GÓC NHÌN: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XEM XÉT BÁO CÁO, GIẢI TRÌNH

02/12/2023

Một định hướng lớn trong hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội là tăng cường hoạt động báo cáo, giải trình, làm rõ trách nhiệm, tính minh bạch trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật. Cổng Thông tin điện tử Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội đối với hoạt động xem xét báo cáo, giải trình” của TS.Nguyễn Đình Quyền, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, ĐBQH khóa XII, XIII.

GÓC NHÌN: THÀNH CÔNG KỲ HỌP THỨ 6 - GÓP PHẦN THÚC ĐẨY HOÀN THÀNH CÁC NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI QUAN TRỌNG CỦA ĐẤT NƯỚC

GÓC NHÌN: KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHÓA XV - ĐỔI MỚI, TẬN TÂM, TRÁCH NHIỆM, GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ CẤP BÁCH, ĐÁP ỨNG MONG MỎI CỦA CỬ TRI

Công khai, minh bạch là một trong những tiêu chí của nhà nước pháp quyền, phương diện quan trọng của kiểm soát quyền lực nhà nước, là cơ sở để xác định tính đúng đắn, tuân thủ, chấp hành pháp luật trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ bảo đảm trách nhiệm công vụ, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng, tiêu cực…

Công khai, minh bạch là một công cụ quan trọng của kiểm soát quyền lực nhà nước phải được thực hiện đầy đủ ở tất cả các khâu trong quá trình quản lý nhà nước, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, cả trong hoạch định chính sách, pháp luật cũng như thi hành, tổ chức, thực hiện chính sách, pháp luật... kinh nghiệm thực tiễn thời gian qua cho thấy, cơ quan nào thực hiện tốt công khai, minh bạch, báo cáo, giải trình rõ, thấu đáo, minh bạch trách nhiệm công vụ trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn,trách nhiệm thì nơi đó hạn chế được vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng phát sinh và cũng là nơi có điều kiện sớm phát hiện ra những hành vi này để kịp thời xem xét, xử lý.

Công khai, minh bạch là cơ sở để các thiết chế kiểm soát quyền lực như Quốc hội có điều kiện cần thiết tiếp cận thông tin, phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động trên thực tế. Trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật, tất cả đều phải được công khai, minh bạch và trong trường hợp cần thiết cần phải được báo cáo giải trình một cách thấu đáo, thỏa đáng. Tình trạng thiếu trách nhiệm, lạm quyền, cố ý làm trái, tham nhũng, tiêu cực ,chạy chức, chạy quyền, mất dân chủ; cất nhắc, bổ nhiệm không đúng quy trình hoặc đúng quy trình nhưng không đúng tiêu chuẩn, không đúng người, đúng việc có nguyên nhân cơ bản từ việc thiếu công khai, minh bạch, thiếu sự báo cáo, giải trình làm rõ, thấu đáo trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật, tạo khoảng trống, kẻ hở cho vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm… phát sinh. Đồng thời, các thiết chế kiểm soát quyền lực cũng rất khó có điều kiện tiếp cận đầy đủ thông tin cần thiết để tiến hành các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát… để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh.

Công khai, minh bạch luôn luôn gắn liền với báo cáo, giải trình và trách nhiệm trong báo cáo, giải trình của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ trước Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, nhất là đối với những người giữ cương vị lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành là các thành viên của Chính phủ. Bởi vì không phải bất cứ điều gì trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đều có thể công khai, minh bạch được chẳng hạn như: nhận thức, mục đích, động cơ, khả năng xung đột lợi ích và những lợi ích… từ những quyết định, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước. Không phải ngẫu nhiên mà cách đây hàng trăm năm dưới thời vua Lê Thánh Tông, pháp luật đã quy định người dưới thiệu người khác làm quan triều đình phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình(Trong trường hợp này mục đích, động cơ, tính trong sáng của người giới thiệu rất khó công khai, minh bạch được, vì nó nằm trong ý chí của người đó, nên trong trường hợp cần thiết cần phải được tiến hành báo cáo, giải trình làm rõ). Chính vì lẽ đó, mà theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì báo cáo, giải trình luôn được coi là một trong những trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ trước Quốc hội.

Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân thì “giải trình là việc cơ quan, cá nhân hữu quan giải thích, làm rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo yêu cầu của chủ thể giám sát”.

Theo Luật phòng chống tham nhũng thì “trách nhiệm giải trình là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao”.

Như vậy, báo cáo, giải trình luôn gắn liền với việc minh bạch, công khai và trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ trước Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga chủ trì phiên giải trình về việc chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán người.

Một định hướng lớn trong hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội là tăng cường hoạt động báo cáo, giải trình, làm rõ trách nhiệm, tính minh bạch trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật . Hoạt động này sẽ góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa, ngăn chặn, cảnh báo từ sớm, từ xa những biểu hiện thiếu trách nhiệm, không trong sáng, “ lợi ích nhóm “, tiêu cực, tham nhũng có thể phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ, đồng thời cũng là điều kiện để các cơ quan chia sẻ cùng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thể chế, chính sách, pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao. Tăng cường trách nhiệm báo cáo, giải trình sẽ góp phần tăng cường tinh công khai, minh bạch, khách quan, trong sáng, tuân thủ, chấp hành pháp luật trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội qua phương thức xem xét báo cáo của Chính phủ và hoạt động giải trình cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, việc xét báo cáo phải được thảo luận, đánh giá trên hai giác độ: Giác độ thứ nhất là tính hệ thống, toàn diện, đầy đủ, chính xác, trung thực về những nội dung được nêu trong báo cáo hay nói khác đi là chất lượng của báo cáo được trình Quốc hội đã phản ánh một cách khách quan, trung thực, chính xác kết quả thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật chưa. Giác độ thứ hai, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính; vào nghị quyết của Quốc hội nghị quyết về kinh tế - xã hội và các nghị quyết khác có liên quan tới công tác này; vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và cả nhiệm kỳ; vào các định hướng chiến lược công tác thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật đã được nêu trong các văn kiện của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, Chương trình công tác của Chính phủ để đánh giá kết quả tổ chức thực hiện, việc tuân thủ và chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết và các văn bản pháp luật có liên quan của Chính phủ, trong đó phân tích rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót, yếu kém, vi phạm pháp luật và những nguyên nhân chủ quan, khách quan.

Trên cơ sở đó làm rõ được trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ. Để cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, toàn diện, khách quan cho Quốc hội thì pháp luật cần quy định rõ, cụ thể về những nội dung cơ bản mang tính bắt buộc mà các báo cáo của Chính phủ phải nêu, đề cập, cung cấp số liệu, phân tích, đánh giá, nhận định và đưa ra giải pháp, những tiêu chí cụ thể về chất lượng mà các báo cáo phải đạt được. Trong nhiều năm vừa qua, do pháp luật chưa quy định cụ thể về vấn đề này, nên nội dung được phản ánh, đề cập trong các báo cáo còn khá tùy tiện, chưa bảo đảm tính toàn diện, còn thiếu những thông tin cơ bản, cần thiết, không ít báo cáo vẫn chủ yếu thiên về nêu, liệt kê thành tích mà ít chú trọng đến việc phản ánh, phân tích, đánh giá, nhận định về những hạn chế, yếu kém, thiếu sót, vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật, nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém đó và trách nhiệm cũng như những giải pháp khắc phục. Nội dung, chất lượng của báo cáo là điều kiện cần và đủ, yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực,hiệu quả giám sát qua phương thức xét báo cáo. Đối với việc trình một dự án luật ra trước Quốc hội phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, theo đó các bước tiến hành cũng như những nội dung cơ bản, việc bảo đảm chất lượng của các dự án luật và tờ trình, các tài liệu khác kèm theo đều được pháp luật quy định cụ thể.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính báo cáo trước Quốc hội về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua.

Do đó, để nâng cao, bảo đảm chất lượng các báo cáo, bảo đảm cung cấp đầy đủ, toàn diện, chính xác, kịp thời thông tin cho các đại biểu Quốc hội trong việc xét báo cáo thì pháp luật cần bổ sung quy định về những nội dung cơ bản bắt buộc phải có của báo cáo, những nội dung cần có trọng tâm, đi sâu phản ánh, phân tích, đánh giá, nhận định, đặc biệt là những vấn đề mới, những vấn đề nổi bật, những hạn chế, yếu kém, vi phạm, giải pháp khắc phục, những căn cứ để xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ và mức độ trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; pháp luật cũng cần quy định cụ thể về những tiêu chí để đánh giá chất lượng của báo cáo làm cơ sở cho việc thẩm tra, thảo luận, cho ý kiến và ra nghị quyết.

Thứ hai, kinh nghiệm nhiều năm cho thấy, để chuẩn bị cho hoạt động thẩm tra các báo cáo của Chính phủ trình trước Quốc hội cần tổ chức các cuộc giám sát, khảo sát sâu, chuyên đề, lấy ý kiến, thu thập thông tin tại các địa phương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương, nhất là ở cơ sở về tình hình thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật ở các bộ, ngành, địa phương, tổ chức các phiên giải trình, làm rõ trách nhiệm; tăng cường tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, khởi kiện của công dân, phản ánh của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng… Đây là cơ sở thực tiễn hết sức quan trọng cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo cáo thẩm tra, nhất là việc đưa ra các phân tích, phản biện, đánh giá toàn diện, chuyên sâu về từng nội dung của báo cáo, tạo cơ sở đáng tin cậy để các đại biểu Quốc hội xem xét, đánh giá, xác định, làm rõ trách nhiệm, đồng thời hướng sự quan tâm, chú ý của các đại biểu vào những vấn đề trọng tâm, những vấn đề lớn ở tầm vĩ mô. Để nâng cao chất lượng tham mưu, tư vấn, tính phản biện của báo cáo thẩm tra thì cơ quan thẩm tra phải có cơ chế để tiếp cận, thu thập, cung cấp và xử lý thông tin một cách khoa học, đầy đủ, toàn diện từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ từ báo cáo của Chính phủ để bảo đảm tính khách quan, đối chứng, so sánh của thông tin. Phiên thẩm tra cần có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức hữu quan của Đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp … Nội dung thẩm tra không chỉ xem xét trách nhiệm trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật mà còn xem xét năng lực , hiệu lực, hiệu quả của công tác, việc tuân thủ, chấp hành pháp luật của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình.

Phải đề cao trách nhiệm, bản lĩnh, tính chủ động của các thành viên Hội đồng, Ủy ban trong việc phản biện làm rõ trách nhiệm, đồng thời thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà chuyên môn có kinh nghiệm, uy tín tham gia vào hoạt động thẩm tra để cung cấp các thông tin, đánh giá chuyên sâu những nội dung cần thiết được nêu trong các báo cáo.

Thứ ba, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các phiên thảo luận báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội, cần đổi mới mạnh mẽ công tác cung cấp và xử lý thông tin cho đại biểu Quốc hội , nhất là các đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách tại các bộ, ngành, địa phương. Vì một trong những rào cản làm hạn chế chất lượng, hiệu quả của việc thảo luận là không ít đại biểu còn thiếu thông tin liên quan đến việc xem xét, đánh giá, phản biện các nội dung được nêu trong báo cáo. Việc gửi tài liệu phục vụ kỳ họp, phiên họp không chỉ diễn ra ngay trước kỳ họp mà cần phải được thực hiện thường xuyên trong thời gian giữa hai kỳ họp ; có cơ chế để các đại biểu Quốc hội tiếp cận, sử dụng các chuyên gia, các nhà chuyên môn, nghiên cứu, tham mưu trợ giúp, phân tích, phản biện, đánh giá, xem xét các nội dung cần thiết được nêu trong các báo cáo để chuẩn bị phát biểu thảo luận, tranh luận ... Mỗi đại biểu, tùy thuộc vào vị trí công tác, chuyên môn, sự hiểu biết và những thông tin mà mình nắm rõ cần lựa chọn cho mình trọng tâm những vấn đề cần phát biểu, thảo luận. Cần thay đổi cơ bản cách thức thảo luận, phải chuyển mạnh từ cách thảo luận chỉ có tham luận sang phản biện, tranh luận về những vấn đề, góp phần tạo không khí sôi nổi trong phiên thảo luận, làm cho việc xem xét, phân tích, đánh giá, phản biện các nội dung báo cáo trở nên thực chất, hiệu quả hơn. Cải tiến cách điều hành thảo luận để tránh việc trùng lặp ý kiến của các đại biểu về cùng một vấn đề, cùng một quan điểm, cùng một sự kiện, tiết kiệm được thời gian dành cho việc thảo luận, tranh luận.

Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các phương thức giám sát, theo đó cần phải coi phương thức xét báo cáo là tiền đề, cơ sở quan trọng để triển khai hiệu quả các phương thức giám sát khác.

Thứ tư, cần ra nghị quyết riêng, độc lập đối với các lĩnh vực, các mặt quan trọng trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân hoặc Nội quy kỳ họp Quốc hội cần quy định cụ thể về những nội dung cơ bản , tiêu chí nhận định đánh giá báo cáo của nghị quyết, làm căn cứ thống nhất cho việc đánh giá mang tính làm rõ trách nhiệm một cách toàn diện, sâu sắc, cụ thể, rõ ràng, minh bạch về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, năng lực thực hiện, hiệu lực, hiệu quả hoạt động, việc chấp hành và tuân thủ pháp luật trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ. Trong nghị quyết cần nêu rõ những giải pháp cụ thể về việc thực hiện những lời hứa của Chính phủ trong việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, thiếu sót, vi phạm; xác định rõ thời gian, lộ trình và trách nhiệm trong việc thực hiện các giải pháp khắc phục đó.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát qua hoạt động giải trình thì cần hoàn thiện theo hướng:

Thứ nhất, để giải trình không chỉ phụ thuộc vào nhận thức, ý thức chủ quan của cơ quan tiến hành mà còn xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi khách quan đặt ra trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thì trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc và Hội đồng nhân dân cần nghiên cứu bổ sung quy định về những yếu tố, tiêu chí mà khi hội đủ thì Hội đồng dân tộc, các Ủy ban cần phải xem xét để tiến hành các phiên giải trình làm rõ trách nhiệm. Việc bổ sung này sẽ góp phần bảo đảm tính khách quan, thống nhất, tránh tùy tiện, chủ quan, duy ý chí hoặc thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các phiên giải trình, đồng thời cũng bảo đảm tính công khai, minh bạch, có căn cứ trong việc tiến hành.

Thứ hai, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giải trình thì công tác chuẩn bị có ý nghĩa quyết định đến chất lượng của công tác này. Theo đó, cần tiếp cận, thu thập, yêu cầu cung cấp thông tin cần thiết cho việc tiến hành phiên giải trình. Thông tin đó có thể thu thập từ các báo cáo kết quả công tác của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các cuộc tiếp xúc cử tri, qua hoạt động khảo sát thực tiễn, giám sát chuyên đề, chất vấn, hội thảo khoa học, lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, qua việc tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, qua hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, qua phản ánh của báo chí... , tổ chức các cuộc khảo sát thực tiễn, hội thảo khoa hoc, lấy ý kiến của các chuyên gia, kết nạp vào, các đối tượng chịu sự tác động của chính sách, pháp luật… Trên cơ sở đó, tổ chức nghiên cứu, phân tích, phản biện, tổng hợp các cơ sở dữ liệu, luận chứng, chuẩn bị các nội dung, câu hỏi phản biện, đối thoại, tranh luận phục vụ cho phiên giải trình.

Thứ ba, việc tiến hành giải trình có thể thực hiện theo kế hoạch hoặc đột xuất trên cơ sở yêu cầu khách quan, cấp thiết mà nhiệm vụ đặt ra. Mỗi cuộc giải trình phải xác định rõ về mục đích, yêu cầu, nội dung, phạm vi, tính chất và đối tượng giải trình, bảo đảm tính chủ động, tổ chức bài bản, công khai, minh bạch, khách quan...

Thứ tư, để bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức hoạt động giải trình thì Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cần bổ sung quy định về trình tự, thủ tục, phạm vi, những nội dung cơ bản, cách thức tiến hành, trách nhiệm của các bên và hậu quả pháp lý của hoạt động giải trình. Kế hoạch tổ chức, chủ đề, nội dung, thời gian, địa điểm, phạm vi vấn đề phải giải trình cần được gửi trước cho người có trách nhiệm giải trình trong thời hạn luật định; câu hỏi yêu cầu giải trình có thể được bổ sung trong quá trình tiến hành giải trình hoặc trong đối thoại, tranh luận tại phiên giải trình. Trong trường hợp cần thiết thì các nội dung này có thể được đăng tải công khai trên báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng hoặc phiên giải trình cũng có thể được họp kín trong trường hợp có những vấn đề liên quan đến bí mật nhà nước, quốc phòng, an ninh, chính sách đối ngoại...

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu chỉ đạo tại phiên giải trình về tình hình thị trường xăng dầu và kết quả thực hiện các nhiệm vụ giải pháp trong công tác quản lý nhà nước về xăng dầu do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức. 

Thứ năm, để bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch, đúng đắn trong hoạt động giải trình thì cần quy định rõ, cụ thể trách nhiệm của cơ quan chịu sự giám sát trong hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Theo đó các báo cáo, thông tin mà các cơ quan có trách nhiệm giải trình cung cấp phải kịp thời, chính xác, trung thực, đầy đủ, toàn diện theo yêu cầu của cơ quan tiến hành giải trình, phải chịu trách nhiệm về những thông tin, báo cáo đó; trong trường hợp liên quan đến những hạn chế, thiếu sót, yếu kém, vi phạm thì cần phân tích làm rõ trách nhiệm, mức độ trách nhiệm, nguyên nhân chủ quan, khách quan và các giải pháp để khắc phục.

Thứ sáu, việc lựa chọn chủ đề, vấn đề giải trình cần phải được chuẩn bị kỹ, sát với mục đích, yêu cầu đặt ra cho hoạt động giải trình. Thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ có phạm vi rất rộng lớn, trong khi thời gian dành cho hoạt động giải trình là không nhiều nên hoạt động giải trình cần xác định trọng tâm, trọng điểm những mặt công tác, những lĩnh vực thật sự bức xúc, cấp thiết phải làm rõ, đang đặt ra phải giải quyết, tránh ôm đồm, dàn trải và hình thức. Trong phiên giải trình cần tăng cường đối thoại, phản biện, tranh luận, trao đi đổi lại mang tính hợp tác để làm rõ những vấn đề mà Hội đồng, Ủy ban quan tâm, rõ sự thật khách quan, rõ những vấn đề liên quan đến trách , nhiệm và hướng tới việc đưa ra giải pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót, yếu kém, vi phạm hoặc hoàn thiện chính sách, pháp luật để đáp ứng các vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra.

Thứ bẩy, giải trình phải được gắn chặt và phối hợp chặt chẽ với phương thức giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật. Vì đây là cơ sở quan trọng trong việc tiếp cận thông tin, phát hiện và xử lý thông tin phục vụ đắc lực cho hoạt động giải trình. Trong quá trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều vấn đề cần được giải trình làm rõ để góp phần xác định chính xác, minh bạch những vấn đề liên quan đến sự thật khách quan đang được giải quyết. Muốn vậy, dân chủ, pháp chế trong hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được tăng cường trên mọi phương diện nhất là phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, công tâm, công bằng trong quá trình giải quyết.

Thứ tám, dân chủ là thiết chế cơ bản, quan trọng của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng là cái nôi của hoạt động giải trình. Một khi dân chủ còn hình thức thì khó có giải trình hiệu quả, khách quan, minh bạch được. Muốn dân chủ, giải trình được thực hiện một cách thực chất, đúng sự thật khách quan thì phải có những bảo đảm về mặt chính trị, pháp lý, tổ chức, nguồn nhân lực, chế độ trách nhiệm …và những bảo đảm khác về điều kiện tiến hành./.

                 TS.NGUYỄN ĐÌNH QUYỀN
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp
Đại biểu Quốc hội khoá XII, XIII