Thường trực Ủy ban Xã hội thẩm tra sơ bộ báo cáo của Chính phủ về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2024
Cải thiện điều kiện sống, nâng cao khả năng tiếp cận nguồn lực hỗ trợ
Vừa qua, Thường trực Ủy ban Xã hội đã thẩm tra sơ bộ báo cáo của Chính phủ về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2024. Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết, năm 2024, Chương trình góp phần thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo trên 1%, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3% (riêng các huyện nghèo, giảm tỷ lệ nghèo từ 4-5%). Chương trình tập trung hỗ trợ người nghèo, người dân sinh sống vùng nghèo, vùng khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, có việc làm, sinh kế bền vững và nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các địa phương vùng “lõi nghèo”, vùng Tây Nguyên, các tỉnh phía Tây của Tổ quốc, vùng nghèo, vùng khó khăn thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn góp phần giảm nghèo bền vững. Việc tiếp tục thực hiện Chương trình góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, giữ vững ổn định xã hội, an ninh chính trị ở các địa bàn khó khăn, vùng “lõi nghèo”, khu vực trọng yếu trên phạm vi cả nước.
Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh
Người nghèo đã được cải thiện một bước về điều kiện sống, tiếp cận tốt hơn các chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng cho phát triển kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập. Một số nhu cầu xã hội thiết yếu của người nghèo cơ bản được đáp ứng (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin…). Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng tại các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được đầu tư đồng bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Về lâu dài, kết quả thực hiện Chương trình năm 2024 và tác động của Chương trình sẽ giúp người nghèo có cơ hội tự vươn lên thoát nghèo bền vững, vượt lên mức sống tối thiểu, tự giải quyết được vấn đề nghèo đói cũng như những nhu cầu thiết yếu của gia đình mà không trông chờ ỷ lại vào sự trợ giúp của cộng đồng và Nhà nước; giúp các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn.
Tuy nhiên, trong triển khai chương trình vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: công tác rà soát, xây dựng, ban hành một số quy định về quản lý, tổ chức thực hiện Chương trình theo quy định tại Điều 40 Nghị định số 27/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 38/2023/NĐ-CP) và Nghị quyết số 111/2024/QH15 tại một số địa phương còn chậm. Số lượng văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình lớn. Đến nay, còn một nội dung chưa được hướng dẫn (đối tượng “người lao động có thu nhập thấp” thực hiện Tiểu dự án 1 Dự án 4) và còn một nội dung vướng mắc về đối tượng thụ hưởng Tiểu dự án 1 Dự án 6. Việc phân bổ vốn của một số địa phương còn chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ thời gian.
Toàn cảnh cuộc họp
Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn gặp khó khăn trong cân đối nguồn lực đối ứng từ ngân sách địa phương thực hiện các dự án, tiểu dự án thành phần thuộc Chương trình. Một số địa phương đề xuất, phê duyệt danh mục một số dự án đầu tư còn dàn trải, manh mún, trùng lắp, chưa đúng mục tiêu của Chương trình là đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Việc lồng ghép nguồn vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia và quy trình thanh quyết toán trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo còn lúng túng.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, kết quả giảm nghèo tuy đạt mục tiêu nhưng chưa bền vững do người dân dễ rơi vào tình trạng tái nghèo vì các lý do khách quan (ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt...); tỷ lệ hộ nghèo chênh lệch giữa các vùng miền còn cao, đặc biệt là các vùng “lõi nghèo”; chưa đánh giá được chi tiết mục tiêu, kết quả cụ thể thực hiện các dự án, tiểu dự án và chỉ tiêu giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của Chương trình theo năm.
Đảm bảo giảm nghèo đa chiều, bao trùm và bền vững
Đưa ra ý kiến về kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, các đại biểu cơ bản thống nhất với những kết quả đạt được của Chương trình mà Chính phủ đã đánh giá. Bên cạnh đó, Chương trình đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như: Việc triển khai thực hiện Chương trình đã đạt được một số kết quả tích cực, đời sống người nghèo, hộ cận nghèo, địa bàn nghèo có bước cải thiện, nâng cao; đã cơ bản thực hiện đạt các mục tiêu, chỉ tiêu giảm nghèo hằng năm. Chương trình đã cơ bản thực hiện được mục tiêu “giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn.”.
Bên cạnh đó, Chương trình đã cơ bản đảm bảo tuân thủ 07 nguyên tắc, giải pháp triển khai, thực hiện theo Nghị quyết 24 và 5 nguyên tắc, 3 giải pháp theo Quyết định 90 như: Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, trọng tâm là các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo. Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình, được phát hiện qua giám sát của Quốc hội đã được Quốc hội, Chính phủ, các địa phương tháo gỡ, hướng dẫn, giải quyết.
Các đại biểu phát biểu
Cùng với đó, các đại biểu cũng chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong triển khai Chương trình. Cụ thể, kết quả thực hiện mục tiêu chung về giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm tuy đạt và vượt mục tiêu được giao song vẫn chưa có sự kết nối, liên thông với thực hiện đạt chỉ tiêu, chỉ số giảm nghèo đa chiều; yêu cầu về tính bao trùm, bền vững của Chương trình còn có hạn chế, trong đó có việc chưa thực sự cải thiện, nâng cao cuộc sống người dân một cách thực chất, hạn chế được tái nghèo và phát sinh nghèo, nhất là việc giao chỉ tiêu 30% huyện nghèo, 30% xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn vào năm 2025.
Một số ý kiến nêu rõ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 108/2023/QH15 và đặc biệt là Nghị quyết số 111/2024/QH15 nhưng việc triển khai thực hiện Chương trình nói riêng và các CTMTQG nói chung vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, địa phương vẫn lúng túng trong tổ chức thực hiện. Một số văn bản đã được ban hành nhưng vẫn có khó khăn vướng mắc cần phải sửa đổi hoặc sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chậm được ban hành, sửa đổi.
Tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình từ năm 2021 đến năm 2024 mói bố trí được 71,69%; việc bố trí vốn sự nghiệp ngân sách trung ương nửa đầu và nửa cuối của Chương trình có sự mất cân đối lớn (đến năm 2024 mới bố trí 62,9%). Giải ngân vốn 6 tháng đầu năm 2024 đạt kết quả thấp; khả năng không giải ngân được hết các nguồn vốn được phân bổ năm 2021, 2022, 2023 của Chương trình. Chưa có thông tin về kết quả bố trí, giải ngân nguồn vốn địa phương và huy động hợp pháp khác bố trí cho từng dự án, tiểu dự án của Chương trình.
Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung tại phiên họp
Phân tích nguyên nhân của các hạn chế, bất cập này, các đại biểu cho rằng, giai đoạn 2021 - 2025 là lần đầu tiên Việt Nam thực hiện chuyển đổi toàn diện từ giảm nghèo đơn chiều sang giảm nghèo đa chiều, yêu cầu về công tác giảm nghèo giai đoạn này cao hơn nhiều so với giai đoạn trước, gắn với các mục tiêu phát triển bền vững. Địa bàn, đối tượng thực hiện Chương trình là các “lõi nghèo” của cả nước, công tác giảm nghèo ở đây cực kỳ khó khăn, thách thức vì các địa bàn thuận lợi đã thực hiện giảm nghèo các giai đoạn trước.
Ngoài ra, những tồn tại, hạn chế về xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, quản lý điều hành của 03 Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có nhiều nguyên nhân chủ quan, cần được quan tâm tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong giai đoạn 2026-2030./.