03/04/2008 22:27

Từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4 năm 2008, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành phiên họp thứ bảy tại Hà Nội dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng.

Tham dự phiên họp có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, các Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải, Nguyễn Thiện Nhân; Thường trực Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và đại diện lãnh đạo các cơ quan, tổ chức hữu quan.

1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc chuẩn bị kỳ họp thứ ba, Quốc hội khoá XII

Trên cơ sở báo cáo của Văn phòng Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất về dự kiến chương trình kỳ họp thứ ba của Quốc hội. Dự kiến, tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ thông qua và cho ý kiến về 24 dự án luật; xem xét các báo cáo bổ sung về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2007; việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và ngân sách nhà nước năm 2008; các báo cáo về giám sát chuyên đề; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri; kết quả trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội và một số vấn đề quan trọng khác.

Dự kiến thời gian diễn ra kỳ họp vào tuần đầu tháng 5 năm 2008.

Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, tiếp tục chuẩn bị cho kỳ họp.

2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về 6 dự án Luật dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XII. Đó là: Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi); Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua khen thưởng; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xuất bản và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma tuý.

- Về dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi): Sau gần 10 năm thực hiện, Luật đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất trong nước; khuyến khích đầu tư, xuất khẩu; hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước; cơ bản đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đến nay, một số quy định trong Luật đã không còn phù hợp với thực tiễn, cần được sửa đổi để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường; góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng lành mạnh, bền vững; thống nhất và pháp điển hoá các văn bản về thuế giá trị gia tăng

- Về dự án Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi, bao gồm cả vấn đề trích lập phần lợi nhuận trước thuế hằng năm lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ): Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước, hệ thống pháp luật về thuế đã được chú trọng xây dựng, từng bước hoàn thiện; góp phần cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, động viên mọi nguồn lực tài chính vào ngân sách nhà nước. Mặc dù qua nhiều lần sửa đổi nhưng Luật hiện hành vẫn còn một số hạn chế nhất định cần được khắc phục kịp thời. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong quá trình cải cách hệ thống pháp luật về thuế, cần sửa đổi Luật để bao quát hết các đối tượng nộp thuế; các khoản thu nhập chịu thuế; đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong căn cứ tính thuế và đáp ứng kịp thời những yêu cầu thực tiễn đặt ra.

- Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự (phần liên quan đến lãi suất huy động và cho vay vốn của tổ chức tín dụng): Quy định về lãi suất vay trong Bộ luật dân sự hiện hành đến nay đã không phản ánh đúng thực tế quan hệ cung cầu của thị trường tín dụng, dẫn đến các ngân hàng, tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn trong bù đắp các chi phí để kinh doanh có lãi. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung quy định về lãi suất trong Bộ luật là cần thiết nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

- Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng: Thi đua, khen thưởng đóng vai trò quan trọng tạo động lực, khuyến khích toàn dân, mọi cá nhân, tổ chức thi đua góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, Luật hiện hành đã bộc lộ những bất cập trong quy định tiêu chuẩn một số hình thức khen thưởng. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật là cần thiết để công tác khen thưởng, kỷ luật đúng người, đúng công việc, công bằng, minh bạch; thể hiện tính giáo dục, động viên cao; phát huy sức sáng tạo từ cơ sở, quần chúng nhân dân

- Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xuất bản: Luật hiện hành được Quốc hội thông qua năm 2004. Đến nay, sau gần 3 năm thi hành, Luật đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất bản, tạo bước ngoặt mới cho sự phát triển của ngành. Tuy nhiên, với việc gia nhập công ước Berne và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một số quy định của Luật đã không còn phù hợp với những cam kết quốc tế trong lĩnh vực này. Đồng thời, việc chuyển đổi chức năng quản lý nhà nước đối với một số Bộ, ngành theo cơ cấu tổ chức mới của Chính phủ cũng đặt ra yêu cầu thay đổi tên gọi của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xuất bản trong Luật. Do đó, cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.

- Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma tuý: Luật hiện hành được Quốc hội thông qua năm 2000, qua gần 7 năm thực hiện, công tác phòng, chống ma tuý đã thu được một số kết quả. Tuy nhiên, tệ nạn ma tuý còn nhiều diễn biến phức tạp và nghiêm trọng. Hiệu quả hoạt động giảm cung, giảm cầu và giảm tác hại trong phòng, chống ma tuý còn hạn chế; hệ thống pháp luật về hoạt động này chưa đồng bộ. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật là nhằm quyết tâm thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quốc hội; kiên quyết xử lý kiên trì, lâu dài, đồng bộ và thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước

3. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về 3 dự án Luật dự kiến cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XII. Đó là: Luật dầu khí (sửa đổi); Luật đa dạng sinh học; Luật công nghệ cao.

- Về dự án Luật dầu khí (sửa đổi): Thực tế phát triển ngành dầu khí trong những năm qua đã nảy sinh một số bất cập cần sớm được khắc phục như: việc gia hạn hợp đồng dầu khí trong trường hợp đặc biệt; vướng mắc trong đấu thầu hợp đồng dịch vụ dầu khí; thẩm quyền quản lý nhà nước về dầu khí… Trước tình hình đó, việc sửa đổi Luật nhằm đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước đối với ngành kinh tế đặc biệt nhạy cảm và quan trọng này.

- Về dự án Luật đa dạng sinh học: Nhằm thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học; đồng thời tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam về đa dạng sinh học với các điều ước quốc tế có liên quan đòi hỏi phải ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao; điều chỉnh thống nhất, toàn diện các vấn đề liên quan đến bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học. Việc ban hành Luật còn tạo cơ sở pháp lý trong khai thác, sử dụng hợp lý đa dạng sinh học, cải thiện và ổn định cuộc sống người dân trong bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học, góp phần phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

- Về dự án Luật công nghệ cao: Công nghệ cao là công nghệ được tích hợp từ các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, có khả năng tạo ra sự đột biến về năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hoá, tạo ra các tính năng mới, ngành nghề mới có tính cạnh tranh cao. Công nghệ cao có tác động lan toả tới mọi lĩnh vực, tạo nên các ngành công nghiệp tăng trưởng hoàn toàn mới, vượt bậc và chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong thương mại nội địa và quốc tế. Tuy nhiên, để ứng dụng và phát triển công nghệ cao là một quá trình đầy khó khăn, thách thức; đặc biệt là với những nước nghèo, chậm phát triển, thiếu vốn, trình độ khoa học và công nghệ thấp. Nhằm thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, thì việc ban hành Luật công nghệ cao là cần thiết và mang tính chiến lược; góp phần làm chủ công nghệ; tạo điều kiện cho “đi tắt, đón đầu”; tiếp thu sáng tạo những thành tựu do công nghệ cao mang lại

4. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội

Thực hiện quy định của pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội giữa hai kỳ họp Quốc hội; đồng thời để tăng cường công tác giám sát thực hiện các nghị quyết, quyết định của Quốc hội; đảm bảo hoạt động chất vấn thường xuyên; kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc, nóng hổi, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ tài chính, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chánh án toà án nhân dân tối cao. Phiên chất vấn diễn ra trong một ngày tập trung vào tình hình giá cả thị trường tăng cao, các giải pháp kiềm chế lạm phát; giải pháp vĩ mô trong công tác quản lý hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá; việc thi công và công tác quản lý Dự án giao thông, thuỷ lợi Ô Môn-Xà No; tình hình giá cả vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng cao; các giải pháp khắc phục; trình độ, năng lực đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp; phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm phán để đáp ứng yêu cầu công tác xét xử; vai trò và trách nhiệm của Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành đất nước…

Uỷ ban thường vụ Quốc hội đánh giá cao phiên chất vấn đã đạt mục đích, yêu cầu đề ra; được dư luận và nhân dân cả nước hoan nghênh. Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến sẽ tiếp tục thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn tại các phiên họp tiếp theo giữa các kỳ họp Quốc hội.

5. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nghe báo cáo kết quả chuyến thăm và làm việc của Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Việt Nam tại các nước Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc.

6. Cũng tại phiên họp này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; cho ý kiến về dự thảo Quy chế hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của Quốc hội (sửa đổi), Nghị quyết về triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Quốc hội từ năm 2000 đến nay, định hướng phát triển trong thời gian tới để Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua tại phiên họp thứ tám vào tháng 4 năm 2008, Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về tiến độ xây dựng Nhà Quốc hội và cho ý kiến về một số vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội

(Văn phòng Quốc hội)