Sáng 23/5, sau khi nghe Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai trình bày Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi), Quốc hội đã thảo luận về một số nội dung trong dự thảo luật.
Các ý kiến đều đánh giá cao việc Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến của các Đoàn đại biểu, đại biểu và chỉnh sửa dự thảo luật cũng như giải trình làm rõ nhiều vấn đề.
Tăng mức lương làm thêm giờ ban đêm lên gấp đôi
Về tiền lương và mức lương tối thiểu, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng cần nghiên cứu để bổ sung các quy định cụ thể về tiền lương như cơ cấu của tiền lương, căn cứ trả lương, chống phân biệt đối xử trong trả lương, hình thức trả lương, hệ thống thang, bảng lương.
Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội và đã chỉnh lý dự thảo theo hướng không kết cấu chương này thành các mục, quy định rõ khái niệm về tiền lương để thống nhất cách hiểu về tiền lương, cơ cấu tiền lương, nguyên tắc cơ bản để trả lương và bắt buộc mức lương trả cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.
Một số ý kiến cho rằng cần quy định cụ thể về tiền lương tối thiểu giờ để đáp ứng với sự linh hoạt của thị trường lao động, nhất là đối với loại hình lao động không trọn thời gian.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Bộ luật đã bổ sung các nguyên tắc đối với tiền lương tối thiểu theo tháng, tuần, ngày, giờ, được xác lập theo vùng, theo ngành và giao cho Chính phủ quy định chi tiết để phù hợp với thị trường lao động, tình hình thực tiễn của từng ngành, nghề, loại công việc trong từng thời kỳ.
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý tại Điều 99 của dự thảo Bộ luật về tăng mức lương làm thêm giờ ban đêm lên gấp đôi so với mức lương làm việc ban ngày.
Làm thêm không quá 200 giờ/năm
Đối với việc nghỉ tết âm lịch, theo đề nghị của các đại biểu Quốc hội, dự thảo Bộ luật đã được điều chỉnh để tăng quy định về thời gian nghỉ tết âm lịch từ 4 ngày lên 5 ngày.
Về loại hợp đồng lao động, nhiều ý kiến ủng hộ phương án hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Phát biểu ý kiến, các đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (đoàn Bà Rịa- Vũng Tàu), Lê Văn Hoàng (đoàn Đà Nẵng), Nguyễn Trung Thu (đoàn Long An) đều cho rằng, hợp đồng xác định thời hạn như trên là phù hợp, tạo thuận lợi cho người lao động trong quá trình thỏa thuận. Nếu kéo dài lên 72 tháng, sẽ khó bảo vệ được quyền lợi của người lao động.
Về thời giờ làm thêm, nhiều ý kiến ủng hộ phương án: Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động tối đa không quá 50% số giờ làm việc chính thức trong một ngày, 30 giờ trong một tháng và tổng số không quá 200 giờ trong một năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ tối đa không quá 300 giờ trong một năm.
Quy định này phù hợp với điều kiện và thể chất của người lao động Việt Nam, tạo cơ hội việc làm cho nhiều người lao động, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ và năng lực quản trị doanh nghiệp.
Việc kéo dài thời giờ làm thêm là chưa phù hợp với xu hướng tiến bộ, khi trình độ công nghệ ngày càng phát triển, tay nghề của người lao động và giá trị sản phẩm tăng lên thì thời giờ làm việc phải giảm dần nhằm bảo đảm sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Các đại biểu Lê Văn Hoàng (TP Đà Nẵng), Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa- Vũng Tàu) cho rằng, quy định trên hạn hạn chế người lao động bị khai thác tối đa sức lao động, mà kinh nghiệm thực tiễn các nước cho thấy điều này dễ dẫn đến tai nạn lao động vì sức giảm sút.
Về vấn đề này, đại biểu Ngô Thị Minh (đoàn Quảng Ninh) ủng hộ phương án trên nhưng đề nghị cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng lao động, đảm bảo thực hiện chi trả cho thời gian làm thêm đúng theo luật định.
Tăng thời gian nghỉ thai sản lên 6 tháng
Về chính sách đối với lao động nữ, các ý kiến tập trung vào quy định về thời gian nghỉ thai sản. Tuyệt đại đa số các ý kiến tán thành với quy người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng. Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng.
Đại biểu Lê Văn Hoàng (đoàn Đà Nẵng), quy định tăng thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ thể hiện sự tiến bộ, hướng đến mục tiêu bảo vệ thế hệ tương lai và chất lượng giống nòi. Trong điều kiện hiện nay, nếu thời gian nghỉ thai sản là 6 tháng, theo tính toán của cơ quan Bảo hiểm xã hội thì Quỹ bảo hiểm xã hội có thể cân đối được.
Bên cạnh đó, phương án này bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với điều kiện sống và các nhóm công việc khác nhau, đề cao quyền lựa chọn của lao động nữ để phù hợp với công việc, cuộc sống của mình và bảo đảm được hưởng đầy đủ chế độ thai sản.
Tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và nữ có nên như nhau?
Về tuổi nghỉ hưu, nhiều ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60, nữ là 55. Đối với một số đối tượng là người lao động làm các công việc nặng nhọc, độc hại, làm việc ở vùng cao, biên giới, hải đảo hoặc người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị quy định tuổi nghỉ hưu của cả lao động nam và lao động nữ đều là 60 để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, đảm bảo an toàn lâu dài đối với quỹ bảo hiểm xã hội và thích ứng với xu hướng già hóa dân số.
Đại biểu Bùi Thị An (đoàn Hà Nội) cho rằng, quyền được lao động là bình đẳng và nên tuổi nghỉ hưu là như nhau, tức 60 tuổi. Đại biểu nêu một thực tế, nhiều lĩnh vực, những lao động nữ có trình độ tay nghề cao và vẫn đảm bảo sức khỏe nhưng đã đến tuổi về hưu, trong khi vẫn còn khả năng tiếp tục cống hiến. Hơn nữa, nhiều người đang còn sức lao động, nhưng phải về hưu nên lại phải tìm việc khác mưu sinh.
Liên quan đến nội dung này, đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (tỉnh Quảng Bình) đề nghị, nên quy định độ tuổi được nghỉ hưu và độ tuổi phải nghỉ hưu. Đại biểu này cũng cho rằng cần mở rộng đối tượng để kéo dài thời gian nghỉ hưu để thuận lợi cho việc tăng tuổi nghỉ hưu sau này./.