Ngày làm việc thứ 21, kỳ họp thứ năm, QH khóa XII: Các thành viên Chính phủ tiếp tục trả lời chất vấn của đại biểu QH

15/06/2009

Sáng 13-6, tại kỳ họp thứ năm, QH khóa XII, các đại biểu QH tiếp tục chất vấn các thành viên Chính phủ, dưới sự chủ trì của Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng.

Sau khi Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Võ Hồng Phúc tiếp tục trả lời chất vấn của một số đại biểu QH  về vấn đề điều chỉnh nguồn vốn đầu tư  xây  dựng    bản,  giải  ngân nguồn vốn từ trái phiếu Chính phủ, quản lý việc xây dựng các sân gôn,... Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng, thay mặt Thủ tướng Chính phủ trả lời chất vấn của các đại biểu QH.

Nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế

Mở đầu, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng trình bày trước QH Báo cáo số 105/BC-CP ngày 12-6-2009 của Chính phủ giải trình và trả lời chất vấn của các đại biểu QH. Báo cáo nêu rõ: Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp, khó lường và mức độ tác động tới các nước cũng như khả năng và thời điểm ra khỏi khủng hoảng của từng nước rất khác nhau, phụ thuộc vào kết quả ứng phó của mỗi nước và sự phối hợp chung toàn cầu. Xu thế cải thiện tình hình đã bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn còn mờ nhạt và chưa chắc chắn. Còn quá sớm để khẳng định khủng hoảng đã qua. Quá trình phục hồi kinh tế có thể sẽ còn kéo dài vài ba năm nữa.

Ở trong nước, tình hình kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm đã có bước cải thiện, tuy còn chậm chạp, nhưng có dấu hiệu cho thấy đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Suy giảm kinh tế của nước ta hiện nay bắt nguồn từ những yếu kém vốn có của nền kinh tế và tác động tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế thế giới; đồng thời, chịu hệ lụy của lạm phát và thắt chặt tài chính, tiền tệ để chống lạm phát năm 2008. Nền kinh tế của chúng ta tuy chưa rơi vào khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nhưng mức suy giảm là khá nặng và vẫn còn nguy cơ tái lạm phát, phải chấp nhận tăng bội chi ngân sách để thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế và tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp sau. Tình hình đó đòi hỏi phải điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2009, điều hành nền kinh tế một cách tích cực, trên cơ sở những mục tiêu tổng quát đã đề ra.

Trong những tháng vừa qua, chúng ta đã triển khai các nhóm giải pháp (gói) kích thích kinh tế sau đây: Miễn, giảm, giãn thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và kích thích tiêu dùng cá nhân;  Hỗ trợ lãi suất và bảo lãnh của Chính phủ nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tín dụng phục vụ đầu tư, sản xuất, kinh doanh và giải quyết khó khăn phát sinh do suy giảm kinh tế;  Tăng đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ;  Bổ sung các khoản chi ngân sách Nhà nước về bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo.  Tổng trị giá các gói kích thích kinh tế khoảng 145 nghìn tỷ đồng (tương đương 9% GDP), trong đó, "gói" chính sách giảm thuế 28 nghìn tỷ đồng, "gói" hỗ trợ lãi suất vay tín dụng 17 nghìn tỷ đồng, "gói" tăng đầu tư công hơn 90 nghìn tỷ đồng và "gói" bổ sung an sinh xã hội gần 10 nghìn tỷ đồng. Các gói giải pháp này được thực hiện từ các nguồn đã bố trí trong ngân sách Nhà nước, nguồn ứng trước, nguồn dự trữ ngoại hối và nguồn phát hành vay dân. Tất cả các nguồn tiền đó đã có trong lưu thông, không phải phát hành thêm. Tổng số tiền của các giải pháp tuy không nhiều nhưng đối với quy mô nền kinh tế nước ta hiện nay, đã là một cố gắng lớn. Các chính sách đó đều có giới hạn về thời gian và có chọn lọc về các đối tượng. Hết thời hạn đó, tùy tình hình cụ thể, sẽ có những giải pháp tiếp theo.

Sau một thời gian thực hiện, các biện pháp kích thích kinh tế bước đầu phát huy tác dụng, được người dân và doanh nghiệp đón nhận tích cực. Tuy nhiên cũng nảy sinh những thiếu sót, bất cập, như nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước đã phản ánh. Chính phủ đã và đang chỉ đạo khắc phục kịp thời các vướng mắc, tiếp tục bổ sung hoàn thiện các giải pháp và tổ chức kiểm tra chặt chẽ, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực, sử dụng các nguồn vốn kích cầu sai mục đích và lãng phí; đồng thời, có các giải pháp bù hụt thu ngân sách do các nguyên nhân khách quan, bất khả kháng cho các địa phương.

Các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo tuy nhiều nhưng chưa được lồng ghép tốt nên hiệu quả còn hạn chế. Vì vậy, Chính phủ đã và đang chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: Tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo hiện hành, trong đó có chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, vay vốn sản xuất, kinh doanh và học tập, hỗ trợ mua thẻ Bảo hiểm y tế; đồng thời, tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và các Chương trình 134, 135, để năm 2010 hoàn thành các mục tiêu và xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ban hành chuẩn nghèo mới; đồng thời, tổ chức điều tra lập danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo của từng xã, huyện, tỉnh trong quý 4 năm 2009 và bố trí nguồn lực thực hiện từ năm 2010. Sớm phê duyệt các chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho từng huyện theo tinh thần Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới; tổ chức, động viên các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ các huyện nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước vốn cho các huyện để chủ động triển khai các chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo ở biên giới, thực hiện mức khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và tăng cường cán bộ cho các huyện nghèo.

Về các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên: Ngày 22-5-2009, Chính phủ đã có Báo cáo số 91/BC-CP giải trình về việc triển khai các dự án bô-xít. Trong các buổi thảo luận của Quốc hội, các đồng chí có trách nhiệm đã cố gắng trình bày làm rõ thêm những vấn đề liên quan về hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, an ninh-quốc phòng... của các dự án. Phó Thủ tướng giải trình thêm một số điểm như sau:

Nước ta có tiềm năng bô-xít lớn, đứng trong số các nước có trữ lượng hàng đầu thế giới, khoảng 5,5 tỷ tấn và tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên; nếu với quy mô khai thác theo Quy hoạch thì có thể khai thác trong khoảng một trăm năm (nếu chỉ để đáp ứng các nhu cầu trong nước, không xuất khẩu thì có thể khai thác trong vòng vài trăm năm). Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta từ hơn chục năm nay nhằm xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung và góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói riêng, cả trước mắt và lâu dài.

Thực hiện các Nghị quyết của Ðảng, Chính phủ đã xây dựng Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025. Ðây là văn bản xác định quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chính làm cơ sở cho kế hoạch dài hạn triển khai thực hiện trong thời gian gần 20 năm. Trong Quy hoạch, Chính phủ đã quan tâm đề cập  tất cả các yêu cầu về hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như môi trường văn hóa, xã hội và hợp tác đầu tư với nước ngoài của các dự án, đặc biệt quan tâm bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên. Theo các quy định hiện hành,  Chính phủ không phải báo cáo QH về các quy hoạch. Trong quá trình triển khai hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ và khi có ý kiến của một số đồng chí lão thành Cách mạng và nhà khoa học, Chính phủ đã tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, lắng nghe ý kiến đóng góp tâm huyết của tất cả mọi người, đã tổng hợp các ý kiến đó một cách nghiêm túc, trung thực, báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị. Những việc làm đó là đúng pháp luật, đúng nguyên tắc lãnh đạo của Ðảng, minh bạch, trong sáng, cầu thị và có trách nhiệm.

Các dự án Tân Rai và Nhân Cơ do nước ta tự đầu tư, không liên doanh với nước ngoài. Việc thiết kế và xây dựng được thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế công khai, đơn vị trúng thầu là một công ty Trung Quốc có uy tín trong lĩnh vực này. Ðến ngày 1-6-2009, trên cả hai dự án có 667 người lao động nước ngoài (gồm bốn công dân Ô-xtrây-li-a và 663 công dân Trung Quốc) làm việc, được quản lý theo pháp luật của Việt Nam. Số lao động này sau khi xây dựng xong, bàn giao nhà máy, chuyển giao công nghệ và quản lý vận hành cho phía Việt Nam, sẽ trở về nước.

Ðồng thời với việc triển khai hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ, Chính phủ sẽ từng bước rút kinh nghiệm, tổng kết, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch và kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo.

Chăm lo hơn nữa cho người nghèo và đẩy mạnh vai trò của doanh nghiệp nhà nước

 

 

Sau khi trình bày Báo cáo, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng trực tiếp trả lời chất vấn của các đại biểu QH. Ðại biểu Nguyễn Ðức Hiền (Quảng Ngãi) quan tâm về việc một số huyện, xã được tách ra và thành lập mới từ huyện nghèo có được coi là huyện nghèo hay không? Công tác đầu tư cho các thị trấn, xã có cơ sở hạ tầng yếu kém được thực hiện như thế nào? Sự quan tâm của Chính phủ đối với những hộ dân phải di dời để xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất, bởi hiện nay người dân nơi đây gặp rất nhiều khó khăn? Ðối với các câu hỏi này, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết: Nước ta phấn đấu đến năm 2020 sẽ nâng mức sống của nhân dân tại các huyện nghèo tăng từ năm đến sáu lần và đây là nhiệm vụ rất khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực rất cao. Về các huyện nghèo, Phó Thủ tướng cho biết, những huyện được chia tách ra từ huyện nghèo thì vẫn được coi là huyện nghèo và hiện nay, số huyện nghèo nhất trong cả nước đã lên tới 63. Các xã, thôn nằm ngoài những huyện nghèo vẫn đang được hỗ trợ các Chương trình 134, 135 giai đoạn 2. Hiện nay, cả nước có gần 2.000 xã và 3.200 thôn thuộc diện cận nghèo và đang được hưởng chính sách hỗ trợ như các địa phương nghèo. Ðối với những hộ dân đã di dời để phục vụ việc xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ để giảm bớt khó khăn mà nhân dân nơi đây đang gặp phải. Các nhà máy tại Dung Quất đang tiến hành đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân nơi đây. Nếu đưa người từ nơi khác đến đây làm việc thì có thể cho rằng chưa thành công.

Về quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước  và năng lực hoạt  động của một số tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, đại biểu Phạm Thị Loan (Hà Nội) muốn biết ý kiến của Chính phủ. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ: Hiện nay, đã có hơn 3.854 doanh nghiệp nhà nước thực hiện xong cổ phần hóa và đây chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp mà Nhà nước cần chi phối để bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế thì sẽ tiến hành cổ phần hóa từng bước chắc chắn, vững chắc nhưng Nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối. Hiện nay, cả nước có hơn 1.546 doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước và 94 tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước. Năm 2008, các tập đoàn, doanh nghiệp này duy trì mức tăng trưởng 10%, lợi nhuận của chủ sở hữu là 11%, đóng góp 40% GDP... và góp phần quan trọng vào kiềm chế lạm phát. Ðến nay, chưa thấy doanh nghiệp nhà nước nào phải cắt giảm lao động, tiếp tục duy trì việc làm ổn định cho người lao động và có nơi thu nhập của người lao động còn cao hơn cả thu nhập trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính phủ vẫn giữ chủ trương là các doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Vấn đề quan trọng là tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này.

Ðại biểu Dương Trung Quốc (Ðồng Nai) đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng về việc  thực hiện xây dựng vành đai 3 tại Hà Nội; tình hình tại Biển Ðông, nội dung Báo cáo của Chính phủ về Biển Ðông gửi lên Liên hợp quốc; đồng thời tỏ ý băn khoăn về việc không đưa dự án khai thác bô-xít ra xin ý kiến QH. Về những câu hỏi này, Phó Thủ tướng nêu rõ: Vành đai 3 Hà Nội hiện có nhiều dự án quan trọng và dự kiến sẽ hoàn thành năm 2010. Tuy vậy, vấn đề cần quan tâm hiện nay là việc mở vành đai 4 và 5, bởi sẽ góp phần quan trọng mở rộng giao thông Thủ đô, tránh tình trạng tắc nghẽn giao thông... Biển Ðông chính là vấn đề biên giới. Biên giới trên bộ Việt Nam đã cơ bản giải quyết tốt và đây là thành công có ý nghĩa rất quan trọng, là sự chỉ đạo quyết tâm, bền bỉ và kiên trì của Ðảng, Nhà nước. Về biên giới trên biển, chúng ta đã giải quyết tốt ở Vịnh Bắc Bộ, tại một số nơi đã có các đội tuần tra chung... Ở một số vùng biển còn lại, Việt Nam và các nước láng giềng đang tiếp tục hợp tác, đấu tranh trên cơ sở giữ vững chủ quyền dân tộc. Ðối với Báo cáo của Chính phủ về Biển Ðông gửi tới Liên hợp quốc, Phó Thủ tướng cho biết, nước nào có biển, nước đó cần phải có Báo cáo theo Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 mà QH nước ta đã phê chuẩn. Về dự án khai thác bô-xít tại Tây Nguyên, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Chúng ta đã lập từng dự án theo quy định của pháp luật, mỗi dự án đã được xem xét khá toàn diện, với việc khảo sát, thăm dò, lập dự án chế biến, đưa ra những quy trình xử lý những vấn đề sau khi khai thác tài nguyên... Về vấn đề này, các bộ trưởng cũng đã trả lời, báo cáo với các đại biểu QH khá rõ ràng trong phiên chất vấn, vì vậy, không có chuyện tách ra hay "lách luật"...

Những vấn đề về kinh tế của đất nước được nhiều đại biểu quan tâm. Ðại biểu Vi Thị Tuyết (Nghệ An) đặt câu hỏi Phó Thủ tướng về việc tăng giá điện, xăng và học phí trong thời điểm hiện nay có phù hợp hay không? Ðại biểu Phạm Xuân Thường (Thái Bình) bày tỏ sự lo lắng về mức bội chi ngân sách lên tới 7%. Vấn đề quản lý đất đai công sản còn nhiều bất cập, sử dụng không đúng mục đích, trái pháp luật... được đại biểu Danh Út đặt ra và đề nghị Chính phủ cho biết giải pháp đối với thực trạng này.

Phó Thủ tướng trả lời: Việc nước ta tăng giá xăng, dầu... là phụ thuộc vào thị trường thế giới, bởi ta bán nguyên liệu theo giá quốc tế thì cũng phải nhập theo giá quốc tế. Và ngân sách quốc gia không thể bù lỗ mãi được. Nhân dân cần chia sẻ khó khăn với ngân sách Nhà nước. Ðồng thời, Nhà nước có chính sách hỗ trợ những đối tượng dễ bị tổn thương, thiệt thòi khi giá tăng. Về vấn đề bội chi, Phó Thủ tướng khẳng định: Ðã bội chi là nguy hiểm cho nền kinh tế. Nhưng bội chi cũng có mặt tích cực, nếu ta biết hướng việc bội chi cho phát triển. Năm trước, mức bội chi là 5%, nhưng năm nay, tình hình kinh tế thế giới biến động nhanh nên Chính phủ đề nghị điều chỉnh mức bội chi lên 7%. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng khẳng định thực trạng sử dụng đất đai công sản hiện nay còn nhiều bất cập, đúng như đại biểu Danh Út đã nêu. Ðể khắc phục tình trạng này, Chính phủ và các cơ quan chức năng, các địa phương cần  tổ chức các lực lượng kiểm soát, giám sát thật chặt  chẽ từ T.Ư tới địa phương.

Ðại biểu Nguyễn Minh Thuyết (Lạng Sơn) có ba vấn đề đặt ra với Phó Thủ tướng. Ðó là, trong thời gian gần đây, có những đề án, dự án của Chính phủ và địa phương chưa nhận được sự đồng tình của đông đảo nhân dân, nguyên nhân từ đâu? Nhiều cơ quan thuộc Chính phủ đưa ra dự báo sai, trách nhiệm thuộc về ai? Chính phủ có trách nhiệm như thế nào về một số hiện tượng cấp trên có chỉ thị nhưng cấp dưới không nghe và không thực hiện? Về những vấn đề này, Phó Thủ tướng nêu rõ: Chính phủ và các địa phương đưa ra những dự án, đề án và nhận được những ý kiến khác nhau, những ý kiến góp ý với tinh thần xây dựng là rất tốt và cần được khuyến khích. Ðã có những dự án, đề án còn nhiều hạn chế và đã phải sửa chữa, bổ sung. Ðối với công tác dự báo, trong hoàn cảnh kinh tế thế giới biến động rất khó lường, việc dự báo chính xác là rất khó. Ta phải vừa chủ động dự báo vừa phải chủ động ứng phó kịp thời với tình hình bất thường. Trong thời gian tới, công tác dự báo của nước ta cần tiếp tục được nâng cao. Phó Thủ tướng nêu rõ: Trong quản lý hành chính hiện nay vẫn còn những bất cập, hạn chế, trục trặc với nhiều nguyên nhân cụ thể, cần phải được xem xét và giải quyết dứt điểm.

Trong phiên chất vấn buổi sáng, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã trả lời chất vấn của các đại biểu QH về  công tác tập trung quản lý tài chính, xây dựng pháp luật, bảo vệ và quản lý rừng...

Chất vấn và trả lời chất vấn thật sự dân chủ, thẳng thắn, xây dựng và trách nhiệm

Kết thúc phiên chất vấn, Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng phát biểu kết luận, nêu rõ: Chúng ta đã qua hai ngày rưỡi tiến hành hoạt động chất vấn tại Hội trường - một kỳ chất vấn tiếp tục có những đổi mới, cải tiến, khá sôi động và có chiều sâu.Với sự có mặt của 95,7% tổng số đại biểu Quốc hội, sự tham gia của hầu hết các Bộ trưởng, trưởng ngành, thành viên Chính phủ và nhiều khách quý, sự theo dõi, chứng kiến của hàng triệu cử tri và nhân dân, đã nói lên sức thu hút, hấp dẫn của các phiên chất vấn.

Với 255 chất vấn bằng văn bản của 125 đại biểu ở 50 Ðoàn đại biểu Quốc hội và 106 lượt ý kiến trong số 148 đại biểu đăng ký chất vấn, trao đổi trực tiếp tại Hội trường đã nói lên quy mô của phiên chất vấn. Nội dung chất vấn đã đề cập những vấn đề thời sự nóng hổi, bức xúc từ thực tiễn cuộc sống, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, vừa cụ thể, vừa bao quát, mang tầm vóc quốc gia, có ý nghĩa chỉ đạo vĩ mô rất thiết thực.

Không khí chất vấn và trả lời chất vấn thật sự dân chủ, thẳng thắn, xây dựng và trách nhiệm. Hỏi và trả lời nhìn chung đã vào đúng trọng tâm, ngắn gọn hơn, có trao đi đổi lại, có tranh luận khá liên tục, sôi nổi, với sự tham gia của một số  bộ trưởng, trưởng ngành về những vấn đề có liên quan. Qua cọ sát, một số vấn đề lớn đã được làm rõ thêm ở nhiều góc độ, giúp chúng ta hiểu sâu hơn từ trong thực chất của vấn đề, nguyên nhân của vấn đề, thấy rõ hơn trách nhiệm của người được chất vấn và cả người chất vấn trên mỗi cương vị công tác của mình; từ đó tìm ra các giải pháp góp phần thúc đẩy việc thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ chính trị, từng bước khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm. Và đây chính là mục đích, yêu cầu cao nhất, bao trùm nhất của hoạt động chất vấn của Quốc hội chúng ta.

Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nắm bắt đúng thực tiễn, lắng nghe ý kiến kiến nghị của cử tri và nghiên cứu khá sâu để có những câu hỏi sắc sảo và theo dõi sát vấn đề để thảo luận đến cùng. Nhiều bộ trưởng, trưởng ngành đã chuẩn bị công phu và kỹ lưỡng để trả lời một cách nghiêm túc, chân thành; thẳng thắn nhận thiếu sót, trách nhiệm, không né tránh, đùn đẩy. Kỹ năng chất vấn và trả lời chất vấn cũng có bước nâng lên. Hầu hết đều không đọc văn bản; hỏi và trả lời đều đã tập trung hơn theo một số nhóm vấn đề được lựa chọn và báo trước. Tính tranh luận, trao đổi đối thoại trực tiếp có bước tiến bộ. Chất vấn theo nhóm vấn đề rõ nét hơn; bước đầu khắc phục được tình trạng tản mạn, dàn trải.

Việc báo cáo tình hình giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri tại phiên chất vấn là một nét mới của kỳ họp này, góp phần gắn kết, củng cố hơn nữa mối liên hệ giữa hoạt động của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội với cử tri và nhân dân cả nước.

Nhìn một cách tổng thể, phiên chất vấn tại kỳ họp này là có chất lượng, tiếp tục có bước đổi mới, cải tiến theo chiều sâu hơn, thực chất hơn, được cử tri, nhân dân và dư luận xã hội đánh giá tốt. Nhiều phương tiện thông tin đại chúng phản ánh ý kiến của cử tri, của đại biểu Quốc hội, bình luận, nhận xét về việc chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp này.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt được ấy vẫn có những điều chúng ta muốn mà chưa đạt được. Chất lượng và hiệu quả vẫn là điều phải tiếp tục quan tâm nâng cao. Một số nội dung vẫn chưa thật tập trung theo nhóm vấn đề. Một số vấn đề chưa được đào sâu, phân tích, mổ xẻ đến nơi đến chốn. Vẫn còn những trường hợp hỏi dài, hỏi không rõ ý, hỏi ra ngoài chủ đề đang tập trung thảo luận, đề cập những vấn đề quá cụ thể. Vẫn còn những trường hợp trả lời theo kiểu giải trình  quá chi tiết... Ðó là điều chúng ta cần rút kinh nghiệm, cần cố gắng cải tiến để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động chất vấn. Thực tế tại các phiên chất vấn gần đây cho thấy, chân lý và sức thuyết phục không phải ở thái độ gay gắt hay ở lời nói đao to búa lớn, mà nó nằm ở chiều sâu trí tuệ và tình cảm chân thành.

Chất vấn là công việc cần thiết và quan trọng. Nhưng "hậu chất vấn" còn quan trọng hơn nhiều, bởi vì đây là khâu thể hiện và kiểm nghiệm hiệu quả của hoạt động chất vấn. Do vậy, để phát huy kết quả của phiên chất vấn, tôi đề nghị: Các vị được trả lời chất vấn, các thành viên Chính phủ cần nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến đóng góp xác đáng của đại biểu Quốc hội, sớm triển khai thực hiện các biện pháp, những "lời hứa", hoàn thành tốt các nhiệm vụ thuộc chức trách của mình, tích cực khắc phục những hạn chế tồn tại trong công tác quản lý điều hành, báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp sau. Vẫn biết có những vấn đề không thể giải quyết triệt để trong ngày một ngày hai, nhất là những vấn đề phức tạp, nhưng Quốc hội và cử tri mong muốn Chính phủ, các bộ trưởng, trưởng ngành hết sức tập trung chỉ đạo giải quyết có hiệu quả, dứt điểm một số việc đã rõ, bức xúc; hạn chế tình trạng phải chất vấn đi, chất vấn lại nhiều lần. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo các cơ quan chức năng sớm tổng hợp, hoàn thiện các biên bản tóm tắt của phiên chất vấn để gửi đến các vị được chất vấn và các đại biểu Quốc hội.

Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ðoàn đại biểu Quốc hội, các  đại biểu Quốc hội, theo phạm vi trách nhiệm của mình, cần làm tốt việc giám sát thực hiện của các vị được chất vấn, phối hợp với các cơ quan của Chính phủ, các bộ, ngành giám sát việc thực hiện ở các địa phương; đồng thời sớm gửi các chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ðề nghị Quốc hội cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữa hai kỳ họp Quốc hội xem xét, cân nhắc để tổ chức chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với một số bộ trưởng, trưởng ngành chưa có điều kiện trả lời chất vấn tại kỳ họp này. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội khi cần thiết được tổ chức một số buổi làm việc nghe các cơ quan tương ứng của Chính phủ báo cáo tình hình thực hiện, góp phần vào công việc giám sát.

Việc có ban hành nghị quyết về hoạt động chất vấn tại kỳ họp này không, xin  Quốc hội để Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị rồi sẽ báo cáo với Quốc hội. Tinh thần là khi cần thiết thì mới ra nghị quyết, bảo đảm tính thiết thực, hiệu lực và khả thi.

Nhân dịp này, tôi xin có một số ý kiến về vấn đề bô-xít Tây Nguyên. Chúng ta đều biết đây là vấn đề quan trọng, nhạy cảm, được các vị đại biểu QH, cử tri và dư luận xã hội rất quan tâm. Trong Báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội, Chính phủ đã có một đoạn nói về vấn đề này. Trước kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị và Chính phủ đáp ứng khá nhanh việc chuẩn bị và gửi báo cáo chuyên đề đến các vị đại biểu Quốc hội. Tại các phiên thảo luận về kinh tế-xã hội và chất vấn, có một số đại biểu Quốc hội đề cập vấn đề này. Ý kiến chung là nhất trí về chủ trương và đồng tình với Kết luận của Bộ Chính trị. Một số ý kiến góp thêm về các vấn đề như: Tính toán kỹ hiệu quả kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng-an ninh; việc lựa chọn sản phẩm, lựa chọn công nghệ, lựa chọn nhà thầu; vị trí đặt nhà máy, xây dựng cơ sở hạ tầng; việc đào tạo, sử dụng nhân lực, quản lý lao động trong nước và người nước ngoài; tính toán kỹ lộ trình, bước đi, cách làm, sao cho chặt chẽ, khả thi, hiệu quả, đề phòng mọi rủi ro bất trắc... Tôi cho đó là những ý kiến xây dựng, trách nhiệm, chân thành; chí ít cũng là những ý kiến phản biện, lưu ý,  nhắc nhở, cảnh báo.

Ðề nghị Chính phủ trong quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện quy hoạch theo tinh thần Kết luận của Bộ Chính trị, cần lưu tâm đến những vấn đề đó; đồng thời tiếp tục lắng nghe, thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin, kịp thời điều chỉnh những gì chưa hợp lý hoặc xử lý vấn đề mới nảy sinh để thực hiện một cách tốt nhất chủ trương chiến lược quan trọng này. Quốc hội sẽ thực hiện chức năng giám sát và phối hợp chặt chẽ với Chính phủ. Một việc rất quan trọng là Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần chủ động làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân; cảnh giác trước âm mưu của các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề này để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước ta, kích động, chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế. Chúng ta không cường điệu, nhưng cũng không chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác.

Tạo điều kiện phát triển ngành viễn thông

Buổi chiều, các đại biểu QH làm việc ở tổ, thảo luận, cho ý kiến vào dự thảo Luật Viễn thông. Phần lớn các ý kiến phát biểu đều nhất trí với việc xây dựng và ban hành Luật Viễn thông, đáp ứng nhu cầu đang phát triển rất nhanh của ngành này, nhất là mạng điện thoại và internet, số thuê bao tăng nhanh, giá dịch vụ này càng cạnh tranh càng có lợi cho người tiêu dùng. Trong tiến trình hội nhập và giao lưu quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xây dựng một văn bản luật thay thế Pháp lệnh Bưu chính-Viễn thông ban hành năm 2002 là rất cần thiết để ngành viễn thông cải cách hành chính, phát huy nội lực, thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập tốt vào nền kinh tế quốc tế. Các đại biểu QH ghi nhận, ngành viễn thông là một trong những ngành kinh tế phát triển hiệu quả nhất trong những năm đổi mới vừa qua, doanh thu năm 2008 đạt 90 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 11 nghìn tỷ đồng, đặc biệt biến Việt Nam thành một quốc gia có hệ thống viễn thông hiện đại, theo kịp sự phát triển của thế giới. Ngày nay, người dân Việt Nam sử dụng rất hiệu quả các dịch vụ viễn thông, tăng thêm kiến thức, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Một số đại biểu QH lưu ý, vì viễn thông là một lĩnh vực kinh tế-kỹ thuật tổng hợp, phục vụ và tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng... đặc biệt "liên thông" trực tiếp các mạng viễn thông của nhiều quốc gia và quốc tế, cho nên, những quy định của dự luật, một mặt, sử dụng và khai thác tốt các nguồn lực trong nước để phát triển viễn thông, mặt khác, tiếp thụ khoa học-công nghệ mới của thế giới và tuân thủ các quy định và thông lệ của viễn thông quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Viễn thông quốc tế (ITU) và WTO. Về những vấn đề cụ thể, đại biểu QH cho rằng, phạm vi điều chỉnh của luật cần bao gồm việc khai thác và sử dụng internet. Nhiều đại biểu nhất trí với quy định "tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, kinh doanh viễn thông trong môi trường công bằng, minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh theo cơ chế thị trường định hướng XHCN". Trên thực tế, các mạng thông tin liên lạc phổ biến hiện nay như: điện thoại cố định, điện thoại di động, internet, phát thanh và truyền hình làm việc độc lập, nhưng với sự phát triển của công nghệ hội tụ đã cho phép các dịch vụ kể trên cùng hoạt động trên một hạ tầng kỹ thuật. Vì thế, đại biểu QH cho rằng cần có quy định rõ ràng, cụ thể về việc chia sẻ, sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, việc chia sẻ và sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông là không khả thi bởi thực tế mỗi đơn vị, doanh nghiệp thường sử dụng công nghệ và kế hoạch kinh doanh khác nhau. Có ý kiến đại biểu QH nhấn mạnh rằng, cần quản lý tốt hơn các tài nguyên viễn thông như kho số viễn thông, tên miền và địa chỉ internet; nhất là việc quản lý SIM điện thoại di động, không nên vì cạnh tranh, khuyến mại mà phát hành nhiều SIM, tạo nên số lượng khách hàng ảo, gây lãng phí. Có ý kiến nhấn mạnh: Bên cạnh việc tạo điều kiện cho hoạt động viễn thông phát triển, cho phép nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia, điểm đặc biệt coi trọng là nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông, do đó, cần ban hành các quy định về tiêu chuẩn chất lượng mạng lưới viễn thông, tiêu chuẩn dịch vụ viễn thông. Nếu nhà cung cấp dịch vụ viễn thông kém, phải bồi thường cho khách hàng sử dụng dịch vụ. Một số ý kiến đại biểu QH đề nghị dự thảo Luật Viễn thông cần quy định các chế tài xử phạt đủ mạnh đối với các hành vi trộm cắp sóng viễn thông, cáp viễn thông, lắp đặt trái phép các thiết bị viễn thông để thu lời. Việc quản lý Nhà nước về viễn thông, dự thảo luật quy định giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông, nhưng cũng có một số ý kiến đại biểu QH đề nghị nên cân nhắc, vì viễn thông là đơn vị chuyên ngành kỹ thuật. Theo Chương trình của kỳ họp, dự án Luật Viễn thông sẽ được tiếp tục thảo luận tại Hội trường để các đại biểu QH cho ý kiến.

 

SONG LINH và TRẦN ÐÌNH CHÍNH

(http://www.nhandan.com.vn/)

Các bài viết khác