượng giáo dục và tình hình đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; về kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn; về tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy... Quốc hội đã ghi nhận những kết quả đạt được, thẳng thắn chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm, nguyên nhân, giải pháp khắc phục và đã thông qua các nghị quyết, nhằm tạo chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các vấn đề quan trọng nêu trên, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể:

- Về chất lượng giáo dục trong những năm đổi mới có những mặt chuyển biến tích cực đã góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, từ hệ thống, quy mô, chất lượng đến công tác quản lý giáo dục vẫn còn những yếu kém, bất cập. Quốc hội đã thảo luận, khẳng định những thành tựu đạt được về giáo dục và đào tạo; đồng thời nhấn mạnh những giải pháp tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nhằm nâng cao chất lượng, trong đó nhấn mạnh đến việc tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo; đặc biệt coi trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo điều kiện cho nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục thường xuyên tự tu dưỡng, học tập để cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ...

- Về công tác đầu tư xây dựng cơ bản, Quốc hội nhận định trong những năm qua, công tác này đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm, cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân..., nhưng về lĩnh vực này vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc, như: quy hoạch, kế hoạch đầu tư chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao; việc quyết định chủ trương đầu tư có những trường hợp còn thiếu chính xác; tình trạng đầu tư dàn trải diễn ra phổ biến; thất thoát, lãng phí xảy ra ở nhiều ngành, lĩnh vực; nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở mức cao, hiệu quả đầu tư thấp.... Trên cơ sở thảo luận, đánh giá những kết quả đạt được, những khuyết điểm, yếu kém, phân tích rõ nguyên nhân, trách nhiệm tập thể, cá nhân, Quốc hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước với những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả, tăng cường kỷ cương, lập lại trật tự trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước và quyết định lấy năm 2005 là năm “Nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, đầu tư dàn trải, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản” nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt về lĩnh vực này trong thời gian tiếp theo.

Đối với việc giám sát chuyên đề Về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Quốc hội nhận định đây là một công trình quốc gia có ý nghĩa chiến lược, nhằm phục vụ phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước. Do thời gian thực hiện dự án đã bị kéo dài, gây lãng phí lớn về kinh tế, làm giảm hiệu quả đầu tư, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân. Qua giám sát, Quốc hội đã chỉ ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan, rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc; đồng thời yêu cầu Chính phủ có giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả đối với Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất nói riêng và các công trình quan trọng quốc gia nói chung; yêu cầu các cơ quan của Quốc hội tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động giám sát về lĩnh vực này.

Đất đai là lĩnh vực có nhiều bức xúc, khiếu kiện trong nhân dân, được cử tri và các vị đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm. Trong nhiệm kỳ, Quốc hội khóa XI đã tiến hành giám sát chuyên đề Về việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật đất đai. Qua xem xét báo cáo của Chính phủ và Báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội đã thảo luận, phân tích sâu sắc, đánh giá về những kết quả đạt được, những khuyết điểm tồn tại trong công tác thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về những tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất, những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về đất đai; nguyên nhân, giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý đất đai nói chung và công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói riêng; đồng thời đề ra những giải pháp cụ thể để khắc phục.

Giám sát văn bản quy phạm pháp luật là nội dung quan trọng và mới được Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội thực hiện từ nhiệm kỳ khóa XI. Lần đầu tiên, tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XI đã tiến hành giám sát chuyên đề về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và đã thông qua nghị quyết chuyên đề về vấn đề này. Qua đó, Quốc hội đã nhất trí đánh giá: Trong thời gian qua, Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có nhiều cố gắng trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội vào cuộc sống; tăng cường trật tự kỷ cương trong quản lý nhà nước, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đồng thời Quốc hội cũng chỉ ra những mặt yếu, kém, nguyên nhân và những giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết thiết thực và hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.

Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được Quốc hội quan tâm và tiến hành thường xuyên. Trước tình hình khiếu kiện ngày càng phức tạp, nhiều vụ đông người, kéo dài, vượt cấp, việc xem xét, giải quyết của các cơ quan chức năng còn bất cập, Quốc hội đã đưa nội dung này vào chương trình giám sát và đã thông qua Nghị quyết về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Quốc hội đánh giá những kết quả đã đạt được, các mặt hạn chế và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ để Chính phủ tập trung chỉ đạo, lập lại kỷ cương, kỷ luật hành chính làm chuyển biến tình hình, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Hàng chục ngàn đơn, thư khiếu nại, tố cáo đã được các cơ quan Quốc hội nghiên cứu xử lý theo thẩm quyền, trong đó có nhiều vấn đề được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết dứt điểm.

Ngoài ra, Quốc hội đã dành nhiều thời gian để giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bên cạnh giám sát thường xuyên của Ủy ban Pháp luật, tại nhiều kỳ họp vấn đề này đã được Quốc hội quan tâm xem xét thông qua báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đặc biệt là việc các cơ quan tiến hành tố tụng ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện thẩm quyền mới theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sựBộ luật tố tụng dân sự; xem xét báo cáo kết quả giám sát việc chấp hành pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, theo quy định của pháp luật và thực hiện sự phân công theo nghị quyết về chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội đã tích cực và thường xuyên tiến hành giám sát các nội dung về lĩnh vực liên quan và báo cáo kết quả với Quốc hội, trong đó có nhiều nội dung được trình ra Quốc hội tại các kỳ họp. Để góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội tại kỳ họp, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã dành thời gian cho việc chuẩn bị, tổ chức nghiên cứu, khảo sát để xây dựng báo cáo trình Quốc hội hoặc chuẩn bị tư liệu, tổ chức nghiên cứu, khảo sát để tham gia thảo luận tại kỳ họp. Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ khóa XI là các đoàn đại biểu Quốc hội đã thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ giám sát tại địa phương một cách tích cực và có kết quả. Mặc dù trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội mới được ban hành, nhưng tùy theo từng điều kiện, hoàn cảnh, các đoàn đại biểu Quốc hội đã chủ động, cố gắng tổ chức giám sát các nội dung quan trọng, bức xúc ở địa phương, qua đó đã tham gia được nhiều ý kiến quan trọng vào việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách và nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành công việc của địa phương.

Cách thức tổ chức giám sát của Quốc hội ngày càng được cải tiến, hoàn thiện theo hướng tăng cường hoạt động giám sát tối cao, xem xét báo cáo của Chính phủ kết hợp với giám sát thực tế tại địa phương, cơ sở; vừa thực hiện giám sát thường xuyên, vừa giám sát theo chuyên đề. Sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với các đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát được phát huy tốt, tạo những nét mới trong hoạt động giám sát của nhiệm kỳ XI.

Đặc biệt, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội đã trở thành sinh hoạt thường xuyên của Quốc hội. Với tinh thần thẳng thắn, xây dựng, hoạt động chất vấn đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề bức xúc trong quản lý, điều hành đối với các lĩnh vực kế hoạch - đầu tư, giao thông - vận tải, tài nguyên - môi trường, văn hoá - thông tin, giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao và y tế. Việc gắn kết giữa hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với hoạt động giám sát chuyên đề và thảo luận về kinh tế - xã hội có nhiều cải tiến; rút ngắn thời gian trình bày báo cáo để tăng thời gian đối thoại giữa thành viên Chính phủ với các vị đại biểu Quốc hội. Các bộ trưởng có trách nhiệm trả lời chất vấn đã kiểm điểm nghiêm túc những việc đã làm được, những việc chưa làm được, những yếu kém, khó khăn, vướng mắc, phân tích sâu sắc nguyên nhân chủ quan và khách quan; thẳng thắn, cầu thị nhận khuyết điểm của ngành mình và trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý, điều hành; đồng thời cũng nêu lên những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm của các bộ, ngành hữu quan, của các cấp chính quyền địa phương và ý thức trách nhiệm của cộng đồng dân cư. Thông qua hoạt động này, Quốc hội đã thực hiện quyền giám sát tối cao của mình đối với các chức danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, góp phần nâng cao hơn tính tích cực và tinh thần trách nhiệm trước nhân dân của các thành viên Chính phủ, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và lòng mong đợi của cử tri cả nước, góp phần vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh.

Quy trình giám sát được tiến hành theo luật định và luôn được cải tiến, đổi mới. Việc Quốc hội thông qua nghị quyết về chương trình hoạt động giám sát hằng năm, trong đó lựa chọn những vấn đề trọng tâm, bức xúc, phù hợp với yêu cầu của thực tế đã làm cho hoạt động giám sát đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của cuộc sống. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành kế hoạch chung và phân công một Phó Chủ tịch Quốc hội theo dõi, chỉ đạo sát sao việc thực hiện các chương trình giám sát, điều hòa, phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan của Quốc hội.

Triển khai nghị quyết của Quốc hội và thực hiện sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, năm 2004 Hội đồng Dân tộc tiếp tục tổ chức giám sát việc thực hiện chế độ cử tuyển quy định tại Điều 78 Luật giáo dục được ban hành năm 1998 và có hiệu lực năm 1999. Kết quả giám sát, Hội đồng Dân tộc đã kiến nghị phải tiến hành tổng kết 15 năm kể từ khi có chế độ cử tuyển, đặc biệt sau 5 năm thực hiện chế độ cử tuyển đã được quy định trong Luật giáo dục; đồng thời sửa đổi, bổ sung nội dung theo hướng ưu tiên cử tuyển đối với những dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp. Kiến nghị của Hội đồng Dân tộc đã được Quốc hội đưa vào nghị quyết; Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện.

Kế thừa kinh nghiệm hoạt động giám sát của các khóa trước, trong nhiệm kỳ khóa XI, Hội đồng Dân tộc đã tổ chức 16 đoàn đến 35 tỉnh, 94 huyện, 160 xã giám sát việc thực hiện các chương trình, chính sách phát triển kinh tế -xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số; giám sát trực tiếp các chương trình, chính sách như: định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001-2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên (Chương trình 168); chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005 (Chương trình 173); chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn...

Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nhưng nhìn chung hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Những kết quả đó thể hiện rõ nét nhất là nhiều kiến nghị của Hội đồng Dân tộc đã được Chính phủ và các bộ, ngành tiếp thu, xử lý, góp phần giảm thiểu những vấn đề bức xúc do thực tiễn cuộc sống đặt ra; đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân các dân tộc miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Hoạt động giám sát của Ủy ban Pháp luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã có nhiều cố gắng. Xác định giám sát là một nhiệm vụ quan trọng và cũng không ít khó khăn, phức tạp; do đó, Ủy ban Pháp luật đã tập trung công sức và trí tuệ để tổ chức giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách; giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch của cơ quan, tổ chức ở Trung ương thuộc lĩnh vực Ủy ban Pháp luật phụ trách.

Ủy ban cũng đã tổ chức nhiều phiên họp để thẩm tra các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các báo cáo của Chính phủ về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật, về công tác thi hành án.

Trong 5 năm, từ 2002 đến 2007, Ủy ban Pháp luật đã tổ chức 19 đoàn giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan Trung ương và địa phương; đặc biệt tập trung giám sát việc giải quyết một số vụ án cụ thể do Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; tiếp nhận, phân loại và xử lý 33.860 đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực hoạt động tư pháp gửi đến Ủy ban Pháp luật. Ủy ban Pháp luật đã có 1.544 công văn chuyển đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân đến các cơ quan có trách nhiệm để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.

Thông qua hoạt động giám sát, Ủy ban đã có nhiều kiến nghị với các cơ quan tư pháp Trung ương. Những kiến nghị của Ủy ban đã góp phần làm rõ, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong các cơ quan tư pháp khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để hạn chế vi phạm pháp luật gây ra oan, sai; bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Ủy ban Kinh tế và Ngân sách thực hiện chức năng giám sát 

với nhiều hình thức khác nhau: giám sát chung việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước; giám sát chuyên đề; giám sát việc ban hành văn bản dưới luật, pháp lệnh; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và công dân; tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước, giám sát tiến độ xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng...

Kết quả đạt được trong hoạt động giám sát của Ủy ban được thể hiện trên một số mặt cụ thể, như: Ủy ban đã lựa chọn những vấn đề lớn, bức xúc để đưa vào kế hoạch, chương trình giám sát; đồng thời chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình giám sát bảo đảm hài hòa giữa hoạt động giám sát với hoạt động xây dựng pháp luật và các hoạt động khác theo chức năng, nhiệm vụ.

Trong nhiệm kỳ khóa XI, Ủy ban Kinh tế và Ngân sách đã phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Dân tộc, các ủy ban khác của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan, bộ, ngành ở Trung ương trong hoạt động giám sát. Lần đầu tiên, thực hiện Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban đã chủ trì giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức giám sát có chất lượng 4 chuyên đề lớn, đó là: công tác xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước; việc thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật đất đai; việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Kết thúc mỗi đợt giám sát, Ủy ban đều tổng hợp kịp thời những vấn đề lớn và đề xuất kiến nghị các giải pháp giúp các cơ quan, tổ chức ở Trung ương tháo gỡ khó khăn vướng mắc về cơ chế, chính sách và tìm cách khắc phục các hạn chế. Qua giám sát, Ủy ban đã có thêm nhiều thông tin mới có giá trị phục vụ cho việc thẩm tra các báo cáo về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và xây dựng các luật, pháp lệnh.

Cùng với hoạt động lập pháp, hoạt động giám sát của Ủy ban Quốc phòng và An ninh luôn được coi trọng, cải tiến và đổi mới hình thức giám sát theo hướng ngày càng thiết thực và hiệu quả. Trong nhiệm kỳ khóa XI, Ủy ban đã tiến hành 24 cuộc giám sát, tập trung vào các nội dung, như: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với đầu tư xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng và an ninh trên các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia; công tác xây dựng lực lượng biên phòng, dân quân tự vệ, dự bị động viên, cảnh sát biển; một số vấn đề nổi cộm như trật tự an toàn giao thông; công tác phòng cháy, chữa cháy; tình hình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, ngân sách cho quốc phòng và an ninh theo nghị quyết của Quốc hội...

Ngoài việc hoàn thành chương trình giám sát của mình, Ủy ban còn cử thành viên tham gia nhiều đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và một số ủy ban khác của Quốc hội, như: tham gia giám sát các công trình quan trọng quốc gia; giám sát việc thực hiện Hiệp định phân giới cắm mốc trên các tuyến biên giới; tình hình quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện sau khi được tăng thẩm quyền xét xử một số loại án và việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước...

Từ kinh nghiệm hoạt động của các nhiệm kỳ trước, ngoài việc tăng cường xem xét vai trò, trách nhiệm của Chính phủ và các cơ quan Trung ương trong việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực quốc phòng - an ninh, Ủy ban còn tiến hành khảo sát tình hình thực tế ở một số địa phương, đơn vị cơ sở, nhằm thu thập thông tin để làm rõ thêm những nhận định, đánh giá và kết luận trong mỗi cuộc giám sát.

Hoạt động giám sát của Ủy ban Quốc phòng và an ninh đã bám sát tư tưởng chỉ đạo về xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; từ đó tập trung đi sâu xác định nguyên nhân, hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách để đề xuất giải pháp tháo gỡ. Trong quá trình thực hiện, Ủy ban luôn coi trọng đổi mới cách thức chuẩn bị và tiến hành giám sát, như: chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung giám sát cụ thể, sát đúng với tình hình có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp điều kiện hoạt động của Ủy ban; chỉ đạo tốt công tác chuẩn bị cho từng cuộc giám sát và tổ chức, chỉ đạo, điều hành hoạt động của các đoàn giám sát; phát huy dân chủ trong xem xét kết luận nội dung được giám sát và lựa chọn những vấn đề cần kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan.

Nhìn chung, hiệu quả hoạt động giám sát của Ủy ban Quốc phòng và An ninh trong nhiệm kỳ XI được nâng lên rõ rệt, khắc phục từng bước tính hình thức trong hoạt động giám sát. Thông qua báo cáo giám sát hoặc thuyết trình, Ủy ban đã đề xuất với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành nhiều vấn đề mang tính vĩ mô, những giải pháp cụ thể để tháo gỡ những cơ chế, chính sách về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Những kiến nghị của Ủy ban đều xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, do đó đã góp phần cùng Chính phủ, các cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang, góp phần tích cực vào hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc.

Căn cứ nghị quyết về nhiệm vụ và nghị quyết về chương trình giám sát hằng năm của Quốc hội, theo sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong nhiệm kỳ khóa XI, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tập trung giám sát việc triển khai thực hiện các hoạt động khoa học, công nghệ của các bộ, ngành, viện, trường; đi sâu giám sát theo các chuyên đề, tập trung vào các nội dung chủ yếu, như: giám sát chương trình chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trước hết là công nghệ sinh học, chương trình giống quốc gia; việc quản lý chất lượng, nghiên cứu, ứng dụng, nhập khẩu để đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ; việc thực hiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm...

Hoạt động giám sát của Ủy ban được tiến hành tương đối toàn diện thông qua việc nghiên cứu, thu thập thông tin, nghe báo cáo của các cơ quan hữu quan và dành chủ yếu thời gian để đi khảo sát thực tế tại các địa phương, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp có liên quan. Kết quả giám sát được Ủy ban tổng hợp báo cáo đầy đủ với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và gửi các cơ quan hữu quan của Chính phủ để nghiên cứu, xử lý theo thẩm quyền, hoặc xây dựng thành báo cáo thuyết trình của Ủy ban trước Quốc hội, nhằm góp phần xây dựng, sửa đổi chính sách, pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Những vấn đề Ủy ban đề cập trong các báo cáo, thuyết trình đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các vị đại biểu Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhiều vấn đề đã được cụ thể hóa bằng các quy định trong các văn bản pháp luật như: Luật sở hữu trí tuệ; Luật chuyển giao công nghệ; Luật công nghệ thông tin; Luật bảo vệ môi trường; Luật bảo vệ và phát triển rừng; Luật đầu tư; Pháp lệnh công nghệ cao... Một số vấn đề được các cấp, các ngành ghi nhận và đã có tác động tích cực trong việc tăng cường quản lý nhà nước; bảo đảm chính sách, pháp luật, gắn chặt với đời sống xã hội như công tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, chương trình giống cây trồng, vật nuôi, tình hình thực thi quyền sở hữu trí tuệ, việc khai thác và sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia... Qua hoạt động giám sát, một số vấn đề bức xúc đã được Thường trực Ủy ban phối hợp với các cơ quan của Chính phủ bàn biện pháp khắc phục, giải quyết kịp thời.

Hoạt động giám sát của Ủy ban về Các vấn đề xã hội trong nhiệm kỳ khóa XI có chuyển biến thực sự cả về quy trình và chất lượng. Nội dung giám sát của Ủy ban tập trung vào các vấn đề mà dư luận xã hội và cử tri quan tâm, đó là: chính sách đối với người có công với cách mạng; vấn đề dân số, bảo hiểm xã hội, khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế; vấn đề đình công, chính sách với lao động di cư, dạy nghề và việc làm, xuất khẩu lao động; người cao tuổi, người tàn tật; phòng, chống ma túy, mại dâm; phòng, chống HIV/AIDS; thực hiện chính sách tôn giáo; xóa đói, giảm nghèo... Ủy ban thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên và phối hợp với các đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh để cùng giám sát một chuyên đề, từ đó xây dựng mỗi năm một thuyết trình trước Quốc hội về các nội dung đã giám sát. Thông qua hoạt động giám sát, Ủy ban đã kiên trì kiến nghị Chính phủ bổ sung một số chính sách, mức hưởng đối với người có công với cách mạng, chính sách đối với người hoạt động kháng chiến và con của họ nhiễm chất độc da cam, chính sách đối với thanh niên xung phong, xóa nhà dột nát cho những gia đình người có công với cách mạng...

Trong 5 năm (2002-2007), Ủy ban đã tổ chức 53 đoàn giám sát tại 49 tỉnh, thành phố; tổ chức hơn 20 cuộc họp nghe 7 bộ, cơ quan ngang bộ, Ban Tôn giáo Chính phủ báo cáo về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của các cơ quan này. Để nâng cao chất lượng giám sát, Ủy ban đã tổ chức hoạt động thu thập thông tin bằng các kênh khảo sát thực địa, thông tin từ thành viên Ủy ban, từ Hội đồng nhân dân các tỉnh và qua các hội nghị, hội thảo, tọa đàm; đặc biệt Ủy ban đã thực hiện thí điểm một số nghiên cứu, khảo sát do tổ chức và chuyên gia độc lập đánh giá để bảo đảm tính khách quan. Nhờ vậy, nhiều ý kiến của Ủy ban đã được tiếp thu và đưa vào trong dự án luật, pháp lệnh thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng, sát với thực tế, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển và phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế.

Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, cùng với việc coi trọng công tác xây dựng pháp luật, hoạt động giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng đã được tiến hành chủ động, tích cực, có bước đổi mới cả về nội dung, hình thức và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Việc giám sát thi hành pháp luật thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách luôn được coi trọng. Thông qua hoạt động giám sát, Ủy ban có thêm cơ sở thực tiễn để thẩm tra các dự án luật, trình bày các thuyết trình trước Quốc hội; đồng thời kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp cũng như những cơ chế, chính sách có liên quan đến các lĩnh vực văn hóa - thông tin, giáo dục - đào tạo, thể dục, thể thao và thanh, thiếu nhi.

Từ năm 2002 đến năm 2007, Thường trực Ủy ban đã tổ chức 31 cuộc làm việc với các bộ, ngành, tổ chức hữu quan. Ủy ban đã tổ chức 27 đoàn giám sát tại 55 lượt tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 30 đoàn của Thường trực Ủy ban đi giám sát, khảo sát theo chuyên đề tại 49 lượt tỉnh, thành phố. Trong quá trình giám sát, Ủy ban đặc biệt chú trọng tới những địa phương mang tính đại diện cho các vùng miền, với những điều kiện thuận lợi và khó khăn khác nhau để đánh giá, nhận xét sát thực tế. Kết quả giám sát được Ủy ban xử lý theo hướng: góp ý với địa phương về những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương; kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện; đưa vào báo cáo thẩm tra, thuyết trình trước Quốc hội về những vấn đề như: tình hình triển khai thay sách giáo khoa tiểu học (2002); tình hình bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa (2003, 2005); tình hình đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề (2006)... Nhìn chung, những kiến nghị của Ủy ban đều được các cơ quan hữu quan tiếp thu và giải quyết.

Trong lĩnh vực văn hóa - thông tin, hoạt động giám sát của Ủy ban tập trung vào việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Kết quả giám sát cho thấy, cuộc vận động đã được các địa phương hưởng ứng tích cực và thu được kết quả đáng khích lệ. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng (ấp, khu phố, bản), xã văn hóa, khu dân cư tiên tiến đã phát triển mạnh mẽ tại các địa phương, ngày càng đi vào chiều sâu và giảm dần tính phô trương hình thức. Nhờ đó, đã đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, phòng ngừa tệ nạn xã hội, cải thiện vệ sinh môi trường, phát huy tình làng, nghĩa xóm, góp phần làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Ủy ban cũng đã tập trung giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật đối với các đối tượng thanh, thiếu niên và nhi đồng, vừa để nắm tình hình chung, vừa để phục vụ cho việc thẩm tra: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi)Luật thanh niên. Qua giám sát, Ủy ban đã có báo cáo đánh giá tích cực về hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Các hoạt động thanh niên tình nguyện tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xung phong đi hỗ trợ các vùng khó khăn, tổ chức chiến dịch Mùa hè xanh, Tiếp sức mùa thi, Hiến máu nhân đạo... đã được thanh niên hưởng ứng tích cực, đem lại kết quả thiết thực. Một số dự án lớn như dự án: xây dựng “Đảo thanh niên Bạch Long Vĩ”, “Đảo thanh niên Cồn Cỏ”, “Khu tái định cư mẫu của thanh niên phục vụ công trình thủy điện Sơn La”, “Xây dựng đường Hồ Chí Minh”, “Trồng mới 5 triệu hécta rừng”... được các cấp bộ đoàn huy động thanh niên tích cực tham gia. Những hoạt động này vừa có tác dụng giáo dục và rèn luyện thanh niên, vừa góp phần tạo thêm việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội theo định hướng chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010.

Trong chương trình hoạt động giám sát của nhiệm kỳ, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã hoàn thành 3 chuyên đề giám sát do Quốc hội giao, đó là: chuyên đề về tình hình thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài sống và làm việc tại Việt Nam; chuyên đề về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Ngoại giao (2005); chuyên đề về việc thực hiện các hiệp định về biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng (2006).

Ngoài nhiệm vụ giám sát chung do Quốc hội giao, một số nội dung giám sát theo chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban cũng được nghiên cứu, lựa chọn phù hợp với tình hình thực tiễn. Từ cuối nhiệm kỳ khóa X, Ủy ban đã tổ chức đoàn công tác liên Ủy ban tiến hành giám sát việc thu hút, sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA trong 10 năm (1993-2002) để kịp thời góp ý vào việc chuẩn bị các dự thảo Luật xây dựngLuật đất đai; đồng thời kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ các biện pháp, nhằm thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.

Đối với việc giám sát các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, mặc dù có nhiều khó khăn về kinh phí và thời gian, nhưng trong các năm 2002, 2005 và 2006, Ủy ban đã chủ động, kết hợp thực hiện nội dung giám sát này nhân các chuyến công tác của Ủy ban. Cụ thể, đã giám sát tình hình hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam tại Thụy Sĩ (2002); Malaixia, Hàn Quốc, Vương quốc Bỉ và Cộng hòa Liên bang Đức (2005); Vương quốc Hà Lan, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Bungari, Marốc, Tây Ban Nha, Rumani, Anh, Nga, Pháp và Italia (2006).

Ngoài ra, Ủy ban cũng đã cử đoàn giám sát về tình hình dân tộc, tôn giáo tại 2 tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai (8-2003); cử đại biểu tham gia đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo từng chuyên đề như: đoàn giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản (2005); đoàn giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ (2005); đoàn giám sát việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp (2006)... Các kiến nghị thông qua hoạt động giám sát của Ủy ban Đối ngoại bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực.

Nhìn chung, kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội đã có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Qua giám sát, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã đưa ra nhiều ý kiến, kiến nghị (thông qua các báo cáo thẩm tra, thuyết trình và thảo luận) đóng góp vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Nhận thức về hoạt động giám sát của Quốc hội không ngừng được nâng lên, từ cơ quan tiến hành giám sát đến cơ quan chịu sự giám sát và các cơ quan khác trong hệ thống chính trị, được đông đảo cử tri và nhân dân quan tâm. Các cơ quan chịu sự giám sát đã tích cực cộng tác, đáp ứng yêu cầu của cơ quan giám sát. Phần lớn những kết luận, kiến nghị của cơ quan giám sát đã được các cơ quan chức năng tiếp thu, chuyển hóa vào quá trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, cơ chế chính sách và công tác chỉ đạo điều hành của ngành, lĩnh vực. Từ đó đã góp phần tạo nên thành tựu chung về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật những năm 2002-2007. Trong các báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ hằng năm, Chính phủ đã khẳng định thành quả đạt được có phần đóng góp quan trọng từ kết quả giám sát của Quốc hội. Tác động của hoạt động giám sát cũng đã tạo nên chuyển biến đáng kể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Quốc hội còn có những mặt hạn chế, yếu kém sau:

Thứ nhất, hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát tuy đã được nâng lên một bước nhưng mới đáp ứng ở mức thấp so với yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống, quy định của Hiến pháp, pháp luật và nguyện vọng của nhân dân. Nội dung và số lượng các cuộc giám sát mặc dù đã được đưa vào chương trình, kế hoạch hằng năm nhiều hơn các nhiệm kỳ trước, nhưng vẫn chưa cân đối so với hoạt động lập pháp.

Thứ hai, một số nội dung quan trọng như việc giám sát quản lý, sử dụng ngân sách, công tác cải cách hành chính chưa được đầu tư thỏa đáng. Kết quả giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa nhiều và chưa thường xuyên; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Các nội dung giám sát lớn, quan trọng chưa được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân công, bố trí hợp lý, còn tập trung nhiều vào một số ủy ban. Công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động chưa được duy trì thường xuyên; chưa phát huy được sức mạnh tổng thể của các cơ quan Quốc hội trong việc giám sát các vấn đề bức xúc mà cử tri cả nước và đại biểu Quốc hội quan tâm.

Thứ ba, trong một số trường hợp, cơ quan chịu sự giám sát chưa nghiêm túc trong việc tiếp thu giải quyết kiến nghị và trả lời cơ quan tiến hành giám sát. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều kiến nghị giám sát chung chung, một số kiến nghị thiếu cụ thể; cơ quan tiến hành giám sát cũng chưa chú trọng theo dõi, đôn đốc đến cùng việc tiếp thu, giải quyết các kiến nghị để đánh giá đúng kết quả, hiệu lực giám sát.

Thứ tư, việc lựa chọn hình thức giám sát còn lúng túng; nhiều cuộc giám sát mới dừng lại ở việc nghe báo cáo, nắm tình hình nên hiệu quả chưa cao. Một số hoạt động giám sát còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội, với các đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân địa phương.

Thứ năm, quy định về bỏ phiếu tín nhiệm đối với chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn là vấn đề mới quan trọng trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, nhưng sau một nhiệm kỳ vẫn chưa được thực hiện.

Thứ sáu, chưa chủ động tìm kiếm, khai thác trên nhiều kênh thông tin mà vẫn chủ yếu dựa vào thông tin do chính cơ quan chịu sự giám sát cung cấp; các công cụ phục vụ hoạt động giám sát (kiểm toán, báo chí, các kênh thông tin độc lập...) còn chưa đủ mạnh, do đó phát huy hiệu quả chưa cao; chưa xây dựng được các thiết chế phù hợp để bảo đảm cho Quốc hội có đầy đủ điều kiện tiến hành hoạt động giám sát một cách thực chất.

Thứ bảy, hoạt động giám sát của các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội còn nhiều khó khăn, lúng túng và kết quả chưa thật rõ nét. Có trường hợp chưa xác định đúng đối tượng giám sát nên đã trực tiếp giải quyết các vụ việc cụ thể không đúng chức năng, nhiệm vụ.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chủ yếu là do một số quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội còn thiếu cụ thể hoặc chưa thật phù hợp với thực tiễn, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời (nhất là cơ chế tiếp thu giải quyết các kết luận, kiến nghị sau giám sát; thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm trong cơ cấu đại biểu Quốc hội còn lớn, nhất là đại biểu giữ cương vị chủ chốt trong hệ thống hành pháp, dẫn đến chưa khắc phục được tâm lý nể nang, né tránh, sợ đụng chạm trong hoạt động giám sát. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của các cơ quan hữu quan.

Mặc dù còn có những hạn chế, yếu kém, nhưng trong những năm 2002-2007 hoạt động giám sát của Quốc hội khóa XI đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần thúc đẩy việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đề ra những giải pháp có hiệu quả để cùng Chính phủ, các ngành, các cấp tháo gỡ khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội.

4. Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan, trong nhiệm kỳ khóa XI, Quốc hội đã quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm của đất nước; ngân sách nhà nước, nhân sự cấp cao của Nhà nước; chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia; việc thành lập mới, tái lập tỉnh, điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các vấn đề về bảo đảm quốc phòng, an ninh và chính sách cơ bản về đối ngoại... Về cơ bản, việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước đã đạt được một số kết quả nhất định, tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010.

Về quyết định nhân sự cấp cao của Nhà nước, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XI đã tiến hành bầu những người đứng đầu các cơ quan nhà nước và phê chuẩn việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ. Tuy nhiên, sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã có những thay đổi. Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, kết hợp hài hòa giữa lãnh đạo Đảng và lãnh đạo Nhà nước, sự kế thừa liên tục của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cần thiết phải bố trí lại một số chức danh lãnh đạo cấp cao của Nhà nước.

Ngày 24-6-2006, phát biểu tại kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XI, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá cao những đóng góp xứng đáng của Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao khác của nhà nước. Tổng Bí thư ghi nhận đề nghị chính đáng của các đồng chí muốn được chuyển giao nhiệm vụ cho những người kế nhiệm, chấp thuận để các đồng chí được thôi đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo Nhà nước.

Với tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân cùng với việc tiếp tục đổi mới cách thức xem xét, quyết định nhân sự, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước đối với ông Trần Đức Lương; miễn nhiệm chức vụ Thủ tướng Chính phủ đối với ông Phan Văn Khải; miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Nguyên Văn An; đồng thời tiến hành quy trình bỏ phiếu bầu Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội theo danh sách do Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị giới thiệu. Kết quả:

- Ông Nguyễn Phú Trọng, đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX, X, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VII, VIII, IX, X; Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X; Bí thư Thành ủy Hà Nội được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội.

 - Ông Nguyễn Minh Triết, đại biểu Quốc hội khóa IX, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VIII, IX, X; Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X; Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh được bầu giữ chức vụ Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Ông Nguyễn Tấn Dũng, đại biểu Quốc hội khóa X, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VI, VII, VIII, IX, X; Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VIII, IX, X; Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ được bầu giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngoài những quyết định quan trọng về thay đổi nhân sự cấp cao của Nhà nước, tại kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XI đã ban hành Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với ông Lê Huy Ngọ; tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm ông Cao Đức Phát giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Tiếp đó, tại kỳ họp thứ chín, căn cứ các Tờ trình số 34 và số 35/TTr-TTg ngày 27-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm và bổ nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng, bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ. Cụ thể:

1. Ông Vũ Khoan thôi giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ.

2. Ông Phạm Văn Trà thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và bổ nhiệm ông Phùng Quang Thanh giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

3. Ông Nguyễn Dy Niên thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và bổ nhiệm ông Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

4. Ông Nguyễn Sinh Hùng được bổ nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ và bầu bổ sung ông Vũ Văn Ninh giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính.

5. Ông Phạm Quang Nghị thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin và bổ nhiệm ông Lê Doãn Hợp giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.

6. Ông Quách Lê Thanh thôi giữ chức vụ Tổng Thanh tra Chính phủ và bổ nhiệm ông Trần Văn Truyền giữ chức vụ Tổng Thanh tra Chính phủ.

7. Ông Nguyễn Minh Hiển thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và bầu bổ sung ông Nguyễn Thiện Nhân giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

8. Ông Đào Đình Bình thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải vì đã có khuyết điểm trong việc thực hiện nhiệm vụ và bầu bổ sung ông Hồ Nghĩa Dũng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.

9. Ông Trương Vĩnh Trọng được bầu giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, cũng tại kỳ họp thứ chín, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 64/2006/QH11, phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách Phó Chủ tịch và ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh như sau:

1. Ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

2. Ông Nguyễn Phú Trọng giữ chức vụ ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

3. Ông Phạm Gia Khiêm giữ chức vụ ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

4. Ông Phùng Quang Thanh giữ chức vụ ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

Phát biểu tại buổi lễ nhậm chức, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “sẽ cố gắng hết sức mình, khắc phục khó khăn, ra sức học tập và rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, kế tục xứng đáng nhiệm vụ của các đồng chí đi trước, góp phần cùng các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội cả trên lĩnh vực lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước để Quốc hội ngày càng xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới”.

Trong nhiệm kỳ, Quốc hội cũng đã xem xét, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội của một số vị đại biểu Quốc hội. Ngày 29-11-2005, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 53/2005/QH11 về việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội đối với ông Lê Minh Hoàng, đại biểu Quốc hội khóa XI, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc đơn vị bầu cử số 3 (gồm quận 4 và quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh) vì đã cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân. Tiếp đó, ngày 29-11-2006, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 70/2006/NQ-QH11 bãi nhiệm đại biểu Quốc hội đối với ông Mạc Kim Tôn, đại biểu Quốc hội khóa XI, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình vì đã có hành vi lợi dụng chức vụ, gây bất bình trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng bộ và chính quyền địa phương, không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bên cạnh quyết định kế hoạch hằng năm, triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, trên cơ sở xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc, toàn diện các mặt thuận lợi và khó khăn, những nguyên nhân khách quan và chủ quan trong thời gian 2001-2005 và dự báo tình hình trong thời gian 2006-2010, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 55/2006/QH11, ngày 29-6-2006 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010.

Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết của Quốc hội nêu rõ: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

Nghị quyết cũng đề ra các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm và đến năm 2010: Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm 7,5% - 8%. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 15%-16%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 43%-44%; tỷ trọng các ngành dịch vụ 40%-41%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Tốc độ tăng dân số vào năm 2010 khoảng 1,14%. Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị dưới 5%. Tỷ lệ hộ nghèo còn 10-11%. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống dưới 20%. Tỷ lệ che phủ rừng 42-43%. Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở đô thị là 95%, ở nông thôn là 75%.

Nghị quyết của Quốc hội đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp lớn của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010) như sau:

1. Phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển dịch đồng bộ cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý về đầu tư phát triển, xóa bỏ cơ chế xin - cho, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, chống thất thoát lãng phí và nợ đọng, tăng cường quản lý chất lượng các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.

2. Chủ động hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư dịch vụ và các lĩnh vực khác. Chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Tận dụng điều kiện thuận lợi, phát huy lợi thế, hạn chế những tác động bất lợi trong hội nhập để tăng cường thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

3. Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hoàn thành sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật doanh nghiệp.

4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế và tôn trọng yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường trong các hoạt động kinh tế. Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển các loại thị trường hàng hóa và dịch vụ, bất động sản, lao động, tài chính và khoa học công nghệ.

5. Tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước và xã hội, trong và ngoài nước cho đầu tư và phát triển.

6. Phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ theo hướng phát huy lợi thế và tính cạnh tranh của từng vùng về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, gắn kết liên ngành, liên vùng.

7. Tổ chức thực hiện có hiệu quả, theo đúng tiến độ các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và các dự án đã được phê duyệt, các chương trình mục tiêu quốc gia.

8. Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo một cách toàn diện; phát triển quy mô hợp lý, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - mục tiêu và nền tảng tinh thần xã hội.

9. Nâng cao năng lực và đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức hoạt động khoa học, công nghệ. Đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ trong các ngành kinh tế, phát triển công nghệ cao và hiện đại hóa công nghệ truyền thống. Từng bước phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học thành kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

10. Thực hiện các giải pháp kiềm chế tốc độ tăng dân số. Nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng. Xây dựng quy hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp ứng xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số ở nông thôn và thành thị.

11. Nâng cao trình độ, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ.

12. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Khẩn trương hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

13. Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện dân chủ trên mọi lĩnh vực. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật phòng chống tham nhũngLuật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Để hoàn thành các nhiệm vụ nêu trên, Nghị quyết nêu rõ: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cần tiếp tục đổi mới hoạt động về mọi mặt, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội ngày càng cao. Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng luật, pháp lệnh để hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh và cải tiến hoạt động giám sát, thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Chính phủ cần đổi mới và cải tiến phương thức hoạt động điều hành, thống nhất quản lý vĩ mô, định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ. Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ trên nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại đã đề ra trong kế hoạch 5 năm (2006-2010).

Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả hoạt động trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ và biện pháp đã được Quốc hội thông qua.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên động viên nhân dân phát huy vai trò làm chủ, nêu cao tinh thần yêu nước, tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5 năm (2006-2010), tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước.

Với việc xem xét, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm 2001-2005 và thông qua Nghị quyết số 56/2006/NQ-QH11, ngày 29-6-2006 về kế hoạch 5 năm 2006-2010, Quốc hội khóa XI đã thể hiện ngày càng rõ vị trí, vai trò của mình trong việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Một trong những điểm nổi bật của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI là chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước được tăng cường sau khi Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội, Luật ngân sách nhà nước được sửa đổi, bổ sung một số điều để đáp ứng yêu cầu tiếp tục sự nghiệp đổi mới.

Từ năm 2003, sau khi Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi) có hiệu lực, Quốc hội đã thực hiện quyết định về ngân sách nhà nước một cách đầy đủ và thực chất hơn, bao gồm dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm. Những vấn đề tài chính, ngân sách được Quốc hội thảo luận công khai đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả các quyết định của Quốc hội.

Tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2004 và Nghị quyết về phân bổ ngân sách Trung ương năm 2004. Tuy lần đầu tiên Quốc hội trực tiếp thực hiện phân bổ ngân sách Trung ương và mức bổ sung từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương, nhưng với tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch, khơi dậy tiềm năng phát triển và bảo đảm công bằng giữa các địa phương, Nghị quyết đã được các đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua với sự đồng thuận cao.

Bên cạnh đó, Quốc hội còn xem xét, thông qua Nghị quyết về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất, chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 1-7-1991 và giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết một số trường hợp cụ thể để trên cơ sở đó, Chính phủ hướng dẫn, tổ chức chỉ đạo thực hiện thống nhất trong cả nước, góp phần vào sự nghiệp ổn định và phát triển đất nước.

Cũng tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội đã xem xét và quyết định chia tách tỉnh Cần Thơ thành 2 đơn vị hành chính, bao gồm: thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang; chia tỉnh Đắk Lắk thành 2 tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk; chia tỉnh Lai Châu thành 2 tỉnh Lai Châu và Điện Biên. Quốc hội đã giao Chính phủ thực hiện Nghị quyết với tinh thần sớm ổn định về tổ chức đơn vị hành chính để tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, bảo đảm đời sống của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng, trật tự xã hội; bảo đảm đoàn kết, tổ chức và biên chế gọn nhẹ, tiết kiệm.

Quốc hội cũng đã xem xét, quyết định chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia: Dự án Nhà máy thủy điện Sơn La, Dự án tổng thể đường Hồ Chí Minh; cụm Khí - Điện - Đạm tại Bà Rịa - Vũng Tàu và xem xét tình hình triển khai thực hiện và quyết định điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ đối với Dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất và Dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng.

Tại kỳ họp thứ hai, tháng 12-2002, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Phương án xây dựng công trình thủy điện Sơn La tại xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La với các chỉ số quy định: mức nước dâng từ 205m đến 215m; công suất lắp máy từ 1.970MW đến 2.400MW; sản lượng điện trung bình hằng năm từ 7.555 triệu kwh đến 9.209 triệu kwh; vốn đầu tư từ 31.000 tỷ đồng đến 37.000 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước 70%, vốn ngoài nước 30%; số dân tái định cư đến năm 2010 từ 79.000 người đến 91.000 người. Quốc hội giao Chính phủ chỉ đạo tiếp tục khảo sát, hoàn chỉnh hồ sơ dự án, thiết kế kỹ thuật; quản lý chặt chẽ các khâu của quá trình thực hiện dự án. Dự kiến công trình sẽ khởi công vào năm 2005, phát điện tổ máy số 1 vào năm 2012 và hoàn thành toàn bộ công trình vào năm 2015.

Theo đề nghị của Chính phủ, tại kỳ họp thứ sáu (2004), Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương xây dựng đường Hồ Chí Minh. Đây là một dự án lớn, rất quan trọng và mang tính đặc thù, có ý nghĩa đặc biệt về giao thông, quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Quốc hội đã quyết định về chủ trương đầu tư đường Hồ Chí Minh theo tiêu chuẩn công trình quan trọng quốc gia. Quốc hội giao Chính phủ triển khai xây dựng công trình với 5 yêu cầu cơ bản và đề nghị Chính phủ hằng năm phải có báo cáo với Quốc hội về tình hình thực hiện dự án; đồng thời yêu cầu các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các địa phương có liên quan, trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội.

Ngày 14-6-2005, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 44/2005/QH11 về việc tập trung chỉ đạo xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất. Quốc hội nhận thấy, việc chưa tập trung chỉ đạo đúng mức công tác chuẩn bị, triển khai và giám sát thực hiện dự án xây dựng nhà máy để bị chậm nhiều năm, gây lãng phí lớn về kinh tế, làm giảm hiệu quả đầu tư, ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của nhân dân, làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Quốc hội cho đó là khuyết điểm lớn của Chính phủ và Quốc hội. Để rút kinh nghiệm sâu sắc trong quá trình chỉ đạo xây dựng các công trình quan trọng quốc gia, Quốc hội yêu cầu Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện dự án với yêu cầu bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả tổng hợp; không để xảy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng; kiên quyết để dự án hoàn thành trong năm 2008, đưa Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất vào sản xuất trong năm 2009.

Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 14/BC-CP, ngày 26-2-2007 của Chính phủ về việc tổng kết công trình quan trọng quốc gia Khí - Điện - Đạm tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Báo cáo thẩm tra số 1481/UBKHCNMT11, ngày 19-3-2007 của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; tại kỳ họp thứ 11, ngày 2-4-2007 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 78/2007/QH11 về việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công trình quan trọng quốc gia Khí - Điện - Đạm tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo Nghị quyết, Quốc hội công nhận những kết quả đã đạt được của công trình và cho rằng những kết quả đó đã khẳng định chủ trương đầu tư được Quốc hội thông qua theo Nghị quyết số 06/1997/QH10, ngày 5-12-1997 là đúng đắn. Nhờ đó, một ngành công nghiệp mới, ngành công nghiệp khai thác và chế biến khí đốt được hình thành và phát triển. Các dự án thành phần chủ yếu sau khi hoàn thành và đưa vào vận hành đã đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Quốc hội chấp thuận kiến nghị của Chính phủ: tách ra khỏi dự án Khí - Điện -  Đạm tại Bà Rịa - Vũng Tàu một số dự án thành phần và hạng mục công trình như dự án Nhà máy điện Nhơn Trạch, Nhà máy điện Thủ Đức, đường ống Phú Mỹ - Thành phố Hồ Chí Minh... và giao Chính phủ chỉ đạo thực hiện một cách tập trung, bảo đảm tiến độ, đạt hiệu quả cao; đồng thời giao cho Chính phủ khẩn trương chỉ đạo các chủ đầu tư hoàn thành việc thanh quyết toán đối với 9 dự án thành phần đã hoàn thành; có biện pháp bảo đảm các công trình của dự án vận hành ổn định, an toàn, lâu dài và hiệu quả.

Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trong nhiệm kỳ khóa XI, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Nghị quyết được ban hành là cơ sở pháp lý ở Vịnh Bắc Bộ, tạo môi trường ổn định và thúc đẩy quan hệ láng giềng thân thiện, bình đẳng, hợp tác, cùng phát triển giữa hai nước. Quốc hội cũng đã xem xét thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp ước giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985; phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội đã phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoàn tất thủ tục pháp lý quan trọng cuối cùng để nước ta trở thành thành viên của WTO. Việc Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại thế giới một lần nữa khẳng định quyết tâm và nỗ lực của Việt Nam mong muốn xây dựng một quốc gia ổn định về chính trị, phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sẵn sàng thực hiện các chuẩn mực kinh tế chung với cộng đồng quốc tế. Có được kết quả này là nhờ sự nỗ lực lớn lao của nhân dân cả nước và của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ; sự cố gắng rất lớn của Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội trong công tác xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Khẳng định ý nghĩa to lớn của sự kiện quan trọng này, phát biểu tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa là cơ hội lớn, vừa là thách thức không nhỏ. Chúng ta phải tận dụng cơ hội, đẩy lùi và vượt qua khó khăn thách thức, tạo ra thế và lực mới để chủ động và tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.

Qua thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI nổi lên một số vấn đề sau:

Một là: Quốc hội đã dành nhiều thời gian để xem xét kỹ các vấn đề trước khi đi đến quyết định. Từ kỳ họp thứ tư, Quốc hội đã tiến hành thảo luận riêng về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương cho các bộ, ngành và quyết định mức bổ sung cho ngân sách các địa phương năm 2004. Đặc biệt, tháng 9-2005, lần đầu tiên dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2006 đã được các vị đại biểu Quốc hội chuyên trách thảo luận trước khi trình Quốc hội.

Hai là: Việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng được thực hiện theo quy trình khá cụ thể, chặt chẽ, gắn kết với việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là quy trình thông qua các vấn đề kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước. Quá trình quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội hằng năm được tiến hành từ khâu xem xét báo cáo của Chính phủ cùng với dự thảo nghị quyết, các bước cho ý kiến, chỉnh lý dự thảo nghị quyết trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội và giải trình của các cơ quan hữu quan tại các phiên thảo luận kinh tế - xã hội, các phiên giám sát chuyên đề, chất vấn, trả lời chất vấn cho đến thảo luận lần cuối và biểu quyết thông qua. Đây là những bước cải tiến tích cực nhằm xây dựng nghị quyết sát hơn với yêu cầu thực tiễn.

Ba là: Việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng được tiến hành dân chủ, thảo luận công khai, nhất là các vấn đề về nhân sự, quyết định ngân sách nhà nước và các dự án, công trình quan trọng quốc gia. Ngoài việc cải tiến khâu cung cấp thông tin (như thông tin người được đề cử giới thiệu nhân sự, báo cáo kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước), các đại biểu đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, xem xét kỹ lưỡng, thận trọng nên chất lượng các quyết định của Quốc hội từng bước được nâng cao.

Bốn là: Yếu tố hiệu quả, hiệu lực trong các quyết định được chú trọng hơn với mục tiêu vì lợi ích quốc gia, bảo đảm phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Điều này không chỉ thể hiện ở quá trình ra quyết định mà còn được tăng cường qua hoạt động giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm các quyết định của Quốc hội được thực hiện nghiêm túc.

Những chuyển biến nêu trên là kết quả của việc thực hiện nhiều cải tiến từ quy trình đến nội dung trình Quốc hội xem xét, quyết định. Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, như sửa đổi Luật ngân sách nhà nước năm 2002, ban hành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, Luật kiểm toán nhà nước năm 2005, Nghị quyết số 66/2006/QH11 về các dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư... là những “công cụ” rất cần thiết cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng này. Trên cơ sở đó, quy trình thực hiện và nội dung trình Quốc hội xem xét được thực hiện ngày càng chặt chẽ, bảo đảm tính pháp lý, khoa học và thực tiễn. Cùng với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, một yếu tố quan trọng là tinh thần trách nhiệm và năng lực làm việc của các cơ quan thẩm định đến các vị đại biểu Quốc hội được nâng cao; tạo thế chủ động nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra quyết định... Do đó, những vấn đề được Quốc hội quyết định đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước theo xu hướng ngày càng phát triển.

Tuy đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của đất nước và của nhân dân, nhưng việc thực hiện nhiệm vụ này vẫn chưa khắc phục được một số hạn chế như: chất lượng một số quyết định chưa cao, hiệu lực thực thi thấp. Tính dự báo trong một số quyết định dài hạn còn những bất cập.

Tình trạng trên xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là do nguồn thông tin phục vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền này còn nhiều hạn chế (không phải việc nào cũng có thông tin chính xác), nên đã ảnh hưởng đến việc quyết định của Quốc hội. Tính độc lập, khả năng phân tích, đề xuất chính sách của đại biểu Quốc hội chưa cao; tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chậm được đổi mới (bộ máy chưa ngang tầm với khối lượng và yêu cầu công việc); cơ chế sử dụng chuyên gia chưa được thực hiện tốt. Việc thiếu các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu để tham mưu phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định là một trong những nguyên nhân khá quan trọng dẫn đến thiếu căn cứ xác thực, làm hạn chế chất lượng các quyết định. Công tác giám sát việc triển khai thực hiện các công trình quan trọng quốc gia chưa được tiến hành thường xuyên; một số quyết định của Quốc hội chưa được thực hiện nghiêm túc, đã xảy ra tình trạng chậm tiến độ thực hiện, có những sai phạm trong việc quản lý nhà nước ở một vài lĩnh vực.

5. Chủ động hội nhập quốc tế và khu vực, tăng cường hiệu quả hoạt động ngoại giao nghị viện

Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ IX, đó là: “độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, trong những năm 2002-2007, quan hệ đối ngoại của Việt Nam không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng chủ động và đạt nhiều kết quả. Việt Nam đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bạn bè truyền thống và các nước láng giềng trong khu vực. Điều đó đã làm thay đổi bộ mặt đất nước và góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân, giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), cùng với việc đề ra đường lối đúng đắn về kinh tế, văn hóa, xã hội, Đại hội tiếp tục chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở. Đại hội chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Đại hội đề ra nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, phát huy những thành tích và kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa X (1997-2002), hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa XI (2002-2007) tiếp tục được đẩy mạnh, củng cố và mở rộng với sự phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao song phương và đa phương, góp phần phát huy vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế; đặc biệt hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa XI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và đưa hoạt động ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu.

Về hoạt động đối ngoại song phương, với phương châm chủ động hội nhập quốc tế và khu vực, tăng cường hiệu quả hoạt động ngoại giao nghị viện, Quốc hội khóa XI đã tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới (trong nhiệm kỳ khóa XI đã có hơn 300 đoàn của Quốc hội Việt Nam đi thăm song phương và làm việc tại 61 nước; đồng thời, Quốc hội Việt Nam đã đón tiếp và tổ chức cho 150 đoàn đại biểu nghị viện từ 40 nước thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới đến thăm và làm việc với Quốc hội Việt Nam).

Thực hiện kế hoạch công tác của Quốc hội, từ ngày 6 đến ngày 15-12-2004, Đoàn công tác của Quốc hội do Phó Chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được làm Trưởng đoàn đã đi thăm và làm việc tại Xingapo, Malaixia và Thái Lan. Mục đích chuyến thăm và làm việc của đoàn là nhằm nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm công tác giám sát của Quốc hội về ngân sách nhà nước và vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội.

Cùng thời gian trên, từ ngày 5 đến ngày 15-12-2004, Đoàn đại biểu Quốc hội do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Ngô Anh Dũng dẫn đầu, đi thăm và làm việc tại Ôxtrâylia, Niu Dilân và Phigi, đồng thời kết hợp trao đổi kinh nghiệm tổ chức diễn đàn APPF để chuẩn bị tổ chức Hội nghị thường niên Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 13 tại Việt Nam vào tháng 1-2005.

Từ ngày 12 đến ngày 25-3-2005, nhận lời mời của Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Italia, Vương quốc Bỉ, Nghị viện châu Âu, Vương quốc Anh và Liên bang Thụy Sĩ, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An dẫn đầu đã đi thăm chính thức và làm việc tại các nước kể trên. Chuyến thăm của Chủ tịch Nguyễn Văn An diễn ra vào thời điểm Việt Nam và Liên minh châu Âu kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm ký kết hiệp định khung về hợp tác. Đây là thời điểm có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế chung của Việt Nam, sau hai thập niên tiến hành công cuộc đổi mới và mở cửa đất nước; đồng thời cũng là năm Việt Nam phấn đấu gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Chuyến thăm đã góp phần thúc đẩy khả năng trao đổi hợp tác, củng cố và mở rộng quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Nghị viện các nước và Nghị viện châu Âu.

Tiếp sau đó, từ ngày 16 đến ngày 24-12-2005, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An dẫn đầu đi thăm hữu nghị chính thức các nước Angiêri, Tuynidi và Ma Rốc. Chuyến thăm được đánh giá là có ý nghĩa chính trị quan trọng, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, tăng cường quan hệ hợp tác liên nghị viện; khẳng định sự quan tâm và mong muốn của Việt Nam thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với các quốc gia châu Phi. Ngoài ra, chuyến thăm còn nhằm tăng cường công tác thông tin đối ngoại đến địa bàn này về công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế của Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ đối với việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.

Cùng các chuyến thăm hữu nghị chính thức do Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu, trong năm 2004 và năm 2005, nhiều đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội đã đi thăm và làm việc ở một số nước: Ấn Độ, Trung Quốc, Mông Cổ, Campuchia, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thụy Điển, Áo, Niu Dilân, Canađa, Ănggôla, Nga, Pháp... nhằm phối hợp hoạt động và tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề về xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ 2002-2007, Quốc hội khóa XI đón tiếp và tổ chức làm việc có hiệu quả với nhiều đoàn đại biểu Quốc hội các nước đến thăm và làm việc tại Quốc hội Việt Nam. Chỉ tính riêng năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã đón tiếp: Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Liên bang Nga do Chủ tịch Hội đồng liên bang Sergey Mikhailovic Mironov dẫn đầu (từ ngày 9 đến ngày 12-1-2005); Đoàn đại biểu Quốc hội Cộng hòa dân chủ và nhân dân Angiêri do Chủ tịch Amar Sadani dẫn đầu (từ ngày 28-3 đến ngày 1-4-2005); Đoàn đại biểu Cộng hòa Liên bang Đức do Chủ tịch Mathias Plazeck dẫn đầu (từ ngày 4 đến ngày 6-4-2005); Đoàn đại biểu Hạ nghị viện Nhật Bản (từ ngày 1 đến ngày 2-5-2005); Đoàn đại biểu Thượng viện Vương quốc Campuchia do Hoàng thân Sisowath Chivan Monirak, Phó Chủ tịch thứ nhất Thượng viện dẫn đầu (từ ngày 16 đến ngày 20-5-2005)... Mục đích các chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam của các đoàn, nhằm tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống và sự hợp tác tốt đẹp giữa cơ quan lập pháp, Chính phủ và nhân dân các nước với Việt Nam; đồng thời, tìm hiểu và trao đổi kinh nghiệm trên các lĩnh vực hoạt động của Quốc hội và thúc đẩy sự phối hợp trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội Việt Nam với các nước trên diễn đàn quốc tế.

Trung tuần tháng 5-2006, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Bêlarút G.N.Novitski sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Tại cuộc hội đàm, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Bêlarút G.N.Novitski bày tỏ vui mừng về sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước; đồng thời, bày tỏ quyết tâm tăng cường hơn nữa quan hệ giữa các cơ quan lập pháp tối cao hai nước. Chủ tịch
G.N. Novitski và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nhất trí đánh giá quan hệ tốt đẹp về mặt chính trị giữa hai nước và chủ trương ủng hộ mạnh mẽ các thỏa thuận hợp tác giữa hai Chính phủ về các lĩnh vực kinh tế, thương mại.

Kết quả nổi bật của các hoạt động đối ngoại song phương đã góp phần củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh quan hệ với Mỹ theo tinh thần vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đưa mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đi vào thực chất và ổn định; đưa quan hệ với Nghị viện châu Âu và Nghị viện các nước thuộc Liên minh châu Âu lên tầm cao mới, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; khai thông và phát triển quan hệ với Nghị viện các nước thuộc khu vực châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ theo chủ trương chung của Nhà nước Việt Nam; củng cố và từng bước đẩy mạnh quan hệ truyền thống với các nước Trung Đông Âu.

Hoạt động đối ngoại đa phương cũng tiếp tục được tăng cường và mở rộng trên các diễn đàn liên nghị viện khu vực và thế giới. Trong nhiệm kỳ khóa XI, Quốc hội Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng tại các diễn đàn liên nghị viên, như: Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO), Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF), Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Diễn đàn đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP), Hiệp hội các Nghị viện châu Á vì hòa bình (AAPP) và nhiều tổ chức liên nghị viện khác mà Quốc hội Việt Nam là thành viên. Hoạt động đối ngoại đa phương của Quốc hội Việt Nam có sự phối hợp với các cơ chế hợp tác đa phương của Chính phủ đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam; đồng thời góp phần giới thiệu thành tựu đổi mới và hội nhập, nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.

Với tinh thần chủ động, các đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã tham dự các hội nghị quốc tế liên nghị viện tổ chức ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Từ ngày 29-11 đến ngày 3-12-2004, Đoàn đại biểu Ủy ban về Các vấn đề xã hội do Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thị Hoài Thu dẫn đầu tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ hai tại Nêpan. Từ ngày 3 đến ngày 8-4-2005, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được dẫn đầu tham dự kỳ họp lần thứ 112 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), tổ chức tại Manila, Philíppin. Từ ngày 25 đến ngày 27-5-2005, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Ngô Anh Dũng dẫn đầu tham dự Hội nghị của các nghị sĩ Quốc hội thế giới với chủ đề “Tự do ngôn luận, vai trò của Quốc hội và việc xây dựng một xã hội khoan dung” tổ chức tại Trụ sở Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) ở Giơnevơ, Thụy Sĩ. Từ ngày 7 đến ngày 10-8-2005, nhận lời mời của Chủ tịch Thượng viện Thái Lan, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được dẫn đầu tham dự Hội nghị lần thứ hai Ủy ban Nghiên cứu AIPO về khả năng thành lập Nghị viện ASEAN tổ chức tại Băng Cốc, Vương quốc Thái Lan. Từ ngày 7 đến ngày 9-9-2005, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An dẫn đầu đã tham dự Hội nghị cấp cao Nghị viện toàn thế giới lần thứ hai họp tại Trụ sở Liên hợp quốc ở Niu Oóc, Mỹ. Với sự tham gia của 150 vị đứng đầu các cơ quan lập pháp các nước, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố cấp cao, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến tăng cường cơ chế hợp tác IPU và Liên hợp quốc, nâng cao hơn nữa vai trò của Nghị viện trong việc giải quyết các vấn đề lớn của quốc tế. Tại kỳ họp lần thứ 113 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới tổ chức tại Giơnevơ, Thụy Sĩ từ ngày 17 đến ngày 20-10-2005, với sự tham gia của các đoàn đại biểu đến từ 130 quốc gia trên thế giới, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Ngô Anh Dũng làm Trưởng đoàn đã tham dự. Đại hội đồng IPU 113 được tiến hành với tinh thần trách nhiệm cao của các nhà lập pháp toàn thế giới với quyết tâm cùng nhau bàn bạc và tìm ra giải pháp cho các vấn đề mang tính khu vực và toàn cầu.

Việc Quốc hội Việt Nam chủ động và tích cực tham dự các hội nghị liên nghị viện thế giới đã tiếp tục khẳng định vị trí và vai trò của Quốc hội Việt Nam, cam kết của Việt Nam về trách nhiệm và nghĩa vụ thành viên đối với cộng đồng quốc tế. Đây cũng là dịp để Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tiếp xúc và trao đổi với nghị sĩ thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới về những vấn đề cùng quan tâm, mở rộng quan hệ hợp tác liên nghị viện và thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương vì hòa bình, ổn định và phát triển.

Trong nhiệm kỳ XI, Quốc hội đã chủ trì tổ chức thành công nhiều hội nghị quan trọng tại Việt Nam, thể hiện vị thế, trách nhiệm và nghĩa vụ của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế, trong đó đáng chú ý là kỳ họp Đại hội đồng AIPO lần thứ 23 được tổ chức tại Hà Nội tháng 9-2002. Hội nghị đã tạo nên một “Dấu ấn Việt Nam” cả về nội dung và cách tổ chức; Hội nghị đối tác Nghị viện Á - Âu lần thứ 3 (ASEP-3) tại Huế (3-2004) góp phần định hình khuôn khổ đối tác liên nghị viện Á - Âu, tạo nên sự gắn kết giữa ASEP và ASEM; Hội nghị Ban Chấp hành Liên minh Nghị viện cộng đồng Pháp ngữ (APF) tại Huế (1-2005); Hội nghị lần thứ 13 Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF-13) tại Quảng Ninh (2-2005); Hội nghị Liên minh Nghị viện thế giới về quyền trẻ em tại Hà Nội (2-2006); Hội nghị chuyên đề AIPO về hợp tác pháp lý trong phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em tại Thành phố Hồ Chí Minh (7-2006)... Việc tổ chức thành công các hội nghị nói trên đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực của Việt Nam, làm cho tiêu chí Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trở thành hiện thực sinh động.

Ngoài ra, thông qua con đường ngoại giao nghị viện, Quốc hội Việt Nam đã trực tiếp tham gia đối thoại trên nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, những xung đột về quan hệ thương mại và đã thu được những kết quả tích cực. Công tác tuyên truyền đối ngoại cũng được đẩy mạnh, góp phần vào việc thông tin, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Đặc biệt, trong quá trình triển khai hoạt động đối ngoại theo kế hoạch, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội cũng đã quan tâm làm tốt công tác đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế trên cả bình diện song phương và đa phương; tích cực vận động các đối tác kết thúc đàm phán song phương, đẩy mạnh hoàn tất các vòng đàm phán đa phương để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nhằm xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết về lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và phát triển các quan hệ kinh tế song phương.

Thực hiện đường lối đối ngoại do Đại hội lần thứ IX và lần thứ X của Đảng đề ra, nhằm “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”, mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nhưng thành tựu về công tác đối ngoại của Quốc hội khóa XI (2002-2007) trong thập niên đầu của thế kỷ XXI đã góp phần đánh dấu sự trưởng thành của ngoại giao Việt Nam. Cùng với những thành công trong ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao chính trị, trong đó, ngoại giao nghị viện đã trở thành một trong ba trụ cột của nền ngoại giao hiện đại, góp phần tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

 

*

*     *

 

Quốc hội khóa XI, nhiệm kỳ 2002-2007 hoạt động trong bối cảnh bên cạnh những kết quả cơ bản do thành tựu đổi mới mang lại, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách do những yếu kém của nền kinh tế; thiên tai, dịch bệnh xảy ra nhiều nơi, tình hình khu vực và thế giới diễn biến hết sức phức tạp. Vượt lên những khó khăn, thách thức đó, kế thừa và phát huy những thành tựu, những kinh nghiệm của Quốc hội các khóa trước, cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, Quốc hội khóa XI đã tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của Quốc hội, góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X của Đảng, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Hoạt động lập pháp của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có bước đột phá lớn, nhất là sau khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, với những đổi mới quan trọng về quy trình lập pháp, công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội đã có những chuyển biến tích cực. Với việc Quốc hội xem xét, thông qua 84 luật, bộ luật, 16 nghị quyết chứa quy phạm pháp luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét và thông qua 35 pháp lệnh đã đánh đấu bước tiến mới của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan trong công tác xây dựng pháp luật, góp phần đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.

Chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được thông qua đã bám sát yêu cầu của cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm và phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội. Nội dung các vấn đề được quy định trong các luật, bộ luật cơ bản bao quát các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh, đối ngoại đến tổ chức bộ máy nhà nước, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đặc biệt, Quốc hội đã dành nhiều thời gian, công sức để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các đạo luật kinh tế thuộc các lĩnh vực: doanh nghiệp, đầu tư, ngân hàng, tín dụng, thương mại, kinh doanh bất động sản, cải cách chính sách thuế..., phù hợp với điều kiện và mục tiêu của đất nước, yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhiều bộ luật lớn quy định về trình tự thủ tục đã được sửa đổi hoặc ban hành mới như Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự; nhiều vấn đề mới và khó như: cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, chứng khoán, chuyển giao công nghệ... đã được Quốc hội ban hành các đạo luật để điều chỉnh.

Hoạt động giám sát trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng, hiệu quả và hiệu lực được nâng lên. Quyền giám sát tối cao tại kỳ họp Quốc hội được tăng cường trên cơ sở hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và qua đánh giá hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc được đông đảo cử tri và nhân dân quan tâm, bao quát hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Đặc biệt, Quốc hội khóa XI đã thực hiện hình thức giám sát đi sâu khảo sát theo chuyên đề; kết hợp giữa việc giám sát tại kỳ họp với các hoạt động giám sát trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; giữa việc nghe báo cáo với việc cử đoàn đi địa phương, cơ sở làm việc với các bộ, ngành, tổng công ty. Qua đó, hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng hiệu quả hơn.

Việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước: những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước; những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và các hoạt động khác của công dân; dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; những chương trình, dự án lớn của đất nước... được Quốc hội thảo luận dân chủ, công khai, với tinh thần trách nhiệm cao trước khi quyết định.

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội trong nhiệm kỳ XI tiếp tục được đẩy mạnh, củng cố và mở rộng, góp phần phát huy được vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và đưa hoạt động ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu. Quốc hội khóa XI đã tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới. Cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa XI được triển khai chủ động trên nhiều địa bàn với nhiều đối tượng khác nhau, nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác cùng phát triển; thực hiện tích cực nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế của Quốc hội Việt Nam với các tổ chức liên nghị viện khu vực và thế giới.

Trong quá trình hoạt động, Quốc hội khóa XI đã bám sát yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Do đó, các vấn đề được Quốc hội đưa ra thảo luận kỹ lưỡng, dân chủ và quyết định đúng đắn, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Quốc hội khóa XI vẫn còn một số hạn chế: một số luật, pháp lệnh chưa bám sát và thật sự phản ánh đúng nhu cầu của cuộc sống, tính dự báo không cao, tính khả thi còn thấp. Hiệu quả, hiệu lực giám sát tuy đã được nâng lên một bước nhưng mới đáp ứng ở mức thấp so với yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống, quy định của Hiến pháp, pháp luật và nguyện vọng của nhân dân. Chất lượng của một số quyết định do Quốc hội ban hành chưa cao, hiệu lực thực thi thấp. Việc điều hòa, phối hợp trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội chưa thật tốt dẫn đến hiện tượng trùng lặp về địa bàn và nội dung nơi đến thăm và làm việc. Tuy số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong nhiệm kỳ có tăng, nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ vẫn thiếu, một số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm dành thời gian làm nhiệm vụ đại biểu còn ít. Một bộ phận đại biểu vừa là cán bộ chủ chốt trong hệ thống hành pháp, tư pháp, vừa là đại biểu Quốc hội tham gia lập pháp nên dễ dẫn đến tình trạng thiếu sự rạch ròi trong hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội. Bên cạnh đó, cá biệt có đại biểu không giữ được tiêu chuẩn đại biểu, đã bị Quốc hội bãi nhiệm.

Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nhưng Quốc hội khóa XI đã có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, đạt được những tiến bộ rất quan trọng trong việc thực hiện ba chức năng cơ bản: lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong cử tri và nhân dân cả nước.