Sửa đổi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để bảo vệ người dân tốt hơn và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 17/11/2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 (Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010). Trong gần 12 năm thực thi, các quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn Luật đã góp phần thay đổi mạnh mẽ công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời, kiến tạo các khung khổ, nền tảng cơ bản vững chắc để tiếp tục tạo dựng sự phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, nhu cầu cấp thiết về kịp thời thể chế hóa quan điểm chủ trương của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Hiến pháp 2013; để phù hợp với sự thay đổi của bối cảnh kinh tế - xã hội, xu hướng hội nhập quốc tế; trên cơ sở nhận diện những hạn chế, bất cập sau 12 năm ban hành, tổ chức thực hiện các quy định hiện hành cho thấy Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cần được sửa đổi, bổ sung.
Theo Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, dự án Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) sẽ được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trong Phiên họp tháng 8 để trình Quốc hội đóng góp ý kiến ở Kỳ họp thứ 4 tới.
Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật Đồng Ngọc Ba - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định.
Thay mặt Ủy ban Pháp luật, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật Đồng Ngọc Ba cho biết, Ủy ban tán thành với sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khắc phục những bất cập, vướng mắc phát sinh qua quá trình thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2011, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; bảo đảm thích ứng với môi trường kinh doanh mới và đáp ứng các yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế và các cam kết quốc tế.
Ủy ban Pháp luật nhận thấy, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu”, Chỉ thị số 30-CT/TW của Ban Bí thư đã đề ra một số chủ trương, chính sách cụ thể cần phải được thể chế hóa đầy đủ trong dự thảo Luật. Do đó, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện, thể hiện rõ nét hơn nữa các chủ trương, chính sách này trong dự thảo Luật. Ví dụ như hoàn thiện các chế tài đủ răn đe đối với những hành vi sai phạm ảnh hưởng đến quyền lợi, sức khỏe, tính mạng..., nhất là đối với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; từng bước xây dựng và phát triển các cơ chế thuận tiện, dễ dàng tiếp cận để hỗ trợ người tiêu dùng có thể nâng cao khả năng tự bảo vệ.
Về bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo Luật, cơ bản dự thảo Luật phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, Ủy ban Pháp luật cho rằng, dự án Luật liên quan đến nhiều quy định của pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật An toàn thực phẩm... Một số dự án luật đang chuẩn bị trình Quốc hội như dự án Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) nên đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát để bảo đảm tính hợp pháp, tính thống nhất và khả thi, đồng bộ của dự thảo Luật với các luật và dự thảo Luật có liên quan.
Về bảo vệ thông tin của nguời tiêu dùng và sử dụng thông tin của người tiêu dùng (các điều 8, 9, 10, 11, 12 và 13): Khoản 1 Điều 8 của dự thảo Luật bổ sung quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh “ủy quyền, thuê bên thứ ba thực hiện việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, chỉnh sửa, cập nhật, hủy bỏ thông tin của người tiêu dùng”. Để thực hiện việc ủy quyền, thuê này, Điều 8 chỉ quy định trách nhiệm giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh và bên được ủy quyền, được thuê trong việc thỏa thuận bằng văn bản về phạm vi, trách nhiệm của mỗi bên trong việc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng. Ủy ban Pháp luật nhận thấy, quy định này chưa bảo đảm chặt chẽ trong bảo vệ thông tin của người tiêu dùng bởi các lý do sau:
Thứ nhất, Điều 8 không quy định về việc tổ chức, cá nhân kinh doanh phải được sự đồng ý của người tiêu dùng khi thông tin của họ được thu thập, lưu trữ, sử dụng thông qua bên thứ ba. Như vậy, có khả năng người tiêu dùng không biết được thông tin cá nhân của họ có thể do một bên thứ ba, ngoài tổ chức, cá nhân kinh doanh nắm giữ.
Thứ hai, Khoản 1 Điều 10 chỉ quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thông báo cho người tiêu dùng về mục đích, phạm vi thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng. Khoản 2 Điều 11 quy định việc sử dụng thông tin của người tiêu dùng được quy định trong Luật này bao gồm cả việc chia sẻ, tiết lộ và và chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba. Tuy nhiên, quy định tại Điều 8 không phải là việc chuyển giao thông tin, mà là việc thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin của người tiêu dùng được thực hiện thông qua bên thứ ba, do đó, không thuộc phạm vi tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thông báo trước và được sự đồng ý của người tiêu dùng. Hơn nữa, phạm vi ủy quyền, thuê bên thứ ba quy định tại Điều 8 là rất rộng, bao gồm cả việc “sử dụng thông tin”. Do đó, khó có thể kiểm soát việc bên thứ ba tiếp tục chia sẻ, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho các chủ thể khác.
Về các hành vi bị cấm (Điều 17): Điều 17 của dự thảo Luật gồm 4 khoản quy định về 24 nhóm hành vi bị cấm, bổ sung nhiều hành vi so với quy định của Luật hiện hành. Ủy ban Pháp luật cơ bản tán thành việc cụ thể hóa các hành vi bị nghiêm cấm làm cơ sở cho việc áp dụng các chế tài pháp lý phù hợp, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi nguời tiêu dùng. Tuy nhiên, cần rà soát kỹ các hành vi bị nghiêm cấm này để vừa bảo đảm thực hiện mục tiêu của Luật, vừa phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật dân sự. Cụ thể, tại điểm o khoản 1 Điều 17 quy định hành vi bị cấm là “yêu cầu người tiêu dùng phải mua sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ khác như là điều kiện tiên quyết để giao kết hợp đồng với người tiêu dùng”.
Ủy ban Pháp luật cho rằng, điểm này không xác định hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh là cưỡng ép hay ép buộc người tiêu dùng phải giao kết với mình mà chỉ là việc một bên nêu yêu cầu là điều kiện để thực hiện giao dịch. Đây là sự thể hiện tự do ý chí và tự định đoạt của mỗi bên trong giao dịch dân sự, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh lợi dụng hoàn cảnh khó khăn, thiên tai, dịch bệnh… để buộc người tiêu dùng phải đáp ứng điều kiện. Hơn nữa, việc một bên yêu cầu về điều kiện phát sinh giao dịch là quyền dân sự quy định tại Điều 120 của Bộ luật Dân sự về giao dịch dân sự có điều kiện, cụ thể là: “1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.”. Do đó, đề nghị chỉnh lý quy định tại điểm o khoản 1 Điều 17 cho phù hợp.
Về vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục rút gọn (khoản 2 Điều 70 và Điều 78): Khoản 2 Điều 70 của dự thảo Luật quy định: “Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện; b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”. Đồng thời, Điều 78 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 317 của Bộ luật Tố tụng dân sự như sau: “5. Các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được áp dụng thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 70 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.”.
Ủy ban Pháp luật nhận thấy, các điều kiện để vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục rút gọn trong dự thảo Luật về cơ bản vẫn giữ nguyên các tiêu chí quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện hành. Tuy nhiên, theo Báo cáo đánh giá tác động chính sách trong xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) thì từ năm 2017 đến 2019, không có vụ việc nào được áp dụng thủ tục rút gọn; Báo cáo cũng chưa đề cập nguyên nhân của tình trạng này và cũng không đề xuất giải pháp khắc phục.
Theo đại biểu Đồng Ngọc Ba, đối chiếu với quy định về các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn tại Điều 317 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Ủy ban Pháp luật nhận thấy các quy định nêu trên của dự thảo Luật chưa thực sự rõ ràng, chặt chẽ để có cơ sở áp dụng thủ tục rút gọn, ví dụ: Bộ luật Tố dụng dân sự quy định điều kiện là “tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ”, dự thảo Luật chỉ quy định điều kiện “vụ án đơn giản”, nhưng không có tiêu chí thế nào là đơn giản; quy định điều kiện là “chứng cứ rõ ràng” nhưng không rõ Tòa án có phải thu thập thêm chứng cứ thì mới bảo đảm cơ sở xét xử không; Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài…” nhưng dự thảo Luật không có điều kiện này. Do đó, nếu phải xác minh tình tiết vụ án ở nước ngoài thì không thể bảo đảm thời gian xét xử trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định thụ lý theo quy định tại Điều 318 của Bộ luật Tố tụng dân sự được. Hơn nữa, dự thảo Luật lấy căn cứ giá trị giao dịch là dưới 100 triệu đồng, tuy nhiên, dù có thể giao dịch ở mức đó nhưng thiệt hại gây ra lớn hơn gấp nhiều lần, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau cần phải xác minh, làm rõ thêm… thì việc áp dụng thủ tục rút gọn trong một số trường hợp là không khả thi. Do đó, Ủy ban Pháp luật đề nghị chỉnh lý quy định tại khoản 2 Điều 70 và Điều 78 của dự thảo Luật cho phù hợp.
Về khái niệm Người tiêu dùng (Điều 3): Khoản 1 Điều 3 của dự thảo Luật quy định: “1. Người tiêu dùng là cá nhân mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình và không vì mục đích thương mại”. Ủy ban Pháp luật nhận thấy, theo Báo cáo đánh giá tác động chính sách thì “thực tế cho thấy, phần lớn các tổ chức không thực hiện hành vi mua, bán với mục đích tiêu dùng hoặc nếu có thì các cơ quan, tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng gặp nhiều khó khăn, phát sinh nhiều thời gian, nguồn lực để có thể xác định rõ mục đích này”. Do đó, Báo cáo đánh giá tác động chính sách đã đề xuất phương án sửa đổi khái niệm người tiêu dùng theo hướng là cá nhân thực hiện giao dịch cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình và không bao gồm tổ chức vì cho rằng, so với người tiêu dùng cá nhân thì người tiêu dùng tổ chức là chủ thể có tương quan cân bằng với bên bán trong việc thực hiện giao dịch mua bán; đồng thời, quy định như vậy cũng phù hợp với kinh nghiệm và xu hướng quốc tế.
Ủy ban Pháp luật cho rằng, so với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện hành, dự thảo Luật có thay đổi lớn về khái niệm Người tiêu dùng. Theo đó, người tiêu dùng chỉ là cá nhân mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình mà không bao gồm tổ chức mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức. Ủy ban Pháp luật đề nghị cần điều chỉnh cả tiêu dùng (không nhằm mục đích thương mại) của tổ chức vì các lý do:
Thứ nhất: Quy định người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện hành là sự kế thừa của Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999.
Thứ hai: Để triển khai thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, từ năm 2011 đến nay, các cơ quan nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần phải có công cụ, phương pháp để xác định rõ mục đích thực hiện hành vi mua, bán hàng hóa của tổ chức.
Thứ ba: Không phải lúc nào pháp nhân cũng là chủ thể đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất, kinh doanh. Nếu Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng này trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.
Thứ tư: Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước cũng quy định về vấn đề này rất khác nhau. Bên cạnh đó, có ý kiến trong Ủy ban Pháp luật tán thành với khái niệm Người tiêu dùng chỉ là cá nhân như quy định của dự thảo Luật với những lý do đã nêu trong Tờ trình và Báo cáo đánh giá tác động chính sách.
Về giải thích hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung (Điều 24): Điều 24 quy định: “Trong trường hợp hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung thì tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng”. Chúng tôi nhận thấy, quy định này có thể được hiểu chỉ tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mới được giải thích hợp đồng theo quy định tại Điều 24 dẫn đến hạn chế quyền của các bên tranh chấp, đặc biệt là người tiêu dùng trong việc áp dụng quy định về giải thích hợp đồng để bảo vệ quyền lợi của mình trong thương lượng, hòa giải. Do đó, đề nghị sửa lại Điều này như sau: Trong trường hợp hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung thì hợp đồng, điều kiện giao dịch chung được giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.”.
Về điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực (Điều 25): Điều 25 quy định 15 trường hợp mà điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực. So với Luật hiện hành, dự thảo Luật bổ sung nhiều trường hợp cụ thể, trong đó có quy định “các trường hợp khác do cơ quan giải quyết tranh chấp xác định dựa trên các nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều này” (điểm p khoản 2 Điều 25). Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng bỏ dẫn chiếu tại khoản 2 Điều 16 của Luật hiện hành về việc “2. Việc tuyên bố và xử lý điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự”. Ủy ban Pháp luật đề nghị giữ lại khoản 2 Điều 16 của Luật hiện hành để minh bạch, thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật. Đồng thời, đề nghị bỏ quy định tại điểm p khoản 2 Điều 25 của dự thảo Luật bởi vì các lý do sau:
Thứ nhất: Các nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 25 của dự thảo Luật mang tính chất định tính, không cụ thể, do đó, việc giao cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp can thiệp vào sự tự do ý chí của các bên (thông qua hợp đồng đã được giao kết) không căn cứ vào quy định cụ thể của Luật mà chỉ căn cứ trên các nguyên tắc chung đó là chưa bảo đảm chặt chẽ, khả thi.
Thứ hai: Trường hợp dự thảo Luật cần có quy định mang tính chất bao quát hơn các trường hợp điều khoản của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực, đề nghị dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 405 và khoản 3 Điều 406 của Bộ luật Dân sự đã có quy định: Trường hợp hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên cạnh đó, Ủy ban Pháp luật nhận thấy, việc quy định điều khoản bất lợi cho người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực là phù hợp vì các hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung thường do bên tổ chức, cá nhân kinh doanh đơn phương đưa ra để bên kia chấp thuận. Việc áp dụng quy định này vào các hợp đồng giao kết với người tiêu dùng nói chung, đề nghị cần phải nghiên cứu thận trọng, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật Dân sự.
Về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch đặc thù với tổ chức, cá nhân kinh doanh (Chương III): Khoản 3 Điều 39 về giao kết hợp đồng trong giao dịch từ xa quy định: trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh không cung cấp chính xác, đầy đủ thông tin quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng, người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng giao kết hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tuyên hợp đồng vô hiệu hoặc tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và thông báo cho cá nhân, tổ chức kinh doanh.
Đại biểu Đồng Ngọc Ba cho biết, Ủy ban Pháp luật đề nghị chỉnh lý lại quy định này cho chặt chẽ, bởi vì: (1) Quy định như dự thảo Luật có thể gây nên cách hiểu sau 30 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng, người tiêu dùng không có quyền đơn phương chấm dứt, đề nghị tuyên vô hiệu hoặc hủy bỏ hợp đồng dù thông tin được cung cấp không đầy đủ, chính xác, thậm chí có thể tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi lừa dối trong cung cấp thông tin dẫn đến người tiêu dùng hiểu sai lệch về chất lượng sản phẩm; (2) Việc quy định quyền đơn phương chấm dứt, đề nghị tuyên vô hiệu hoặc hủy bỏ hợp đồng của người tiêu dùng chỉ trong 30 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng cũng không bảo vệ tốt quyền lợi của người tiêu dùng, vì có thể trong 30 ngày đó, người tiêu dùng không phát hiện việc thông tin cung cấp không chính xác, đầy đủ, dẫn đến không thực hiện được quyền của mình trong thời hạn Luật định.
Về trách nhiệm của Bộ Công Thương (Điều 75): Khoản 2 Điều 75 của dự thảo Luật quy định Bộ Công Thương có trách nhiệm: “… b) Ban hành quy chế giám sát việc thực thi công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực công thương;… e) Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch đặc thù với tổ chức, cá nhân kinh doanh”.
Ủy ban Pháp luật nhận thấy, dự thảo Luật chưa xác định nội hàm của hoạt động “giám sát việc thực thi công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, do đó, việc giao cho Bộ Công Thương ban hành quy chế này là chưa thuyết phục về sự cần thiết cũng như chưa rõ nội dung quản lý nhà nước, có thể gây chồng chéo với hoạt động giám sát của các chủ thể khác trong hệ thống chính trị.
Về việc giao trách nhiệm cho Bộ Công Thương trong việc “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch đặc thù với tổ chức, cá nhân kinh doanh”: Ủy ban Pháp luật cho rằng, các giao dịch đặc thù có thể thuộc nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau, khi xảy ra tranh chấp, nhiều cơ quan, tổ chức có thể tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, trong đó không chỉ có Bộ Công thương mà còn các Bộ, ngành khác, các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan tư pháp, các tổ chức xã hội… Do đó, việc giao cho Bộ Công Thương nhiệm vụ “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch đặc thù với tổ chức, cá nhân kinh doanh” là chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ và thực tiễn quản lý. Vì vậy, đề nghị chỉnh lý lại quy định này cho chính xác, chặt chẽ./.