Toàn cảnh Tọa đàm
Tham dự tọa đàm có đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc và một số Ủy ban của Quốc hội; đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng một số Bộ, ngành hữu quan, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; đại diện Tổ chức Care quốc tế tại Việt Nam; Ngân hàng thế giới; các chuyên gia, nhà nghiên cứu có quan tâm về lĩnh vực này.
Báo cáo tóm tắt đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo và An sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025, Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) Tô Đức cho biết, Chính phủ đã ban hành khá đồng bộ, toàn diện, ưu tiên các đối tượng yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn; từng bước giảm dần chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của Châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu. 63 tỉnh, thành phố đã chủ động ban hành bổ sung nhiều chính sách đặc thù lĩnh vực giảm nghèo trên địa bàn để hỗ trợ người nghèo.
Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng cho biết, mục tiêu tổng quát của đề xuất đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo và An sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025 là thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo vượt lên mức sống tối thiểu bền vững, tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, nâng cao chất lượng cuộc sống và các địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn. Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao và thị trường lao động đồng bộ, hiện đại nhằm tạo việc làm đầy đủ, việc làm tốt cho tất cả mọi người; phát triển hệ thống trợ giúp xã hội chuyên nghiệp, giảm bất bình đẳng xã hội; góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và an sinh xã hội bền vững. Theo đó, Chương trình gồm 4 Dự án và 11 Tiểu Dự án.
Về lồng ghép giới, trong thực hiện Chương trình giai đoạn 2016-2020 đã bảo đảm nguyên tắc “ưu tiên phụ nữ hưởng lợi”: Thể hiện trong Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, có xác định đối tượng hưởng lợi ưu tiên là phụ nữ. Áp dụng cơ chế bảo đảm “sự tham gia của phụ nữ”. Kế thừa kết quả đạt được của Chương trình giai đoạn 2016-2020, Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo và An sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025 chú trọng nội dung lồng ghép bình đẳng giới với một số vấn đề chính như nguyên tắc “ưu tiên phụ nữ hưởng lợi”, thiết kế chương trình, phụ nữ thuộc hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo là đối tượng ưu tiên hưởng lợi.
Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo Tô Đức báo cáo
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ rõ rằng, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong việc lồng ghép giới vào một số chương trình mục tiêu quốc gia như: sự tham gia của người dân trong hoạt động lập kế hoạch còn hạn chế. Ở một số địa bàn có tổ chức các cuộc họp lập kế hoạch ở cấp thôn, sự tham gia của phụ nữ trong hoạt động lập kế hoạch dù có cao (trên 30%) nhưng chất lượng của sự tham gia chưa cao một phần do phụ nữ ngại đưa ra các ý kiến nhất là các ý kiến liên quan đến các dự án, công trình đầu tư phát triển. Năng lực của cán bộ địa phương trong thực hiện lồng ghép giới (nhận thức, phương pháp, kỹ năng, sự nhạy cảm về giới) còn hạn chế. Vai trò của Hội Phụ nữ trong thực hiện Chương trình chủ yếu ở góc độ tuyên truyền, vận động; chưa có cơ chế phát huy mạnh mẽ vai trò như là một chủ thể thực hiện các hoạt động phát triển sinh kế, đảm bảo an ninh lương thực, dinh dưỡng trẻ em ở các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Thảo luận tại tọa đàm, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Đỗ Mạnh Hùng chỉ ra rằng, để giảm nghèo thực chất, có hiệu quả hơn thì nên thực hiện “giảm nghèo theo địa chỉ”, vì nguyên nhân nghèo ở mỗi “địa chỉ” có thể rất khác nhau mà nguyên nhân nghèo khác nhau thì biện pháp, nguồn lực...cũng khác nhau. “Địa chỉ” ở đây có thể là vùng, là huyện, là xã , đặc biệt là hộ gia đình . Từ cách đặt vấn đề như vậy, đề nghị đề xuất chủ trương bổ sung những nội dung về giảm nghèo đối với các hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ để có giải pháp phù hợp, hiệu quả.
Cũng tại buổi toạ đàm, một số đại biểu cho rằng, trên thực tế cũng như trong các văn bản về giảm nghèo của Đảng, Nhà nước ta đã đề cập đến khái niệm “lõi nghèo”, ở các vùng này, do điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán...nên có thể nói phụ nữ và trẻ em gái là “lõi” của “lõi nghèo”. Ví dụ, một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên còn có chế độ “Mẫu hệ”, bên cạnh những giá trị lịch sử, văn hoá thì mặt trái của phong tục này là gánh nặng mưu sinh dồn hết lên vai người phụ nữ trong gia đình (có người mẹ trẻ, mới sinh con được 1 tháng đã đi làm thuê hàng ngày để nuôi gia đình, trong khi người chồng do vai trò phụ thuộc trong gia đình thì ở nhà bế con…). Vì vậy, đề xuất chủ trương cần nghiên cứu có những nội dung về vấn đề này, nhằm nhanh chóng có những giải pháp hiệu quả để góp phần giải quyết tình trạng “lõi của lõi nghèo”, đảm bảo bình đẳng và tiến bộ giới được lan tỏa đến cả các vùng núi xa xôi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất nhiều khó khăn.
Tham gia ý kiến tại tọa đàm, đại diện Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nêu rõ, cách tiếp cận của đề xuất Chương trình vẫn chưa thể hiện rõ yếu tố lồng ghép giới, chưa thực sự bảo đảm cơ hội công bằng cho tất cả mọi người trong quá trình thực hiện. Cụ thể: Trong đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình, có tất cả 17 chỉ tiêu cụ thể, nhưng chỉ có 1 chỉ tiêu đề cập đến phụ nữ; 16/17 chỉ tiêu còn lại đều thể hiện chung như nhau cho mọi đối tượng, không chỉ rõ chỉ tiêu cụ thể đối với phụ nữ, đặc biệt phụ nữ nghèo, phụ nữ nghèo đơn thân, phụ nữ yếu thế...; 4/4 dự án và 11 tiểu dự án chưa đề cập đến vấn đề lồng ghép giới.
Vì vậy, trong chủ trương đầu tư, cần cụ thể hóa nguyên tắc bình đẳng giới trong suốt quá trình thực hiện Chương trình, lồng ghép giới vào tất cả các nội dung chỉ tiêu và các dự án thành phần. Theo đó, đề nghị rà soát bổ sung chỉ tiêu tham gia của phụ nữ, phụ nữ nghèo trong các dự án, tiểu dự án. Bởi vì, nếu không được xác định bằng một chỉ tiêu nhất định thì chắc chắn sự tham gia, thụ hưởng của phụ nữ, phụ nữ nghèo sẽ rất bị hạn chế so với nam giới. Hơn nữa, cần có chính sách và hướng dẫn chi tiết trong chỉ đạo các cấp, các ngành phát huy vai trò, trách nhiệm thực hiện lồng ghép giới trong mọi hoạt động của Chương trình.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Lê Thị Nguyệt phát biểu ý kiến tại tọa đàm
Ngoài ra, một số đại biểu cũng nhận định, đại dịch Covid-19 đã làm gia tăng những vấn đề về bình đẳng giới trong đời sống kinh tế - xã hội. Phụ nữ phải đối mặt với những thách thức lớn như: nghèo đói và bất an kinh tế, mất việc làm, giảm thu nhập, mất an ninh về lương thực và di cư. Đại dịch đã làm gián đoạn việc làm trong nhiều thành phần kinh tế có đông lao động nữ, trong khu vực phi chính thức, làm nông nghiệp, bán hàng rong... Phụ nữ cũng hạn chế trong cách tiếp cận đến các dịch vụ bảo trợ xã hội, trợ cấp thất nghiệp hoặc hỗ trợ tài chính của Nhà nước. Do đó cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề lồng ghép giới trong các chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội trong thời gian tới.
Kết luận nội dung tọa đàm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Lê Thị Nguyệt trân trọng cảm ơn những ý kiến quý báu, tâm huyết của các đại biểu tham dự và các chuyên gia. Nhấn mạnh Việt Nam cũng đã có những thành tựu đáng ghi nhận trong việc giảm bất bình đẳng trong xã hội, bao gồm bình đẳng giới và giảm khoảng cách về thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Lê Thị Nguyệt tin tưởng Đảng và Nhà nước ta tiếp tục có nhiều chính sách, chương trình hướng tới nhóm đối tượng để đảm bảo bình đẳng giới; việc thực hiện các chính sách, pháp luật về các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững sẽ đạt được những kết quả thiết thực nhất./.