ĐẨY MẠNH VÀ PHÁT HUY HƠN NỮA PHƯƠNG THỨC GIÁM SÁT TỐI CAO THÔNG QUA CHẤT VẤN

23/01/2024

Với nhiều đổi mới qua các nhiệm kỳ, chất vấn luôn là điểm sáng trong hoạt động giám sát của Quốc hội, để lại nhiều dấu ấn trong lòng cử tri. Nhận định đây là hình thức giám sát tối cao quan trọng cần tiếp tục được đẩy mạnh và phát huy, từ kinh nghiệm thực tiễn, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, ĐBQH khóa XII, XIII Nguyễn Đình Quyền đã có nhiều chia sẻ thiết thực về kinh nghiệm chất vấn trong lĩnh vực tư pháp.

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TIẾP TỤC THỂ HIỆN TINH THẦN ĐỔI MỚI, VÌ LỢI ÍCH NHÂN DÂN

CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN KỲ HỌP THỨ 6: HIỆU QUẢ, THỰC CHẤT, MANG TÍNH XÂY DỰNG CAO

Quốc hội khóa XV

Hình thức giám sát tối cao

Để thực hiện vai trò, nhiệm vụ giám sát của mình, đại biểu Quốc hội không chỉ tham gia vào các hoạt động giám sát của Quốc Hội trong việc xem xét các báo cáo của Chủ tịch nước,Uỷ ban thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Kiểm toán nhà nước... mà còn được thực hiện ở hoạt động chất vấn. Chất vấn của đại biểu Quốc hội là hình thức giám sát tối cao tại kỳ họp. Điều 80 của Hiến pháp năm 2013 quy định đại biểu Quốc Hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,Chánh án tòa án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Tổng kiểm toán nhà nước.

Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đều quy định đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn. Từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp năm 2013, đối tượng bị chất vấn ngày càng được mở rộng. Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở quy định đại biểu Quốc hội chất vấn đối với bộ trưởng. Hiến pháp năm 1959 quy định đại biểu Quốc Hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ, các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Hiến pháp năm 1980 quy định đại biểu Quốc Hội có quyền chất vấn Hội đồng bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng bộ trưởng,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 quy định mở rộng và cá thể hóa trách nhiệm của người bị chất vấn, theo đó, đại biểu Quốc Hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao,Tổng kiểm toán nhà nước.

Các vị đại biểu Quốc hội tham gia chất vấn, tranh luận tại Kỳ họp thứ 6, Quốc họi khóa XV

TS. Nguyễn Đình Quyền - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII cho biết, chất vấn là quyền và là hình thức giám sát riêng có và quan trọng nhất của đại biểu Quốc hội. Chất vấn là yêu cầu của đại biểu với tư cách là người đại diện có thẩm quyền của nhân dân đối với người bị chất vấn trong việc làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn, đề nghị người bị chất vấn báo cáo, giải trình trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định

Chất vấn do đại biểu Quốc hội thực hiện nhưng khi tiến hành tại kỳ họp Quốc hội sẽ trở thành một trong những phương thức giám sát tối cao của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn thì không còn nhân danh cá nhân nữa mà nhân danh quyền lực tối cao của nhân dân, hay còn gọi là quyền lực gốc, quyền lực do dân bầu và ủy nhiệm, thay mặt nhân dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý, chính trị của họ, quy trách nhiệm pháp lý đối với người bị chất vấn. Đặc điểm quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội là chất vấn đối với cá nhân những người đứng đầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện quyền chất vấn giúp cho đại biểu Quốc hội thay mặt nhân dân xem xét tính đúng đắn, tính tuân thủ pháp luật,tính hiện lực,hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ,công chức, viên chức nhà nước,nhất là những người có chức vụ, quyền hạn và có thêm cơ sở để thực hiện quyền bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người lãnh đạo, những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Đặc điểm quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp năm 2013 là đại biểu không chất vấn các cơ quan nhà nước nói chung mà chất vấn cá nhân người đứng đầu một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở cấp trung ương. Đây là điều khác biệt so với quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đã được quy định tại các hiến pháp trước đây.

Về hình thức chất vấn, nếu trước đây chất vấn chỉ là đối thoại trực tiếp thì từ Hiến pháp năm 1992 trở đi, đại biểu Quốc Hội có thể chất vấn trực tiếp hoặc gửi phiếu chất vấn qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội để chuyển tới người bị chất vấn. Chất vấn không chỉ được thực hiện tại kỳ họp mà đại biểu Quốc hội có thể chất vấn giữa hai kỳ họp và việc chất vấn có thể được tiến hành tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

TS. Nguyễn Đình Quyền - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII

Theo TS. Nguyễn Đình Quyền - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay đó là hiệu lực, hiệu quả, hậu quả pháp lý của hoạt động chất vấn. Lâu nay, đây là vấn đề chưa được làm rõ và quan tâm đúng mức. Trong thời gian gần đây, các đại biểu Quốc hội khi chất vấn đã bắt đầu căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn, lời hứa của người bị chất vấn tại kỳ họp trước cùng với kết quả công tác của họ để xác định rõ trách nhiệm và việc thực hiện lời hứa của người bị chất vấn. Tuy nhiên, việc thông qua hoạt động chất vấn để kết nối với phương thức giám sát lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức hoặc ra nghị quyết của Quốc hội về trả lời chất vấn đề xác định rõ trách nhiệm đối với từng người trả lời chất vấn vẫn chưa có sự liên kết, kết nối chặt chẽ giữa các phương thức giám sát này.

Để tăng cường vai trò giám sát, nhất là trong việc thực hiện phương thức chất vấn của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 quy định quyền của đại biểu Quốc hội trong việc kiến nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, trình Quốc Hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đây là quyền được thực hiện chủ động từ phía các đại biểu Quốc hội.

Kinh nghiệm, kỹ năng chất vấn đối với hoạt động tư pháp

Từ thực tiễn nhiều năm gắn bó với hoạt động Quốc hội, TS. Nguyễn Đình Quyền cho rằng, chất vấn của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đối với hoạt động tư pháp là một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam. Chất vấn hoạt động tư pháp vừa là quyền vừa là trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật, áp dụng pháp luật cũng như trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, người đứng đầu các cơ quan tư pháp đó.

Do tính chất quan trọng của chất vấn đối với hoạt động tư pháp đòi hỏi người chất vấn phải có địa vị pháp lý và năng lực chủ thể đặc biệt, chỉ có đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mới có thẩm quyền,năng lực pháp lý tiến hành,do đó hoạt động này không được ủy quyền thực hiện. Chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng chất vấn đối với lĩnh vực tư pháp, TS. Nguyễn Đình Quyền lưu ý một số vấn đề cơ bản như sau:

Một là, chất vấn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo bản chất của cơ quan đại diện phải được tiến hành công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan, đúng pháp luật và phải được tiến hành thường xuyên; không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp,người giữ chức danh tư pháp ;bảo đảm nguyên tắc độc lập, tuân theo pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tư pháp;…

Hai là, muốn đặt câu hỏi chất vấn về vấn đề gì cần phải thu thập thông tin liên quan đến nội dung câu hỏi (đây là yêu tố quan trọng quyết định thành công, tính thuyết phục,có căn cứ của việc chất vấn). Thông tin có thể thu thập từ báo chí, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác, từ cử tri, qua việc xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân, qua kết quả giám sát, khảo sát, nhất là hoạt động giám sát chuyên đề, giám sát việc giải quyết các vụ việc,vụ án cụ thể, các phiên giải trình, các cuộc thanh tra, kiểm toán,kiểm sát hoạt động tư pháp,giám đốc xét xử ...

Để có thông tin tốt khi tiến hành chất vấn,đại biểu Quốc Hội Quốc hội, Hội đồng nhân dân cần tích cực tham gia các đoàn khảo sát, giám sát tại địa phương, cơ sở, các phiên giải trình của các cơ quan của Quốc Hội, các Ban của Hội đồng nhân dân, nhất là việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, qua đó có cơ sở thực tiễn xác thực để khái quát thành những vấn đề lớn ở tầm vĩ mô liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan tư pháp; đồng thời qua hoạt động này sẽ có được những căn cứ thực tiễn để đi đến cùng trách nhiệm của người bị chất vấn.

Ngoài ra, bất luận trong câu hỏi chất vấn nhất thiết phải có nội dung về việc làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn, cơ quan mà người bị chất vấn lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành; sâu hơn nữa là phải làm rõ địa chỉ cụ thể, mức độ, phạm vi trách nhiệm của người đó theo nhiệm vụ, quyền hạn do luật định hoặc được giao…

Ba là, khi tiến hành chất vấn, cần thu thập, kết hợp sử dụng thông tin một cách nhuần nhuyễn với các phương thức giám sát khác như kết quả của việc xét báo cáo công tác của những người đứng đầu các cơ quan tư pháp, kết quả các phiên giải trình ở các cơ quan của Quốc hội và HĐND, các cuộc giám sát chuyên đề, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân, giám sát việc giải quyết các vụ việc, vụ án cụ thể, việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm...Trên cơ sở đó có đầy đủ thông tin để đặt câu hỏi chất vấn và đi đến cùng của việc xác định trách nhiệm của người bị chất vấn.

Bốn là, câu hỏi chất vấn phải ngắn gọn, trực diện,đi thẳng vào trách nhiệm của người bị chất vấn trên cơ sở tổng hợp,khái quát tất cả các thông tin mà đại biểu thu thập được, tránh diễn giải thông tin sự kiện dài dòng, làm loãng mục tiêu của câu hỏi chất vấn;có đưa thông tin sự kiện thì phải thật “đắt”, thật ngắn gọn và thông tin đó phải quan hệ mật thiết,nhân quả với câu hỏi làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn.

Để bảo đảm tính khách quan, công bằng và mang tính chất xây dựng, khi tiến hành chất vấn, đưa kiến nghị chất vấn, người chất vấn cần xem xét một cách toàn diện những khó khăn,vướng mắc mang tính chủ quan, khách quan của người bị chất vấn khi thực hiện trách nhiệm của mình cũng như kiến nghị của người chất vấn;phải nắm thật rõ phạm vi trách nhiệm của họ, nhất là trong hoạt động tư pháp người bị chất vấn là người đứng đầu các cơ quan trong hoạt động tư pháp nhưng họ lại là những người giữ chức danh tư pháp, việc xác định trách nhiệm trong mối quan hệ công tác trong nhiều trương hợp được xác định theo quy định của pháp luật tố tụng.

Năm là, bên cạnh việc làm rõ trách nhiệm cũng cần chia sẻ với những khó khăn,vướng mắc mà họ đang gặp phải. Kiến nghị phải thật rõ, cụ thể, hướng tới việc đưa ra các giải pháp và thực hiện cho được những giải pháp đó để khắc phục cho được những hạn chế, thiếu sót, yếu kém đã được đại biểu chất vấn làm rõ. Văn hóa chấp vấn cũng phải được đề cao trên tinh thần hợp tác, xây dựng, cầu thị vì lợi ích chung của đất nước, nhân dân theo nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực được quy định trong Hiến pháp…./.

Lê Anh