Kinh tế - xã hội những tháng cuối năm 2024 - những vấn đề đặt ra và khuyến nghị
Biến đổi khí hậu đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường, kinh tế và xã hội, đặt ra thách thức lớn trong việc chung tay giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu. Trong bối cảnh đó, phát triển thị trường các-bon được xem là một giải pháp quan trọng để thúc đẩy các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần giúp các quốc gia và doanh nghiệp đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Thị trường các-bon mang lại nhiều cơ hội để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của công nghệ sạch và năng lượng tái tạo.
Tuy nhiên, sự thiếu hụt về khung pháp lý, hệ thống đo đạc, thông tin, dữ liệu, báo cáo và thẩm định (MRV), trang thiết bị, cũng như hạn chế về nhận thức của doanh nghiệp và cộng đồng vẫn là những rào cản chính. Để vượt qua thách thức, biến thách thức thành cơ hội, Việt Nam cần sớm thiết lập một hệ thống chính sách đồng bộ và xây dựng, hoàn thiện cơ chế vận hành thị trường các-bon, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào các dự án giảm phát thải và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Biến đổi khí hậu hiện là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại. Khí nhà kính (KNK), đặc biệt là CO₂, là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng ấm lên toàn cầu, từ đó gây ra biến đổi khí hậu, thiên tai và suy thoái môi trường. Để ứng phó với tình trạng này, các quốc gia đã cam kết giảm phát thải KNK, Thỏa thuận Paris năm 2015 là một “bước ngoặt lịch sử” nhằm giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới 2°C và hướng tới mục tiêu 1,5oC so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Giống như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam đang đối mặt với vấn đề phát thải KNK gia tăng đáng kể do tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), lượng phát thải CO₂ của Việt Nam đã tăng gấp 4 lần từ năm 2000 đến 2018, với lượng phát thải bình quân đầu người từ 0,79 tấn lên 3,81 tấn. Sự gia tăng này không chỉ góp phần tạo áp lực lên môi trường mà còn làm gia tăng tác động của biến đổi khí hậu đối với quốc gia.
Với sự nhận thức về trách nhiệm và vai trò của mình trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, Việt Nam đã cam kết giảm phát thải KNK và phấn đấu đạt mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có việc thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris [7]. Cam kết này không chỉ phản ánh nghĩa vụ quốc tế mà còn là sự cần thiết phải ứng phó với thực trạng phát thải ngày càng tăng của quốc gia, đồng thời bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Phát triển thị trường các-bon là một trong những giải pháp quan trọng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu này. Thị trường các-bon cung cấp cơ chế tài chính cho các doanh nghiệp và tổ chức mua bán tín chỉ các-bon, hạn ngạch phát thải KNK, từ đó thúc đẩy việc giảm phát thải và nghiên cứu, sản xuất năng lượng xanh, sạch. Với tiềm năng lớn về giảm phát thải KNK, trong đó có hoạt động sản xuất năng lượng tái tạo và sử dụng hiệu quả năng lượng, thị trường các-bon cũng mở ra cơ hội thu hút đầu tư quốc tế vào các dự án năng lượng tái tạo và công nghệ xanh cho Việt Nam, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Có thể thấy, phát triển thị trường các-bon không chỉ góp phần giúp Việt Nam phát triển bền vững mà còn nâng cao vai trò và trách nhiệm của quốc gia trong việc ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và đóng góp vào nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm giảm phát thải KNK và xây dựng thị trường trao đổi tín chỉ các-bon. Từ năm 2012, Đề án quản lý phát thải KNK và kinh doanh tín chỉ các-bon được ra đời, tạo nền tảng cho phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam [10]. Phát triển thị trường các-bon tiêp tục được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong Nghị quyết số 24-NQ/TW (2013), Kết luận số 56-KL/TW (2019), và Nghị quyết số 55-NQ/TW (2020), khẳng định vai trò quan trọng của thị trường các-bon trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và thúc đẩy tăng trưởng xanh.[1-3]
Quy định về thị trường các-bon trong nước chính thức được luật hóa tại điểm đ khoản 1 Điều 41 Luật Bảo vệ môi trường (2014). Luật Bảo vệ môi trường (2020) tiếp tục khẳng định một trong những nội dung giảm nhẹ phát thải KNK là tổ chức và phát triển thị trường các-bon trong nước (Điều 139) [8, 9]. Theo Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, lộ trình phát triển thị trường các-bon gồm giai đoạn chuẩn bị thí điểm từ năm 2025 và vận hành chính thức vào năm 2028. Thị trường này sẽ bao gồm hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ các-bon từ cơ chế trao đổi, bù trừ. Các cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê và sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải để mua bán trên thị trường [6].
Bên cạnh đó, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hoàn thiện dự thảo sửa đổi Nghị định 06/2022, điều chỉnh các quy định về kiểm kê, phân bổ hạn ngạch và tổ chức thị trường các-bon. Giai đoạn thí điểm sẽ áp dụng cho các ngành phát thải lớn như nhiệt điện, sắt, thép, xi măng, chiếm khoảng 45% tổng lượng phát thải KNK của cả nước. Bộ Tài chính cũng đang chủ trì xây dựng Đề án phát triển thị trường các-bon nhằm thực hiện cam kết giảm phát thải KNK theo Thỏa thuận Paris, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế các-bon thấp và thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.
Như vậy, việc phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam đang dần được hoàn thiện, với các cơ chế, chính sách và pháp luật rõ ràng, tạo nền tảng cho việc giảm phát thải KNK và phát triển kinh tế bền vững.
Hiện nay, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã triển khai thị trường các-bon với những mô hình khác nhau.
Liên minh châu Âu (EU) là khu vực tiên phong với Hệ thống giao dịch phát thải khí nhà kính (EU ETS) ra đời từ năm 2005 và đã trải qua bốn giai đoạn phát triển, chuyển dần từ phân bổ miễn phí sang đấu giá hạn ngạch phát thải, với tỷ lệ đấu giá hiện tại đạt 57%. EU cũng đang thảo luận việc giảm hạn ngạch miễn phí và giới thiệu Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) nhằm giảm rò rỉ các-bon [12, 13].
Trung Quốc sau 10 năm thí điểm đã chính thức vận hành thị trường các-bon quốc gia vào năm 2021, trở thành thị trường lớn nhất thế giới với quy mô quản lý 4,5 tỷ tấn CO2 từ ngành điện. Hệ thống này chủ yếu phân bổ hạn ngạch miễn phí nhưng dự kiến sẽ mở rộng đấu giá trong tương lai, với giới hạn bù trừ không vượt quá 5% lượng phát thải [12, 13].
Hàn Quốc cũng là một quốc gia tiên phong ở Đông Á với hệ thống K-ETS từ năm 2015, kết hợp giữa phân bổ miễn phí và đấu giá. Qua ba giai đoạn phát triển, Hàn Quốc đang giảm dần tỷ lệ phân bổ miễn phí và tăng đấu giá, đồng thời hạn chế việc sử dụng tín chỉ các-bon để bù trừ. [13]
Cơ chế giao dịch hạn ngạch phát thải của thị trường các-bon (ảnh minh hoạ)
Nhật Bản đã triển khai Chương trình tín chỉ J-Credit từ năm 2013, khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện tham gia giao dịch tín chỉ các-bon. Tuy nhiên, do tính thanh khoản thấp, Nhật Bản đã bắt đầu thí điểm giao dịch tín chỉ qua Sở Chứng khoán Tokyo từ năm 2022 và có kế hoạch chính thức ra mắt vào năm 2023.
Indonesia đã khởi động thị trường các-bon bắt buộc cho ngành Điện từ năm 2023, với mục tiêu mở rộng sang các ngành khác đến năm 2030, dựa trên cơ sở pháp lý từ Quyết định Tổng thống số 98/2021 [13].
Bang California (Hoa Kỳ) đã triển khai chương trình giao dịch phát thải từ năm 2013 qua bốn giai đoạn, mở rộng dần phạm vi áp dụng từ sản xuất điện và công nghiệp nặng sang lĩnh vực giao thông. Từ năm 2021, California đã giảm tỷ lệ bù trừ phát thải và áp dụng các công cụ quản lý thị trường để đảm bảo sự ổn định và hiệu quả trong quá trình giao dịch tín chỉ các-bon [12].
Những kinh nghiệm này giúp định hình và phát triển các thị trường các-bon toàn cầu, tạo cơ sở cho việc cắt giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Dựa trên nghiên cứu về kinh nghiệm tổ chức và phát triển thị trường các-bon của các khu vực và quốc gia trên thế giới, nổi bật là các khu vực, quốc gia nêu trên có thể thấy rằng hầu hết các quốc gia đều coi đây là công cụ chính sách quan trọng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển phát thải thấp. Các quốc gia đã áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau để xây dựng và quản lý thị trường các-bon của mình, từ những hệ thống quy mô lớn đến các chương trình tín chỉ các-bon tự nguyện. Dưới đây là một số bài học quan trọng mà Việt Nam có thể rút ra từ các mô hình quốc tế này:
Về chính sách: Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu như Luật Bảo vệ môi trường, các cơ chế tín chỉ như JCM và CDM. Tuy nhiên, cần hoàn thiện khung pháp lý toàn diện cho phát triển thị trường các-bon, tương tự như luật ở EU hoặc Hàn Quốc. Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tạo nền tảng pháp lý, nhưng Việt Nam cần sớm đưa ra yêu cầu giảm phát thải cho các lĩnh vực và áp dụng tiêu chí giảm phát thải bắt buộc khi phê duyệt các chương trình phát triển.
Về phạm vi và quy mô: Việt Nam nên xây dựng lộ trình cụ thể với các giai đoạn thí điểm và mở rộng quy mô dần dần, bắt đầu từ các ngành công nghiệp chính như thép, xi măng và sản xuất điện. Cấu trúc thị trường có thể từ đơn giản đến phức tạp, tùy thuộc vào sự sẵn sàng tham gia của các bên, khả năng quản lý của nhà nước. Những nước đang phát triển như Việt Nam có thể học hỏi từ các bước phát triển của các quốc gia khác và xây dựng lộ trình phù hợp.
Về tổ chức và vận hành thị trường: Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ các nước như Hàn Quốc trong việc tổ chức thị trường các-bon. Một vấn đề quan trọng là cách quản lý hạn ngạch phát thải và tín chỉ các-bon, liệu coi chúng là tài sản hay công cụ tài chính. Các quốc gia có cách tiếp cận khác nhau: EU coi hạn ngạch và tín chỉ là công cụ tài chính, áp dụng quy định chặt chẽ, trong khi Trung Quốc và Hàn Quốc linh hoạt hơn, coi chúng là tài sản doanh nghiệp. Việt Nam nên áp dụng cách tiếp cận linh hoạt, coi tín chỉ và hạn ngạch là tài sản doanh nghiệp.
Ngoài ra, giao dịch tín chỉ các-bon là loại hình trao đổi mới, đa ngành, cần sự tham gia của nhiều cấp, ngành và địa phương. Vì vậy, cần sớm thống nhất phân công, phân cấp, đặc biệt là việc chỉ định cơ quan đầu mối quốc gia về thị trường các-bon và cơ quan quản lý chất lượng tín chỉ và hạn ngạch phát thải.
Về hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV): Việt Nam cần xây dựng hệ thống MRV phù hợp với điều kiện quốc gia và các quy định quốc tế như UNFCCC. Quy trình MRV cần phải cụ thể cho các lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, và chất thải. Hệ thống MRV cấp quốc gia sẽ dựa trên phương pháp tiếp cận từ trên xuống, cho mục tiêu giảm nhẹ quốc gia và cần được thể hiện ở văn bản pháp lý tầm quốc gia như Nghị định và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trong khi hệ thống MRV cấp ngành sẽ dựa trên phương pháp từ dưới lên, hướng dẫn đo lường ở cấp độ dự án hoặc cấp ngành. Việc phân cấp các cách tiếp cận sẽ đem lại lợi ích là giúp lĩnh vực nào sớm xây dựng và sớm triển khai hệ thống MRV thì sớm được tham gia thị trường. Cần thực hiện triệt để xã hội hoá việc đo đạc, báo cáo, thẩm định và phân công cụ thể cơ quan đảm bảo chất lượng của hoạt động này.
Tại Việt Nam, việc giảm nhẹ phát thải KNK đã được triển khai qua các cơ chế tín chỉ các-bon như Cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế tín chỉ chung (JCM), và các cơ chế tín chỉ tự nguyện khác. Những nỗ lực này không chỉ góp phần vào cuộc chiến toàn cầu chống biến đổi khí hậu mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các cơ hội tài chính từ thị trường các-bon quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã đăng ký 258 dự án theo Cơ chế phát triển sạch (CDM), xếp thứ tư trên thế giới về số lượng dự án. Các dự án này đã đạt tổng lượng giảm phát thải khoảng 140 triệu tấn CO2 tương đương. Các doanh nghiệp tham gia đã bán hơn 4 triệu tín chỉ các-bon, tạo ra nguồn thu tài chính quan trọng giúp mở rộng sản xuất, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh [5]. Đối với Cơ chế tín chỉ chung (JCM), được triển khai từ năm 2013 trong chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản, hiện đã có 14 dự án được đăng ký với tiềm năng giảm phát thải khoảng 15.996 tấn CO2 mỗi năm. Trong số đó, 8 dự án đã đi vào hoạt động và được cấp tổng cộng 4.414 tín chỉ các-bon. Bên cạnh đó, nhiều dự án tự nguyện tại Việt Nam cũng đã được đăng ký theo các tiêu chuẩn quốc tế như Tiêu chuẩn Vàng (GS) và Tiêu chuẩn các-bon được thẩm tra (VCS). Cụ thể, 20 dự án đã được đăng ký theo tiêu chuẩn GS, với tổng số tín chỉ đạt hơn 3,27 triệu và 17 dự án theo tiêu chuẩn VCS với tổng lượng tín chỉ hơn 600.000 [4].
Tuy nhiên, thị trường các-bon tại Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động dưới dạng tự nguyện và thiếu sự hỗ trợ về pháp lý, cơ chế bù trừ và giao dịch trong nước.
Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển thị trường các-bon trong nước.
Có thể nhận thấy Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển thị trường các-bon trong nước. Thị trường này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế xanh, giúp giảm phát thải khí nhà kính (KNK) và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Bằng cách thiết lập các cơ chế giảm phát thải, Việt Nam có thể đáp ứng các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, đồng thời tạo cơ hội cho doanh nghiệp cải thiện quy trình sản xuất và áp dụng công nghệ sạch.
Ngoài ra, với tiềm năng phát triển các dự án năng lượng tái tạo và giảm phát thải, Việt Nam có thể trở thành nguồn cung cấp tín chỉ các-bon cho các nước phát triển, tạo ra nguồn thu ngoại tệ mới và việc làm. Chính phủ đã chủ động triển khai các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia, bao gồm ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính. Sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế cũng giúp Việt Nam xây dựng và vận hành thị trường các-bon hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia.
Bên cạnh đó, thị trường các-bon còn thúc đẩy phát triển công nghệ xanh, giúp Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên sang kinh tế dựa vào công nghệ và đổi mới. Ngoài ra, nó còn mở ra cơ hội hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, giúp Việt Nam tiếp cận các nguồn tài trợ và học hỏi từ kinh nghiệm toàn cầu.
Để khai thác tối đa tiềm năng này, Việt Nam cần tiến hành thêm các nghiên cứu chuyên sâu. Nhìn chung, thị trường các-bon không chỉ là công cụ giảm phát thải mà còn là cơ hội để Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập sâu hơn vào kinh tế toàn cầu.
Mặc dù có tiềm năng lớn để phát triển thị trường các-bon, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức chính:
Khung pháp lý chưa hoàn thiện và tiêu chuẩn chưa rõ ràng: Việt Nam chưa có tiêu chuẩn tín chỉ các-bon riêng, điều này khiến doanh nghiệp phải dựa vào các cơ chế quốc tế mà không có hướng dẫn cụ thể cho thị trường nội địa. Mặc dù đã có một số quy định ban đầu, các quy định chi tiết về giao dịch, định giá tín chỉ các-bon và xử lý vi phạm vẫn cần được cụ thể hóa hơn.
Đảm bảo thực hiện NDC: Quản lý tín chỉ các-bon nhằm thúc đẩy phát triển thị trường các-bon, đồng thời phải đảm bảo thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK quốc gia theo NDC, hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và đối tác tham gia.
Hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) chưa hiện đại: Hệ thống MRV tại Việt Nam còn chưa đạt chuẩn quốc tế, gây khó khăn trong việc theo dõi và xác minh lượng phát thải. Việc thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhân lực phù hợp và chính sách vận hành MRV là một rào cản lớn đối với sự triển khai hiệu quả của thị trường các-bon.
Nguồn lực hạn chế: Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực am hiểu về phát triển dự án các-bon và thẩm định tín chỉ còn thiếu. Để thúc đẩy thị trường các-bon, cần gia tăng đáng kể số lượng và chất lượng các đơn vị thẩm định, cùng với việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về lợi ích của thị trường này.
Nhu cầu giao dịch tín chỉ các-bon nội địa thấp: Nhu cầu nội địa về tín chỉ các-bon hiện chưa cao, với phần lớn nhu cầu đến từ doanh nghiệp quốc tế. Điều này tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nếu được hỗ trợ và định hướng phát triển thị trường nội địa.
Thiếu thông tin quản lý và điều chỉnh tương ứng chưa rõ ràng: Các hoạt động trao đổi tín chỉ các-bon quốc tế thường được thực hiện qua các thỏa thuận giữa các đối tác mà không qua sàn giao dịch, gây khó khăn trong việc quản lý và theo dõi thông tin. Mối liên hệ giữa thị trường các-bon tự nguyện quốc tế và thị trường quốc tế tuân thủ theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris cũng chưa rõ ràng, ảnh hưởng đến mục tiêu giảm phát thải quốc gia.
Tài chính và nguồn lực: Việc phát triển và đầu tư vào các dự án giảm phát thải đòi hỏi chi phí lớn, trong khi sự hỗ trợ tài chính từ Nhà nước và quốc tế còn hạn chế.
Như vậy, để phát triển mạnh mẽ thị trường các-bon trong nước, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp lý, nâng cao năng lực nhân sự, cải thiện hệ thống MRV, và tăng cường hỗ trợ tài chính.
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế và các bài học được đúc rút phù hợp với thực tế trong nước, để phát triển hiệu quả thị trường các-bon tại Việt Nam, một số đề xuất, kiến nghị chính như sau:
Thứ nhất, việc xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường các-bon là yếu tố cốt lõi để đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch, công bằng và hiệu quả. Việt Nam cần nhanh chóng ban hành các quy định pháp lý liên quan đến thị trường các-bon nội địa, bao gồm việc xác định rõ phạm vi và quy mô của tín chỉ các-bon, khung pháp lý về giao dịch tín chỉ và hạn ngạch phát thải KNK. Đồng thời, cần phải phát triển thị trường các-bon nội địa tương thích với thị trường các-bon thế giới để có thể thực hiện giao dịch ở cấp độ khu vực và toàn cầu. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia một cách có trách nhiệm và tuân thủ các quy định quốc tế. Đồng thời, cần phát triển sàn giao dịch tín chỉ các-bon nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán tín chỉ với cơ chế tài chính rõ ràng để đảm bảo tính thanh khoản và minh bạch của thị trường. Cũng cần hoàn thiện hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV), xây dựng các quy định rõ ràng và các cơ chế thực thi MRV để đảm bảo dữ liệu phát thải được đo lường chính xác và minh bạch.
Thứ hai, thúc đẩy hợp tác quốc tế là cần thiết. Việt Nam cần mở rộng hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm và nhận hỗ trợ tài chính, công nghệ. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, tham gia các cơ chế như CDM và JCM đã mang lại thành công lớn và việc duy trì, mở rộng các cơ chế này sẽ tiếp tục tạo ra nguồn tín chỉ có giá trị và thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Đồng thời, Việt Nam nên tham gia sâu hơn vào thị trường các-bon toàn cầu và kết hợp với các điều ước quốc tế như Thỏa thuận Paris.
Thứ ba, xây dựng năng lực cho các bên tham gia là rất quan trọng. Cần phát triển các đơn vị chuyên môn có khả năng thẩm định và đánh giá các dự án tín chỉ các-bon, đồng thời tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo để hiểu rõ về các cơ chế tín chỉ, cách thức vận hành và lợi ích của thị trường các-bon. Nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các chiến dịch truyền thông cũng cần được chú trọng, để tăng cường hiểu biết về tầm quan trọng của giảm phát thải KNK và vai trò của thị trường các-bon đối với sự phát triển bền vững.
Thứ tư, việc triển khai thí điểm thị trường các-bon nội địa có thể bắt đầu với một số ngành công nghiệp lớn như nhiệt điện, xi măng và sắt thép. Giai đoạn thí điểm sẽ giúp các bên tham gia làm quen với cơ chế hoạt động và chuẩn bị cho việc mở rộng thị trường trong tương lai. Những kinh nghiệm thu được từ giai đoạn thí điểm sẽ cung cấp dữ liệu quan trọng để điều chỉnh các chính sách và quy định cần thiết. Các ngành công nghiệp nặng có lượng phát thải lớn nên là mục tiêu chính trong giai đoạn thí điểm và Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc triển khai các dự án giảm phát thải và mua bán tín chỉ các-bon, hạn ngạch phát thải KNK, giai đoạn tiếp theo có thể mở rộng sang ngành lúa gạo và sử dụng chúng để bù đắp cho cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon – CBAM của EU.
Thứ năm, tăng cường cơ chế kiểm tra và giám sát để đảm bảo tính minh bạch và công bằng của thị trường. Các dự án tạo tín chỉ các-bon cần được thẩm định độc lập, đảm bảo rằng các tín chỉ phát hành có giá trị thực và không bị gian lận. Việc giám sát chặt chẽ các giao dịch tín chỉ các-bon sẽ giúp đảm bảo tính minh bạch của thị trường, ngăn chặn các hành vi đầu cơ hoặc thao túng giá cả. Đồng thời phải phát triển đầy đủ các chế tài xử phạt vi phạm để đảm bảo sự hình thành tín chỉ, hạn ngạch phát thải KNK hợp pháp và hiệu quả./.
|
TS. Tạ Đình Thi
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ
và Môi trường của Quốc hội
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2013), "Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường".
2. Bộ Chính trị (2019), "Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 20/8/2019 tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về đẩy mạnh chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường".
3. Bộ Chính trị (2020), "Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 11/2/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".
4. Bộ Tài chính (2024), "Dự thảo Báo cáo thuyết minh đề án phát triển thị trường các-bon tại việt nam".
5. Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2023), Triển khai hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon tại Việt Nam, truy cập ngày-5/9/2024, tại trang web https://monre.gov.vn/Pages/trien-khai-hoat-dong-giam-nhe-phat-thai-khi-nha-kinh-theo-co-che-trao-doi,-bu-tru-tin-chi-cac-bon-tai-viet-nam.aspx.
6. Chính phủ (2022), "Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn".
7. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (2021), Quốc tế ấn tượng với cam kết đạt phát thải ròng bằng '0' của Việt Nam, truy cập ngày-5/9/2024, tại trang web https://thutuong.chinhphu.vn/quoc-te-an-tuong-voi-cam-ket-dat-phat-thai-rong-bang-0-cua-viet-nam-10940309.htm.
8. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Bảo vệ Môi trường, chủ biên.
9. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam (2020), Luật Bảo vệ Môi trường, chủ biên.
10. Thủ tướng Chính phủ (2012), "Quyết định số 1775/QĐ - TTg ngày 21/11/2012 về việc Phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới".
11. World Bank Group (2022), "Việt Nam - Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển".
12. International Energy Agency (2024), Enhancing China’s ETS for Carbon Neutrality: Introducing Auctioning Lessons from international experience.
13. Một số thông tin, dữ liệu được tác giả nghiên cứu từ các hội nghị, hội thảo liên quan.