UỶ BAN ĐỐI NGOẠI NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ

Phần thứ hai

MỘT SỐ TƯ LIỆU CỦA ỦY BAN ĐỐI NGOẠI QUA CÁC THỜI KỲ

 

QUỐC HỘI KHOÁ XI

Uỷ ban Đối ngoại

-------

Số: 1875/UBĐN11

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------------------------

Hà Nội,  ngày 04 tháng 11 năm 2005

 

BÁO CÁO GIÁM SÁT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI

 

Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội

 

Thực hiện Nghị quyết số 40/2004/QH11 về Chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2005 và theo tinh thần Nghị quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Uỷ ban Đối ngoại đã giám sát việc thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

Sau khi nghe báo cáo của Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thương mại, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Uỷ ban Đối ngoại đã tiến hành giám sát tại một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng; các tỉnh: Bình dương, Đồng Nai, Quảng Nam và Thừa Thiên Huế về tình hình thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

Uỷ ban Đối ngoại xin báo cáo kết quả giám sát về vấn đề này như sau:

Hiện có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang làm ăn, sinh sống và học tập ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% là ở các nước công nghiệp phát triển, phần đông bà con ngày càng ổn định cuộc sống và hoà nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, chính trị - xã hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua, hàng trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập tu nghiệp và đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới.

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 23/11/1993 của Bộ Chính trị (khoá VII) về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ra đời và Chỉ thị 55-CT/TW ngày 23/3/1996 của Ban Bí thư về việc triển khai Nghị quyết nói trên đã đánh dấu một sự chuyển biến mới trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua 10 năm kể từ khi Nghị quyết được ban hành, tình hình trong nước và thế giới có những thay đổi sâu sắc, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng có những thay đổi, đặt ra cho lĩnh vực công tác này những yêu cầu, nhiệm vụ mới. Nghị quyết 36/NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị ban hành thể hiện một quyết sách mạnh mẽ và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta, đề cập toàn diện các vấn đề liên quan đến công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

Ngay sau khi Nghị quyết 36-NQ/TW ban hành, các cơ quan Nhà nước đã đưa ra những chương trình hoạt động và phối hợp triển khai kịp thời nhằm sớm đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Thủ tướng Chính phủ đã ký quy định số 110/2004/QĐ-TTg ngày 23/6/2004 về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Kế hoạch của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 5/10/2004, cụ thể hoá nhiệm vụ của Thường vụ và các Ủy ban của Quốc hội; Bộ Ngoại giao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thông qua chương trình hành động thực hiện Nghị quyết; các bộ, ban, ngành và địa phương đã thông qua kế hoạch, định hướng công tác, ban hành nhiều quyết định, thông tư hướng dẫn cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo và các nội dung cơ bản của Nghị quyết để triển khai.

Qua báo cáo của các cơ quan hữu quan và một số địa phương, Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy việc thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài đạt được những kết quả và còn một số hạn chế sau:

 

I. KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

1. Về các biện pháp, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống nước sở tại.

Việt Nam đã tích cực, chủ động tiến hành ký một số Hiệp định lãnh sự và gặp lãnh sự với một số nước nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam trong làm ăn cũng như cư trú ở nước sở tại như: ký tắt Hiệp định lãnh sự với Bê-la-rút (17/3/2005); ký Hiệp định nhận trở lại công dân với Ba Lan (22/4/2004), U-crai-na (16/6/2005); ký Bản ghi nhớ với Vương Quốc Anh về vấn đề di cư (28/10/2004); tiến hành gặp lãnh sự thường niên với một số nước như: Trung Quốc, Nhật Bản, Lào, Bê-la-rút, U-crai-na để trao đổi các vấn đề về lãnh sự liên quan.

Hiện tại, Việt Nam đang tiếp tục đàm Hiệp định nhận trở lại công dân với Hoa Kỳ, Slô-va-kia-a, Thuỵ Sĩ, Pháp, Nga, Nhật, Bỉ và Na Uy; yêu cầu các nước U-crai-na, Séc, Hung-ga-ri thực hiện đúng quy định về miễn hợp pháp hoá giấy tờ, tài liệu theo các Hiệp định tương trợ tư pháp.

Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Toà án Nhân dân tối cao tiến hành đàm phán ký và phê chuẩn với Hàn Quốc 02 hiệp định cấp nhà nước trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ; ký hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với 10 nước ASEAN.

Việc nghiên cứu sửa đổi Pháp lệnh lãnh sự năm 1990 tiếp tục triển khai và đã được đưa vào chương trình xây dựng luật pháp lệnh của Quốc hội năm 2006 nhằm đáp ứng với tình hình mới về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.

Thực hiện Quyết định 990/QĐ-TTg ngày 30/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ hỗ trợ vận động người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quy chế quản lý tài chính về quỹ này, theo đó Ngân sách nhà nước ban đầu đã cấp cho Quỹ là 7 tỉ VNĐ và hàng năm đều cấp kinh phí bổ sung theo nhu cầu.

Đối với người lao động Việt Nam ở nước ngoài, ta cũng đã đàm phán, ký các thoả thuận song phương với một số nước trong việc hợp tác lao động tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động Việt Nam tại các nước đó, tiến hành trao đổi với các cơ quan chức năng nước sở tại về việc thực thi các thoả thuận.

Trước tình trạng một số phụ nữ Việt Nam sau khi lấy chồng Đài Loan bị ngược đãi, đẩy ra ngoài xã hội, một số trường hợp là nạn nhân của việc buôn bán phụ nữ, ta đã tiến hành cử đoàn sang khảo sát tình hình để nghiên cứu đề xuất chủ trương thích hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng ở trong nước nhằm ngăn chặn những mặt tiêu cực, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng của Đài Loan để giải quyết.

Để có những đề xuất về chính sách, biện pháp phù hợp đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao cũng đã tổ chức các đoàn khảo sát nắm tình hình kiều bào tại một số nước Mỹ, Canada, Pháp, Anh, Bỉ, Đan Mạch, Nga, U-crai-na, Đức, Séc, Ba Lan, Bê-la-rút, Thái Lan, Lào và trao đổi, nghiên cứu về công tác kiều dân ở Philipin, Ấn Độ...

2. Về chính sách tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài gắn bó với quê hương đất nước

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, thân nhân, làm ăn, hồi hương, một số bộ liên quan như Bộ Ngoại giao,

Bộ Công an, Bộ Tài chính đã và đang phối hợp tiến hành nghiên cứu giúp Thủ tướng Chính phủ xây dựng một số nghị định mới thay thế nghị định cũ không còn phù hợp; sửa đổi, ban hành một số quy định, thông tư, thông tư liên tịch về thủ tục xuất nhập cảnh, cấp hộ chiếu phổ thông, theo hướng thông thoáng, thuận tiện và đơn giản hoá thủ tục cho công dân Việt Nam ở nước ngoài; quy định rõ ràng về chế độ thu, nộp, quản lý lệ phí, miễn lệ phí lãnh sự.

Hiện nay, ta đang tiến hành thực hiện chủ trương miễn thị thực nhập cảnh, xuất cảnh Việt Nam cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài (người Việt Nam mang hộ chiếu nước ngoài).

Ban hành các văn bản hướng dẫn việc đăng ký hộ khẩu đối với số người Lào sang Việt Nam và người Việt Nam sang Lào trở về; văn bản hướng dẫn đăng ký hộ khẩu đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài hồi hương; văn bản hướng dẫn quản lý số phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc vì nhiều nhà nước phải quay về.

Chính sách giá điện, nước, viễn thông, vé máy bay, vé tham quan v.v... đã được áp dụng thống nhất một giá đối với người Việt Nam ở nước ngoài và thân nhân về nước như áp dụng với tổ chức và cá nhân công dân Việt Nam ở trong nước.

Nghị định 56/CP, ngày 18/9/1995 ban hành Quy chế cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê nhà tại Việt Nam đã tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được thuê tại Việt Nam để ở, đặt trụ sở văn phòng đại diện, chi nhánh công ty hoặc cơ sở hoạt động kinh doanh.

Nghị định số 30/2000/NĐ-CP, ngày 11/8/2000 về việc bãi bỏ một số giấy phép và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh được ban hành đã đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê nhà, tránh được việc cấp giấy phép tập trung ở cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh mà chuyển sang đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký kinh doanh của UBND cấp huyện hoặc Sở Kế hoạch - Đầu tư.

Nghị định số 81/2001/NĐ-CP, ngày 5/11/2001 về việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú làm ăn sinh sống ở nước ngoài có chỗ ở khi về nước đầu tư kinh doanh, hoạt động khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật hoặc về sinh sống ổn định tại Việt Nam.

Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công an đang tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định và chính sách có liên quan đến việc cho phép người Việt Nam ở nước ngoài mua và sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam như sửa đổi Nghị định 81/2001/NĐ-CP, xây dựng Nghị định về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu công trình xây dựng.

3. Về chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước

Trước khi có Nghị quyết 36/NQ/TW, Bộ Khoa học và Công nghệ đã hợp tác với Chương trình phát triển Liên hợp quốc và Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài ký kết Dự án xây dựng danh sách ứng viên chương trình "Chuyển giao tri thức thông qua kiều dân - TOKTEN". Dự án này được thực hiện trong năm 2001, xây dựng trang thông tin trên mạng để chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài đăng ký nguyện vọng về nước làm việc cũng như tập hợp nhu cầu sử dụng chuyên gia của các cơ quan, tổ chức trong nước. Tuy nhiên, do khó khăn về kinh phí, chương trình TOKTEN đã kết thúc vào cuối năm 2004.

Để thu hút nguồn nhân lực trí thức kiều bào thuộc mọi tầng lớp, trình độ lứa tuổi, Bộ Ngoại giao, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ban Khoa giáo Trung ương đang hoàn thiện báo cáo về các biện pháp và chính sách ưu đãi thoả đáng đối với chuyên gia, trí thức kiều bào. Bộ Ngoại giao đã hoàn thành dự thảo "Đề án về chính sách và biện pháp vận động, khuyến khích chuyên gia trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp xây dựng đất nước", hiện đang trong giai đoạn xin ý kiến các cơ quan hữu quan trước khi trình Chính phủ.

Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng cơ sở dữ liệu về chuyên gia trí thức Việt Kiều giỏi để chủ động giới thiệu cho các cơ sở trong nước khi có nhu cầu. Công việc này hiện đã hoàn thành khâu thu thập thông tin và đang tiếp tục xử lý và hoàn thiện; xây dựng đề án Trung tâm xuất sắc tại các trường đại học và cơ sở nghiên cứu và triển khai tại Việt Nam để thu hút các nhà khoa học trong và ngoài nước cùng nghiên cứu và giảng dạy, đặc biệt khuyến khích những người Việt Nam đã từng học tập nghiên cứu tại nước ngoài, các trí thức Việt kiều tham gia và làm việc tại các trung tâm này nhằm nâng cao khả năng nghiên cứu và đào tạo.

Bộ Tài chính đã nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, ban hành những quy định về thực hiện chính sách thuế theo hướng ưu đãi đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong đó có đội ngũ chuyên gia trí thức là kiều bào. Cụ thể như chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương được miễn thuế nhập khẩu, không phải nộp thuế GTGT đối với các đồ dùng gia dụng một lần và các vật dụng cần thiết cho sinh hoạt cá nhân và gia đình; được bảo đảm chuyển ra nước ngoài phần thu nhập sau khi nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam; được ưu đãi hơn so với công dân Việt Nam trong việc nộp thuế thu nhập. ..

Các cuộc hội thảo của nhóm trí thức Việt kiều tại Đà Nẵng, hội thảo chủ đề "Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài với sự nghiệp quê hương" nhằm lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về chính sách pháp luật của Nhà nước được các bộ, ngành liên quan quan tâm chủ trì và phối hợp. Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động tiến hành thành lập Câu lạc bộ Khoa học kỹ thuật Việt kiều nhằm thu hút trí tuệ kiều bào vào việc xây dựng quê hương.

4. Về chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội ban hành có những quy định nhằm tạo điều kiện cho kiều bào tuỳ chọn hình thức đầu tư theo hai luật này khi đầu tư tại Việt Nam. Kỳ họp thứ 8, khoá XI, Quốc hội sẽ thông qua Luật đầu tư. Luật này sẽ áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó có doanh nghiệp của kiều bào.

Thời gian qua, Nhà nước ta đã có những chính sách thuế phù hợp, tạo những ưu đãi nhiều hơn cho người Việt Nam về sống làm việc và đầu tư kinh doanh tại quê hương. Trong nhiều trường hợp, tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài còn được ưu đãi cao hơn so với tỏ chức, cá nhân người Việt Nam ở trong nước. Cụ thể như ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân, không tính vào thu nhập chịu thuế các khoản trợ cấp chuyển vùng lần một, tiền vé máy bay về nghỉ phép, tiền học cho con, tiền thuê nhà chịu thuế chỉ tính không quá 15% tiền lương; được hưởng mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân ưu đãi hơn so với người Việt Nam (mức khởi điểm chịu thuế của người Việt Nam là 5 triệu đồng/tháng, của người Việt Nam ở nước ngoài là 8 triệu đồng/tháng).

Các dự án đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài tại quê hương được ưu đãi như giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại, trừ thực hiện được hưởng mức thuế là 10% theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; người Việt Nam
định cư ở nước ngoài có thể góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam tối đa ở mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp.

Về kiều hối, Nhà nước đã ban hành những chính sách thông thoáng hơn, tháo gỡ một số hạn chế về thuế, dịch vụ chi trả, cho phép người nhận được lựa chọn rút ra bằng ngoại tệ hoặc bằng đồng Việt Nam thay vì quy định cứng nhắc chỉ cho rút ra bằng đồng Việt Nam trước đây, khi chuyển kiều hối về nước thì gia đình, người thân không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với khoản thu nhập kiều hối nhận được. Chính vì vậy, lượng kiều hối về Việt Nam mỗi năm tăng đáng kể, mỗi năm đạt hàng tỷ đô la, góp phần tăng thu nhập, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho một bộ phận dân cư.

Đồng thời, các bộ, ngành có liên quan tiếp tục nghiên cứu sửa đổi các quy định trong văn bản cụ thể nhằm tạo điều kiện hơn nữa trong đầu tư cho các doanh nghiệp kiều bào; kiến nghị về chính sách khuyến khích và phát huy khả năng của kiều bào làm tư vấn, môi giới, làm cầu nối thiết lập các quan hệ hợp tác đầu tư và xúc tiến thương mại...; tổ chức các cuộc hội thảo, thành lập Hiệp hội doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài để trao đổi, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp kiều bào trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, phân phối và tiêu thụ sản phẩm.

5. Về việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài

Hiện nay, Đề án hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài đã được Thủ tướng phê duyệt (thời gian thực hiện từ 2004 đến 2008). Ban chỉ đạo và Ban điều hành Đề án được thành lập để chỉ đạo và thực hiện các bước tiếp theo của Đề án. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai các hoạt động của đề án; xây dựng bộ phiếu khảo sát; sẽ tổ chức khảo sát tại một số nước đại diện cho 3 khu vực về nhu cầu dạy và học tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: khu vực láng giềng (Thái Lan), khu vực Tây Âu (Pháp) và khu vực Bắc Mỹ (Hoa Kỳ).

Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hỗ trợ kinh phí để xây dựng trường dạy tiếng Việt tại Viêng Chăn, Lào. Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đã sử dụng quỹ hỗ trợ vận động cộng đồng tài trợ xây dựng trường học cho con em kiều bào tại tỉnh Xa-va-na-khẹt và Pắc-Xế tại Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.

Đài tiếng nói Việt Nam đã xây dựng chuyên mục Tiếng quê hương với người xa xứ, thời lượng 4 buổi phát sóng trong tuần để dạy tiếng Việt bằng tiếng Anh và tiếng Việt nâng cao thông qua việc bình chú các câu tục ngữ, ca dao trong kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam.

6. Về công tác thông tin tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước

Công tác thông tin văn hoá phục vụ cộng đồng đã được tăng cường một bước, nhất là trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình và hướng tới những địa bàn có đông kiều bào sinh sống. Chất lượng nội dung và thời lượng phát sóng chương trình không ngừng cải tiến, nâng cao, nhằm tuyên truyền đường lối cảu Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đáp ứng nguyện vọng của cộng đồng người Việt Nam ở các nước trên thế giới. Cùng với hệ thống báo điện tử, đến nay, truyền hình VTV4 đã được phủ sóng đến hầu khắp các nước, được bà con đón nhận và hoan nghênh.

Bộ Văn hoá - Thông tin đã triển khai và hoàn thiện một số công việc như: soạn thảo Đề án trang thông tin điện tử dành cho người Việt Nam ở nước ngoài và Đề án xuất bản báo viết, báo điện tử ở một số nước có đông người Việt Nam sinh sống; xây dựng chính sách hỗ trợ xuất bản báo, tạp chí dành cho người Việt Nam ở nước ngoài và kế hoạch xuất bản và phát hành trong nước một số sản phẩm văn hoá của cộng đồng; xây dựng đề án thư viện trên Internet phục vụ cộng đồng; xây dựng chính sách khuyến khích các đoàn nghệ thuật của Việt Nam ra nước ngoài biểu diễn và các nghệ sĩ Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam biểu diễn.

Các hoạt động giao lưu giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước được tăng cường trong thời gian qua. Trong năm 2005, Bộ Văn hoá - Thông tin đã và đang triển khai kế hoạch đưa các đoàn nghệ thuật sang các nước biểu diễn phục vụ kiều bào theo lời mời của các đối tác. Các chuyến biểu diễn theo lời mời này đều được coi trọng việc biểu diễn và giao lưu với cộng đồng người Việt Nam ở các nước. Đồng thời, hoạt động nghệ thuật của các nghệ sĩ người Việt định cư ở nước ngoài về nước biểu diễn đã được quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi hơn. Trong dịp tổ chức "những ngày văn hoá Việt Nam" ở một số nước có đông kiều bào sinh sống, phần biểu diễn dành cho kiều bào đều được chú trọng.

Hiện nay, ngoài Trung tâm Văn hoá Việt Nam tại Lào đang hoạt động, dự kiến sẽ triển khai Trung tâm văn hoá Việt Nam tại Pháp (đã được Chính phủ đồng ý cho triển khai).

Chính sách trợ giá cước vận chuyển ấn phẩm hàng hoá, giá vé máy bay cho các đoàn nghệ thuật đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và giữ nguyên mức trợ giá 50% cước vận chuyển vẫn đang được thực hiện.

7. Về chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài

Xuất phát từ quan điểm người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã được thể hiện tại Điều 2, Luật Thi đua khen thưởng được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003. Luật này không chỉ áp dụng đối với tổ chức cá nhân trong nước mà còn áp dụng đối với cả tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích vận động xây dựng cộng đồng, đóng góp xây dựng đất nước. Hiện nay, Bộ Ngoại giao đã hoàn tất hồ sơ khen thưởng đợt cuối cùng đối với kiều bào có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ; cùng các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài khen thưởng hoặc giới thiệu với Ban thi đua khen thưởng Trung ương để xét khen thưởng hàng trăm cá nhân và tập thể kiều bào có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bộ Ngoại giao cũng đã đề xuất chủ trương khen thưởng, đãi ngộ đối với những kiều bào cốt cán, có công ở Thái Lan.

8. Về thực hiện công tác vận động đối với người Việt Nam ở nước ngoài

Thời gian qua, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài đã được quan tâm và coi trọng.

Chính sách pháp luật liên quan đến kiều bào đã được các bộ, ngành chú trọng trong quá trình xây dựng. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan chuyên trách về công tác này với Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các cơ quan đại diện ta ở nước ngoài trong công tác vận động cũng được tăng cường. Vừa qua, chúng ta đã tổ chức một số hoạt động đạt kết quả tốt như: tổ chức trại hè Việt Nam 2004 cho 86 thanh niên kiều bào từ 23 nước về tham dự; đón đoàn kiều bào tiêu biểu gồm 35 đại biểu từ 19 nước về dự các hoạt động gặp mặt, bàn công tác vận động kiều bào, gặp gỡ phóng viên báo chí và tham quan nhân dịp Tết Ất Dậu 2005; mời kiều bào về nước tham dự Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VI, trong đó có 14 kiều bào được hiệp thương, cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thu xếp cho một số đối tượng "nhạy cảm" về thăm quê hương. Những hoạt động này đã tác động tích cực đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Một số địa phương, đặc biệt là những địa phương có số đông kiều bào đã thành lập bộ phận (phòng, ban) hoặc cử người chuyên theo dõi thực hiện công tác này. Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đã và đang được kiện toàn và tăng cường về nhân sự, biên chế cán bộ phụ trách công tác kiều bào tại cơ quan đại diện ngoại giao ở những nước có đông người Việt Nam sinh sống; hỗ trợ các hoạt động của Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài và các tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài có quan hệ với trong nước nhằm tăng cường hơn nữa công tác vận động kiều bào.

 

II. NHỮNG HẠN CHẾ

Bên cạnh những kết quả đạt được, Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài như sau:

1. Về vấn đề quốc tịch

Thực tế còn có một tỷ lệ người Việt Nam mang hai quốc tịch khá cao do có nhiều người Việt Nam gia nhập quốc tịch nước sở tại và chưa từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Trong thực hiện người Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam mang hộ chiếu nước ngoài thì mặc nhiên được coi là người nước ngoài (vì theo Luật quốc tịch Việt Nam, Nhà nước ta chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam) mặc dù họ chưa thôi quốc tịch Việt Nam. Đây là vấn đề bất cập hiện nay. Từ đó tạo nên những khó khăn cho kiều bào trở về làm ăn, sinh sống, thăm thân, du lịch... gây tâm lý mặc cảm, phân biệt, đối xử, ảnh hưởng không tốt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về chính sách, pháp luật của nhà nước ta.

Đặc biệt, ở một số tỉnh biên giới của Việt Nam giáp với Lào và Campuchia, có nhiều Việt kiều trở về quê hương sinh sống tại các địa phương này từ rất lâu nhưng chưa nhập quốc tịch Việt Nam. Tình trạng trên đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý của chính quyền địa phương. Để thuận lợi cho công tác quản lý, có một số địa phương chủ động cho nhập hộ khẩu đối với đối tượng này. Đến nay, các cơ quan hữu quan của Chính phủ chưa có hướng dẫn chung cho các địa phương để giải quyết vấn đề này tạo điều kiện cho bà con Việt kiều sinh sống hợp pháp và ổn định. Chính vì vậy, các tỉnh trên gặp nhiều khó khăn và lúng túng.

Liên quan đến vấn đề quốc tịch, việc kiều bào muốn thành lập Hội hoặc Hiệp hội tại Việt Nam gặp phải khó khăn do quy định của Nghị định 88/2003/NĐ-CP về tổ chức, quản lý hoạt động Hội. Quy định bắt buộc hội viên là người có quốc tịch và là công dân Việt Nam trong khi Việt kiều phần lớn mang quốc tịch nước định cư.

2. Về quản lý xuất, nhập cảnh, cư trú và hồi hương đối với Việt kiều

Cơ bản các quy định về xuất nhập cảnh và cư trú đã có sửa đổi theo hướng ngày càng phù hợp xu thế chung và thông thoáng hơn.

Tuy nhiên, việc xin thị thực nhập xuất cảnh Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chưa hoàn toàn thuận lợi, nếu Việt kiều thông qua đại lý làm dịch vụ thì rất nhanh nhưng lệ phí cao. Quy định người bảo lãnh cho những công dân Việt Nam hồi hương "phải là thân nhân ruột thịt" là chưa phù hợp với Quyết định 875/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tại Quyết định này quy định người bảo lãnh trong nước "là thân nhân trong dòng tộc". Điều này gây khó khăn hơn đối với những người muốn hồi hương mà không còn người thân ruột thịt.

Hiện nay, có nhiều người khi xuất cảnh hợp pháp bằng hộ chiếu Việt Nam, được cấp thẻ thường trú nước ngoài, nhưng chưa nhập quốc tịch nước ngoài, khi về thăm gia đình bằng thị thực xuất nhập cảnh Việt Nam do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp (vì hộ chiếu Việt Nam đã hết hạn) có ghi rõ là có quốc tịch Việt Nam. Những người này không có điều kiện trở lại nước định cư và làm thủ tục xin hồi hương nay gặp phải khó khăn do có quy định phải bổ sung giấy Xác nhận đăng ký công dân bổ túc trong hồ sơ.

Việc gia hạn của thị thực đối với kiều bào hiện nay là quá ngắn, đặc biệt gây trở ngại cho những thực hiện có hoạt động nghiên cứu, kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam.

3. Chính sách về nhà ở

Về chính sách cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam, mặc dù Chính phủ đã ban hành nghị định để quy định vấn đề này nhưng đến nay sau ba năm kể từ khi ban hành nghị định, số lượng người Việt Nam mua nhà ở Việt Nam còn rất ít, có khoảng 60 trường hợp, trong đó tại TP. Hồ Chí Minh có khoảng 45 trường hợp. Nguyên nhân chủ yếu là do những quy định hạn chế về đối tượng, số lượng nhà ở được mua và được sở hữu, trình tự thủ tục cấp giấy sau khi mua nhà còn phức tạp... Hiện nay TP. Hồ Chí Minh (có khoảng 1,8 triệu Việt kiều) chưa xử lý được vấn đề tiền bán nhà cho những đối tượng xuất cảnh hợp pháp, không chuyển tiền ra nước ngoài được cho gia chủ vì chưa có những quy định về vấn đề này.

4. Về thủ tục đầu tư

Quy định về thủ tục đầu tư đã không ngừng được cải tiến, tuy nhiên, kiều bào vẫn gặp khó khăn, trở ngại về thủ tục đầu tư như việc xin cấp phép đầu tư trong một số lĩnh vực: dạy nghề, y tế, giáo dục, viễn thông (mạng Internet)... phải thực hiện ở cấp Trung ương (ra Hà Nội xin cấp phép). Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của người Việt Nam ở nước ngoài vào các doanh nghiệp tại Việt Nam chưa thực sự phù hợp và có phần cứng nhắc.

5. Về vấn đề kinh phí thực hiện

Khó khăn về ngân sách nhà nước ảnh hưởng không nhỏ tới việc triển khai của các bộ, ngành chức năng trong quá trình thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là đối với lĩnh vực thông tin đối ngoại, hỗ trợ cộng đồng.

Trong thời gian vừa qua, do hệ thống chính sách, pháp luật còn thiếu đồng bộ, sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương chưa chặt chẽ nên chưa huy động đúng mức tiềm năng của kiều bào vào công cuộc xây dựng đất nước, phần nào gây ảnh hưởng tới tâm tư, tình cảm của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, từ đó có thể dẫn đến việc các thế lực phản động, thù địch lợi dụng, bóp méo sự thật.

 

III. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ

1. Nhận xét

Qua báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đã được các cấp, các bộ ngành quan tâm hơn và thực sự có nhiều chuyển biến mới, nhất là sau khi có Nghị quyết 36/NQ/TW của Bộ Chính trị.

Tuy nhiên, từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 110/2004/QĐ-TTg về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triển khai Nghị quyết 36-NQ/TW đến nay, việc triển khai Nghị quyết còn một số hạn chế như:

Một số đề án, chính sách do một số Bộ liên quan chủ trì phối hợp xây dựng theo tinh thần của Quyết định 110/2004/QĐ-TTg được triển khai chậm, còn đang trong quá trình hoàn thiện, xin ý kiến, chưa đi vào thực hiện được. Một số quy định tuy đã được ban hành nhưng chưa phù hợp cũng chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh.

Việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc của Chính phủ đối với các cơ quan và địa phương trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa thật sâu sát, do vậy hiệu quả của việc thực hiện chính sách chưa cao. Từ đó gây tâm lý trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về tình trạng "trên thoáng, dưới không thông".

Công tác giám sát việc ban hành văn bản và thực thi luật, pháp lệnh có liên quan đến kiều bào của các cơ quan Quốc hội đối với các Bộ thuộc lĩnh vực của mình phụ trách, chưa được chú trọng đúng mức.

Về việc cử đoàn liên Ủy ban đến một số địa bàn có đông kiều bào sinh sống để tìm hiểu, lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những đề xuất với Quốc hội chưa được triển khai. Trong thời gian qua, việc này mới chỉ thực hiện kết hợp với các chuyến thăm hữu nghị chính thức tại một số nước của Chủ tịch Quốc hội.

Công tác giám sát các cơ quan đại diện Việt Nam tại các nước; cử đoàn đi khảo sát, học tập kinh nghiệm tại một số quốc gia làm tốt công tác vận động kiều dân của nước đó chưa thực hiện được như mong muốn.

Công tác thông tin tuyên truyền phổ biến Kế hoạch của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triển khai Nghị quyết 36-NQ/TW đến kiều bào tại các nước thông qua các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chưa được chú trọng. Chính vì vậy, cho tới nay, các cơ quan đại diện và bà con kiều bào tại khá nhiều nước chưa biết đến Kế hoạch này.

2. Kiến nghị

Để đẩy mạnh công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới, Uỷ ban Đối ngoại xin kiến nghị như sau:

- Trên cơ sở "Báo cáo một năm thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác kiều bào để sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời đảm bảo phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 36 của Bộ chính trị; sớm hoàn thành một số đề án liên quan đến công tác này để triển khai kịp thời và có hiệu quả.

- Các cơ quan của Quốc hội cần chú trọng đưa vào chương trình giám sát hằng năm của minh kết hợp trong việc cử đoàn đi công tác nước ngoài nội dung giám sát các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài về thực hiện luật, pháp lệnh có liên quan đến kiều bào; tăng cường tiếp xúc với kiều bào để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của kiều bào.

- Trong phân bổ ngân sách hằng năm, Quốc hội cần xem xét việc dành ngân sách thoả đáng cho công tác này.

- Tình hình người Việt Nam ở nước ngoài đã có sự phân định về thế hệ. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài có thể tạm chia làm ba thế hệ: thế hệ những người rời khỏi Tổ quốc trước năm 1975, thế hệ những người ra đi sau năm 1975 và thế hệ người Việt Nam được sinh ra và lớn lên tại các nước sở tại. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu toàn diện về vấn đề kiều bào để từ đó có những chính sách, biện pháp phù hợp và lâu dài trong thực hiện công tác đối với các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài.

- Tiếp tục kiện toàn bộ máy và đội ngũ làm công tác kiều bào từ Trung ương đến cơ sở. Bộ Ngoại giao cần chỉ đạo sâu sắc trách nhiệm của mình về công tác vận động kiều bào hướng về Tổ quốc, mỗi cán bộ đó đồng thời là những người thực sự làm công tác kiều bào.

Trên đây là Báo cáo giám sát tình hình thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Uỷ ban Đối ngoại trân trọng báo cáo quý vị đại biểu.

 

Nơi nhận:

- Như trên

- Lưu HC, ĐN

TM. ỦY BAN ĐỐI NGOẠI

Chủ nhiệm

Vũ Mão

(đã ký)