BÁO CÁO MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỚN TRONG GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG (SỬA ĐỔI)

14/08/2024

Tiếp tục Chương trình Phiên họp chuyên đề pháp luật, sáng 14/8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).

KHAI MẠC PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ PHÁP LUẬT THÁNG 8/2024 CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Toàn cảnh Phiên họp

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, trên cơ sở tổng hợp ý kiến thảo luận của các vị ĐBQH về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (sửa đổi), Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo (Bộ Tài chính) để tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật. Theo đó, nhiều nội dung đã được Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo thống nhất giải trình, tiếp thu và thể hiện cụ thể trong Báo cáo đầy đủ; đồng thời, báo cáo một số nội dung các Cơ quan còn có ý kiến khác nhau.

Về đối tượng không chịu thuế (Điều 5), có ý kiến đề nghị bỏ quy định đối với trường hợp không phải nộp thuế GTGT đầu ra nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào tại khoản 1 Điều 5 dự thảo Luật. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị bỏ quy định này tại khoản 1 Điều 5 dự thảo Luật. Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như quy định hiện hành vì cho rằng, quy định này đã phát huy tác dụng trong khắc phục tình trạng gian lận hoàn thuế giai đoạn vừa qua và hiện tại với hệ thống hoá đơn điện tử, cơ quan thuế vẫn khó có thể xác minh việc nộp thuế GTGT qua các khâu thương mại.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh

Về thuế suất 0%, Thường trực Ủy ban TCNS tiếp thu ý kiến ĐBQH, luật hoá một số trường hợp đang được quy định tại các Nghị định và đã được áp dụng ổn định, không có vướng mắc và bổ sung quy định là hàng hóa phải được xuất khẩu để bảo đảm sự chặt chẽ trong thực hiện; Đồng thời loại bỏ trường hợp hàng hóa mua bán giữa doanh nghiệp Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam và được thương nhân nước ngoài chỉ định giao, nhận hàng hóa với doanh nghiệp khác tại Việt Nam, không cho áp dụng thuế suất 0%.

Đối với dịch vụ xuất khẩu, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, Trong Thường trực Ủy ban TCNS có 2 luồng quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, về nguyên tắc, dịch vụ cung ứng cho các doanh nghiệp chế xuất không nên coi là dịch vụ xuất khẩu vì được tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, để tạo sự rõ ràng, thuận lợi trong thực hiện, hạn chế việc lợi dụng chính sách và phù hợp với thông lệ của nhiều nước, nhất trí với dự thảo của Chính phủ đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 (thể hiện tại Phương án 1).

Quan điểm thứ hai cho rằng, nếu đánh thuế GTGT với các dịch vụ cung ứng cho doanh nghiệp chế xuất thì cần có cơ chế cho các doanh nghiệp này được hoàn thuế GTGT đầu vào khi xuất khẩu hoặc bán sản phẩm vào thị trường trong nước. Điều này sẽ tạo ra gánh nặng lớn về thủ tục kê khai hoàn thuế và đặc biệt là chi phí về dòng tiền nộp thuế GTGT phát sinh cho các doanh nghiệp, nếu việc hoàn thuế không được thực hiện nhanh chóng. Với thực tế chậm chễ trong công tác hoàn thuế GTGT như hiện nay, việc sửa đổi Luật cần được cân nhắc thấu đáo. (thể hiện tại Phương án 2. Đa số ý kiến trong Thường trực Uỷ ban TCNS và Cơ quan soạn thảo thống nhất với phương án này).

Đại biểu tham dự Phiên họp

Về ý kiến đề nghị không chuyển phân bón và các máy móc thiết bị nông nghiệp từ diện không chịu thuế sang diện áp dụng thuế suất 5%, trong Thường trực Ủy ban TCNS có 2 luồng quan điểm: Quan điểm thứ nhất đề nghị giữ như quy định hiện hành vì thuế GTGT là thuế gián thu, người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng. Việc chuyển phân bón sang chịu thuế suất 5% thì người nông dân (ngư dân) sẽ chịu tác động lớn do giá phân bón sẽ tăng khi có thuế GTGT, dẫn đến tăng giá thành sản phẩm nông nghiệp, trái tinh thần khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo Nghị quyết số 19-NQ/TW. 

Quan điểm thứ hai thống nhất với nội dung dự thảo Luật và Cơ quan soạn thảo, vì Luật số 71/2014/QH13 đưa phân bón đang từ diện chịu thuế 5% sang diện không chịu thuế GTGT đã tạo ra sự bất cập lớn về chính sách, ảnh hưởng bất lợi cho ngành sản xuất phân bón trong nước trong suốt 10 năm qua; các doanh nghiệp đã không được hoàn thuế GTGT đầu vào (bao gồm cả chi phí đầu tư mua sắm tài sản), phải hạch toán vào chi phí, làm tăng chi phí và giá thành sản xuất, giá bán không thể cạnh tranh với phân bón nhập khẩu đang từ chịu thuế chuyển sang được miễn thuế.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Uỷ ban TCNS nghiêng về quan điểm thứ nhất. Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như dự thảo Luật đã trình tại Kỳ họp thứ 7. Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, Thường trực Uỷ ban TCNS sẽ chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật.

Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 14), có ý kiến đề nghị không cho phép bổ sung hồ sơ thuế đối với doanh nghiệp kê khai sai, sót khi đã có quyết định thanh tra, kiểm tra thuế. Thường trực Ủy ban TCNS xin tiếp thu như sau: Việc khai sai, sót thuế GTGT đầu vào có thể do bỏ sót hóa đơn hoặc khi làm tờ khai thuế GTGT người nộp thuế đã khai sai thừa hoặc thiếu thuế GTGT đầu vào, do đó, để bao quát các trường hợp, dự thảo Luật đã được chỉnh lý để không quy định đối với hóa đơn, chứng từ sai, sót mà quy định chung cho trường hợp số thuế GTGT đầu vào khi kê khai bị sai, sót; đồng thời, hoàn thiện dự thảo Luật để quy định rõ trường hợp nào phải thực hiện kê khai vào kỳ tính thuế phát sinh thuế GTGT đầu vào bị sai, sót và trường hợp nào thì phải thực hiện kê khai vào kỳ tính thuế phát hiện hiện sai, sót để giải quyết các vướng mắc trong thực tế. Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như dự thảo Luật đã trình tại Kỳ họp thứ 7.

Thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp

Đối với các trường hợp hoàn thuế đối với xuất khẩu, có ý kiến đề nghị cân nhắc sự cần thiết của việc bổ sung quy định cho phép hoàn thuế đối với các trường hợp hàng hoá nhập khẩu để xuất khẩu. Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, Luật Thuế GTGT hiện hành quy định không hoàn thuế đối với trường hợp “hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật hải quan” để phòng tránh các trường hợp gian lận. Đối với trường hợp hàng hoá không thực hiện xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan trên thực tế sẽ không thể mở tờ khai hải quan, theo đó trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ không thể đáp ứng điều kiện để được hoàn thuế; quy định này là không cần thiết trên thực tế, vì vậy, xin được bỏ nội dung này ra khỏi dự thảo Luật. 

Rà soát các trường hợp hàng hoá nhập khẩu để xuất khẩu (không được hoàn thuế) đang quy định tại văn bản dưới Luật, Thường trực Uỷ ban TCNS nhất trí với giải trình của Cơ quan soạn thảo về sự cần thiết đối với 03 trường hợp. Tuy nhiên, riêng đối với trường hợp “hàng hoá đã nhập khẩu sau đó làm thủ tục xuất khẩu sang nước khác”Cơ quan soạn thảo chưa làm rõ được tính hợp lý của quy định này.  Vì vậy, dự thảo Luật được chỉnh lý, thu hẹp diện không được hoàn thuế, theo đó, chỉ áp dụng việc không thực hiện hoàn thuế đối với trường hợp hàng hoá đã nhập khẩu sau đó làm thủ tục xuất khẩu sang nước khác để tránh các trường hợp gian lận hoàn thuế mà cơ quan thuế khó có thể xác minh ở khâu thương mại. Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như dự thảo Luật đã trình tại Kỳ họp thứ 7.

Lan Hương - Nghĩa Đức