Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV
8h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp
Điều hành nội dung phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, mở đầu Phiên họp sáng nay, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Địa chất và khoáng sản.
Trước khi biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản.
8h01: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản
Trình bày Báo cáo tóm tắt về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, ngày 28/11/2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo số 1098/BC-UBTVQH15 về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản (dự thảo Luật).
Về phân nhóm khoáng sản (Điều 6), tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã được rà soát, bổ sung, chỉnh lý các quy định liên quan đối với loại khoáng sản này trong quy định về chính sách của Nhà nước (khoản 3 Điều 3), thăm dò khoáng sản chiến lược, quan trọng (Điều 41, Điều 44, Điều 47), khai thác khoáng sản chiến lược, quan trọng (Điều 65); không đấu giá quyền khai thác khoáng sản đối với một số khu vực khoáng sản chiến lược, quan trọng (khoản 2 Điều 100); giao Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục khoáng sản chiến lược, quan trọng (điểm b khoản 2 Điều 107).
Giải trình ý kiến đại biểu về quyền lợi, trách nhiệm của địa phương, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân nơi có tài nguyên địa chất, khoáng sản được khai thác (Điều 8), tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH nhận thấy cần thiết phải quy định rõ ràng hơn về nội dung này. Theo đó, dự thảo Luật đã được bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 8 theo hướng quy định: Căn cứ tình hình hoạt động khoáng sản trên địa bàn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc ban hành quy định về trách nhiệm đóng góp kinh phí của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản để đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường trên địa bàn. Đồng thời, bổ sung khoản 3 Điều 8 giao Chính phủ quy định chi tiết để Chính phủ quy định một số nội dung như: nguyên tắc xác định mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp ngân sách nhà nước, quản lý và sử dụng nguồn thu để bảo đảm thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
Theo quy định nêu trên, việc quyết định mức thu phải căn cứ vào tình hình, hiệu quả hoạt động về khoáng sản trên địa bàn tỉnh. Trường hợp hoạt động khoáng sản trên địa bàn không hiệu quả thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ chủ động quyết định điều chỉnh khoản đóng góp này, tránh ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư của địa phương. Bên cạnh đó, hoạt động khoáng sản thường không được sự ủng hộ của người dân trên địa bàn do tác động không mong muốn đối với môi trường sống và hạ tầng kỹ thuật. Việc tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có những đóng góp cụ thể (cùng với khoản chi ngân sách nhà nước để nâng cấp, duy tu, xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường) góp phần tạo được đồng thuận ủng hộ của người dân khi triển khai dự án khai thác khoáng sản. Nhiều doanh nghiệp khai thác khoáng sản mong muốn có hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng để có căn cứ thực hiện.
Về quy hoạch khoáng sản nhóm I, quy hoạch khoáng sản nhóm II, phương án quản lý về địa chất, khoáng sản (Điều 12), tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã sửa đổi tên quy hoạch khoáng sản tại khoản 1 Điều 12 là quy hoạch khoáng sản nhóm I và quy hoạch khoáng sản nhóm II để bảo đảm ngắn gọn, bao hàm các nội dung liên quan. Đồng thời đã rà soát, chỉnh lý đồng bộ tên quy hoạch tại các quy định liên quan đến quy hoạch khoáng sản trong dự thảo Luật. Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý tên gọi quy hoạch khoáng sản tại nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh lý không quy định cụ thể về điều chỉnh quy hoạch khoáng sản trong dự thảo Luật này. Việc điều chỉnh quy hoạch tỉnh (trong đó có phương án quản lý về địa chất, khoáng sản), quy hoạch khoáng sản nhóm I, quy hoạch khoáng sản nhóm II, thẩm quyền điều chỉnh đều phải tuân thủ pháp luật về quy hoạch (khoản 4 Điều 12). Đồng thời, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý nội dung điều chỉnh quy hoạch theo trình tự, thủ tục rút gọn trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu.
Về nguyên tắc cấp giấy phép thăm dò khoáng sản (Điều 43), tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung tại điểm h khoản 1: “Mỗi tổ chức, cá nhân được cấp không quá 05 giấy phép thăm dò đối với một loại khoáng sản, không kể giấy phép thăm dò khoáng sản đã hết hiệu lực. Trường hợp cấp quá 05 giấy phép cho cùng 01 tổ chức phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bằng văn bản”.
Về giấy phép khai thác khoáng sản (Điều 56), có ý kiến đề nghị điều chỉnh quy định thời gian cấp phép là không quá 50 năm và thời gian gia hạn không quá 15 năm. Về nội dung này, UBTVQH xin báo cáo: Khoáng sản là tài sản công, việc thực hiện dự án đầu tư khai thác khoáng sản phải có cách tiếp cận khác so với dự án đầu tư thông thường khác. Việc quy định thời hạn của giấy phép khai thác khoáng sản, bảo đảm thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản nhưng cần tính toán giảm thiểu các tác động không tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, giấy phép khai thác khoáng sản đều có thời hạn tối đa là 30 năm và được gia hạn một số năm. Quy định này cũng phù hợp với điều kiện thực tế là vòng đời của công nghệ khai thác khoáng sản sau 30 năm thường đã lạc hậu và cũng cần đầu tư đổi mới.
Điểm a khoản 4 Điều 56 dự thảo Luật đã quy định giấy phép khai thác khoáng sản có thời hạn không quá 30 năm và có thể được gia hạn nhiều lần, nhưng tổng thời gian gia hạn không quá 20 năm, tổng cộng là 50 năm, bằng với thời gian thực hiện dự án đầu tư thông thường theo quy định của pháp luật về đầu tư. Trên thực tế, có nhiều dự án sau 10 năm đã hoàn thành việc khai thác, kết thúc dự án. Ngoài ra, dự thảo Luật quy định việc cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản trong trường hợp giấy phép khai thác khoáng sản đã hết thời gian khai thác khoáng sản (kể cả thời gian gia hạn) nhưng còn trữ lượng. Do vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép được giữ quy định về thời hạn giấy phép khai thác khoáng sản như tại điểm a khoản 4 Điều 56, đồng thời, đề nghị Chính phủ chỉ đạo để bảo đảm thuận lợi, dễ dàng về thủ tục gia hạn giấy phép.
8h11: Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Địa chất và khoáng sản
Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Địa chất và khoáng sản.
Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 446/448 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 93,11% tổng số đại biểu Quốc hội. Như vậy, với tỷ lệ tán thành cao, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Địa chất và khoáng sản.
8h14: Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành phiên họp
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành phiên họp
Điều hành nội dung phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, tiếp tục chương trình phiên họp sáng nay, Quốc hội sẽ tiến hành biểu quyết thông qua Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Trước khi biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
8h15: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Quốc Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
Ngày 01/11/2024, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (PCCC và CNCH). Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật và xây dựng Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý. Các ý kiến của các vị ĐBQH đều đã được nghiên cứu kỹ lưỡng để giải trình, tiếp thu và đã được thể hiện đầy đủ, toàn diện trong dự thảo Luật và Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Quốc Lê Tấn Tới cho biết, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý, UBTVQH đã chỉ đạo quán triệt Nghị quyết số 27-NQ/TW, chỉ đạo của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm và chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội về thực hiện các giải pháp đổi mới trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, bảo đảm các quy định rõ ràng, thực chất, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện, không trùng lặp với nội dung đã được quy định trong các luật khác, không quy định chung chung, quy định những nội dung đúng thẩm quyền của Quốc hội, bám sát thực tiễn, bảo đảm tính khả thi; tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, nâng cao năng lực thực thi; triệt để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh dịch vụ PCCC (đã cắt giảm được 27 thủ tục hành chính, từ 37 thủ tục hành chính hiện hành xuống còn 10 thủ tục hành chính), giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp; không quy định trong luật những nội dung về thủ tục hành chính, trình tự, hồ sơ mà giao Chính phủ, các Bộ quy định theo thẩm quyền để linh hoạt, kịp thời sửa đổi, bổ sung khi cần thiết, tạo thuận lợi cho việc phân cấp phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
So với dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 thì dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua có 55 điều (giảm 04 điều do bỏ 02 điều quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nội dung quản lý nhà nước về PCCC, CNCH; ghép nội dung 02 điều thành 01 điều (Điều 28); chuyển nội dung Điều 56 thành khoản 6 Điều 55)…
Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ (Điều 8): Có ý kiến đề nghị quy định rõ cơ sở chỉ cần phân công người thực hiện nhiệm vụ PCCC và CNCH, cơ sở phải thành lập Đội PCCC và CNCH cơ sở, Đội PCCC và CNCH chuyên ngành.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Quốc Lê Tấn Tới, tại khoản 4 Điều 37 của dự thảo Luật đã giao “Chính phủ quy định cơ sở phải thành lập Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở, cơ sở phải thành lập Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành…”. Còn cơ sở không thuộc 02 danh mục nêu trên thì không bắt buộc thành lập Đội PCCC và CNCH cơ sở hoặc Đội PCCC và CNCH chuyên ngành; trường hợp không thành lập Đội PCCC và CNCH thì phải phân công người thực hiện nhiệm vụ PCCC và CNCH tại cơ sở đó.
Về phòng cháy đối với nhà ở (Điều 20): Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “thành phố trực thuộc trung ương” tại khoản 5 bằng từ “địa phương” hoặc từ “đô thị” để quy định nhà ở tại các khu vực này phải trang bị thiết bị truyền tin báo cháy.
Đối với nhà ở tại các khu vực đô thị có mật độ dân cư rất cao, chật chội, trong ngõ, hẻm sâu, không bảo đảm hạ tầng giao thông hoặc nguồn nước phục vụ chữa cháy theo quy định của pháp luật và quy chuẩn kỹ thuật trong hoạt động PCCC, chủ yếu là ở các thành phố lớn (thành phố trực thuộc trung ương) và do lịch sử quy hoạch, xây dựng trước đây. Để bảo vệ tính mạng, tài sản cho người dân, bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của các địa phương hiện nay, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép quy định bắt buộc phải trang bị bình chữa cháy, thiết bị truyền tin báo cháy theo lộ trình do Chính phủ quy định đối với các nhà ở thuộc các khu vực không bảo đảm hạ tầng giao thông hoặc nguồn nước phục vụ chữa cháy tại 05 thành phố trực thuộc trung ương. Còn đối với nhà ở tại khu vực khác thì khuyến khích trang bị thiết bị truyền tin báo cháy, kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu về PCCC, CNCH và truyền tin báo cháy.
Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản quy định về phòng cháy đối với nhà ở sau khi chuyển đổi công năng sang nhà dùng để kinh doanh như kinh doanh karaoke, quán bar, vũ trường. Đối với nhà ở muốn chuyển đổi công năng như kinh doanh karaoke, quán bar, vũ trường phải thực hiện quy trình chuyển đổi công năng, cải tạo nhà ở theo quy định của pháp luật về xây dựng. Trường hợp nhà ở chuyển đổi công năng thành cơ sở (thuộc diện phải quản lý về PCCC) thì phải bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy đối với cơ sở quy định tại Điều 23 của dự thảo Luật. Mặt khác, tại khoản 8 Điều 14 của dự thảo Luật đã quy định hành vi cấm chuyển đổi, bổ sung công năng sử dụng công trình, hạng mục công trình không bảo đảm an toàn PCCC. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định này vào Điều 20 của dự thảo Luật.
Về nguồn tài chính và ngân sách nhà nước bảo đảm cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ (Điều 49 và Điều 50): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, gia đình phải chịu một phần kinh phí về công tác chữa cháy khi lực lượng PCCC và CNCH thực hiện chữa cháy cho cơ quan, tổ chức, gia đình của mình theo quy định của pháp luật và giao Chính phủ quy định mức phí cụ thể trong từng trường hợp.
UBTVQH cho biết, công tác chữa cháy là một nội dung trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, được nhà nước bảo đảm ngân sách thực hiện đối với các lực lượng theo quy định của pháp luật (khoản 3 và khoản 4 Điều 50 của dự thảo Luật). Khi xảy ra cháy, nổ thì cơ quan, tổ chức, gia đình đã phải chịu thiệt hại nhất định về người và tài sản, nếu bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, gia đình đó phải chịu một phần kinh phí khi lực lượng PCCC và CNCH thực hiện chữa cháy cho cơ quan, tổ chức, gia đình của mình sẽ gia tăng khó khăn cho người dân sau khi đã bị thiệt hại về người, tài sản trong vụ cháy. Vì vậy, để phù hợp với quy định của pháp luật về an ninh, trật tự và thể hiện tính nhân văn trong quy định của pháp luật, UBTVQH đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, gia đình chịu một phần kinh phí về công tác chữa cháy khi lực lượng PCCC và CNCH thực hiện chữa cháy cho cơ quan, tổ chức, gia đình của mình.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định “trong nhiệm vụ chi ngân sách quốc phòng, an ninh hằng năm của UBND các cấp phải có nội dung bảo đảm cho công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ” cuối khoản 1 Điều 50.
UBTVQH xin báo cáo như sau: Quy định “trong nhiệm vụ chi ngân sách quốc phòng, an ninh hằng năm của UBND các cấp phải có nội dung bảo đảm cho công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ” được kế thừa tại khoản 2 Điều 55 của Luật Phòng cháy và chữa cháy hiện hành, đã được thực hiện ổn định trong thời gian qua, tạo thuận lợi cho công tác PCCC, CNCH, không phát sinh vướng mắc và không mâu thuẫn với Luật Ngân sách nhà nước. Vì vậy, để tiếp tục tạo thuận lợi công tác PCCC và CNCH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép tiếp tục kế thừa quy định hiện hành và có chỉnh sửa lại cho phù hợp, bảo đảm tính khả thi tại khoản 1 Điều 50 của dự thảo Luật.
8h24: Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo hình thức biểu quyết điện tử. Kết quả biểu quyết cho thấy, có 448/450 đại biểu biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 93,53% tổng số đại biểu Quốc hội). Như vậy, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
8h26: Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, chiều ngày 22/11/2024 Quốc hội đã thảo luận tại phiên họp Tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Có 96 lượt ý kiến phát biểu tại 19 Tổ đại biểu Quốc hội. Báo cáo tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận tại phiên họp Tổ đã được gửi tới các đại biểu Quốc hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu tập trung cho ý kiến về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật; hồ sơ dự án Luật; quan điểm xây dựng Luật; phạm vi sửa đổi, bổ sung; việc bổ sung nguyên tắc mới của hoạt động giám sát; bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát; bổ sung quy định cơ quan có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức, tiến hành các hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kiến nghị của cử tri; bổ sung tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát, nhóm vấn đề chất vấn, vấn đề được giải trình trong dự thảo Luật; hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; giải pháp bảo đảm thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát cùng các nội dung khác đại biểu Quốc hội quan tâm.
8h32: Đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Lắk: Xem xét nội dung bổ sung Điều 60a vào sau Điều 60 để đảm bảo thống nhất
Phát biểu góp ý, đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt bày tỏ thống nhất với sự cần thiết dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân trình tại Kỳ họp lần này…
Quan tâm đến nội dung bổ sung Điều 60a vào sau Điều 60 về việc chất vấn, xem xét, trả lời chất vấn tại Kỳ họp của Hội đồng nhân dân, đại biểu cho biết, Điều 60a quy định xem xét việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân về chất vấn, giám sát chuyên đề bằng hình thức chất vấn. Đây là nội dung bổ sung mới rất thiết thực, cho thấy tầm quan trọng của việc tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn trong hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân.
Theo đại biểu, quy định này sẽ nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong việc trả lời chất vấn, thực hiện cam kết, trách nhiệm với cử tri. Tuy nhiên, qua nghiên cứu Điều 60a được bổ sung ở dự thảo Luật lần này, đại biểu nhận thấy còn có một số vấn đề bất cập cần phải thiết kế lại để đảm bảo phù hợp và thống nhất với Điều 60 của Luật hiện hành.
Cụ thể, Điều 60 về phạm vi thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân không có quy định thẩm quyền giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, trong khi Điều 60a lại quy định xem xét việc thực hiện nghị quyết của cả Hội đồng nhân dân và Thường trực Hội đồng nhân dân. Bên cạnh đó, về thời gian chất vấn và trả lời chất vấn, Điều 60a quy định thực hiện theo nội quy của Kỳ họp Hội đồng nhân dân, trong khi Điều 60 hiện hành quy định thực hiện theo quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân. Do vậy, Cơ quan chủ trì soạn thảo cần xem xét lại nội dung này để đảm bảo thống nhất về quy trình và cách thức thực hiện.
Ngoài ra, điều 60a quy định người bị chất vấn phải chuẩn bị báo cáo tóm tắt việc thực hiện nghị quyết về chất vấn giám sát chuyên đề, nhưng chưa có quy định thời gian cụ thể, trong khi Điều 60 hiện hành có quy định rõ ràng về thời gian.
Do vậy, đại biểu đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, điều chỉnh các vấn đề trên để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong quy định pháp luật, tránh sự khác biệt trong việc tiếp cận và thực hiện.
8h40: Đại biểu Phạm Văn Hòa - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp: Đề nghị không bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong xem xét kết quả giám sát
Góp ý kiến về bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát, đại biểu Phạm Văn Hòa đồng tình với thẩm tra của Ủy ban Pháp luật, theo đó không sửa đổi nội dung này, vì hiện nay việc giải thích hiến pháp đã rất cụ thể, rõ ràng. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng nêu rất rõ, giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc theo đề xuất của Chủ tịch nước, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Tòa án, Viện kiểm sát, Kiểm toán, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan trung ương cần thiết, đề xuất Quốc hội xem xét giải thích pháp luật.
Về bổ sung quy định cơ quan có trách nhiệm tham mưu, giúp việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức tiến hành hoạt động giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đại biểu cũng cho rằng, không luật hóa nội dung này. Vì đã giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cơ quan có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc quy định cụ thể trách nhiệm của Ban Dân nguyện tham mưu, giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát là phù hợp. Vì vậy việc đề xuất thêm một cơ quan là không cần thiết.
Về lựa chọn các tiêu chí chuyên đề giám sát và nhóm vấn đề chất vấn, đại biểu cho rằng, các quy định hiện hành đã thực hiện rất tốt rồi, không cần thiết sửa đổi, bổ sung. Về hoạt động của Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội quy định từ ba đại biểu trở lên, đại biểu Phạm Văn Hòa cho biết, quy định như dự thảo luật rất khó thực hiện, có thể quy định từ hai đại biểu trở lên sẽ phù hợp với tình hình thực tế.
8h47: Đại biểu Dương Khắc Mai - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông: Cần lựa chọn chuyên đề giám sát bám sát thực tiễn cuộc sống
Để hoàn thiện dự án Luật, đại biểu Dương Khắc Mai quan tâm đến tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát. Theo đó, phải bám sát yêu cầu từ thực tiễn cuộc sống, của các địa phương, các vấn đề còn tồn tại lâu dài chưa được quan tâm... Tại Khoản 36 Điều 1 sửa đổi, bổ sung Điều 60 của Luật hiện hành đối với các quy định về tiêu chí lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn, khoản 42 Điều 1 sửa đổi, bổ sung Điều 69 của dự thảo và tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát, khoản 46 Điều 1 sửa đổi, bổ sung Điều 80 của Luật hiện hành, đại biểu Dương Khắc Mai đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật cần xem xét, quy định các tiêu chí lựa chọn cụ thể, rõ ràng, bám sát tình hình thực tiễn của đất nước, địa phương. Những vấn đề thực tiễn đặt ra đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển vận động của kinh tế xã hội, lựa chọn những xu hướng cần áp dụng tác động tích cực đến chính sách, vấn đề nóng, vấn đề điểm của hiện tại hoặc tồn đọng lâu dài không được giải quyết mà cử tri đặc biệt quan tâm.
Tại Điểm d, khoản 36 của Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 60 như sau: Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về chất vấn nội dung nghị quyết theo quy định tại khoản 5 Điều 15 của Luật này. Theo quy định hiện hành thì Hội đồng nhân dân có thể ra nghị quyết về chất vấn. Vấn đề này được hiểu là sau khi chất vấn nếu thấy cần thiết thì Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết hoặc không ban hành nghị quyết. Việc quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn khi mà kỳ họp Hội đồng nhân dân chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn.
Công tác chuẩn bị xây dựng nghị quyết ngay trong kỳ họp sẽ không đảm bảo chất lượng và mất nhiều thời gian, tạo sự linh hoạt trong điều hành phiên họp và có rất nhiều trường hợp người bị chất vấn và trả lời chất vấn tất cả các câu hỏi của đại biểu. Do đó, cần giữ nguyên như quy định của luật hiện hành. Trường hợp quy định bắt buộc phải ra nghị quyết về chất vấn như dự thảo thì cần phải đánh giá tác động kỹ lưỡng chính sách, lấy ý kiến và khảo sát tại các địa phương.
8h55: Đại biểu Trần Khánh Thu - Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình: Cần tiếp tục đổi mới công tác giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp
Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trần Khánh Thu bày tỏ tán thành việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND để khắc phục những hạn chế, vướng mắc của Luật hiện hành đồng thời tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa chính sách của Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp…
Về bổ sung nguyên tắc mới của hoạt động giám sát, đại biểu Trần Khánh Thu cho biết, trong bối cảnh hiện nay chúng ta đang đổi mới tư duy xây dựng pháp luật mà đổi mới tư duy xây dựng pháp luật này yêu cầu vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện vừa là đòi hỏi bắt buộc các lĩnh vực khác có liên quan phải cùng tham gia vào. Quốc hội có 3 chức năng cơ bản là xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Vậy công tác đổi mới tư duy xây dựng pháp luật thì đòi hỏi giám sát phải đổi mới theo và việc quyết định các vấn đề cơ bản của đất nước cũng phải đổi mới theo. Do đó, đại biểu thống nhất lựa chọn phương án 1 trong dự thảo là Bổ sung khoản 2a vào sau khoản 2 của Điều 3: Bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Về quy định thời điểm Quốc hội xem xét, thảo luận các báo cáo, đại biểu lựa chọn phương án 1 trong dự thảo luật. Theo nữ đại biểu tỉnh Thái Bình, việc chuyển thời điểm Quốc hội xem xét, thảo luận một số báo cáo từ kỳ họp cuối năm sang kỳ họp giữa năm sẽ giúp điều hòa hợp lý, giảm tải khối lượng công việc rất lớn của Quốc hội tại các kỳ họp cuối năm; đồng thời tạo thuận lợi để Chính phủ; bộ, ngành trong quá trình thống kê, xây dựng báo cáo tổng hợp đầy đủ tình hình, số liệu trong 1 năm, làm cơ sở cho việc đánh giá toàn diện kết quả công tác trong năm của cơ quan chịu sự giám sát, khắc phục tình trạng các cơ quan phải lấy số liệu nhiều lần phục vụ xây dựng báo cáo trình Quốc hội , gây lãng phí nguồn lực.
Bên cạnh đó, đại biểu Trần Khánh Thu đề nghị Cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, bổ sung trình tự, thủ tục để Ban của Hội đồng nhân dân đề nghị Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
9h01: Đại biểu Hà Phước Thắng - Đoàn ĐBQH Tp. Hồ Chí Minh: Đảm bảo tính thời sự, đồng bộ trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội
Liên quan đến 2 phương án tại khoản 1 Điều 1 của dự thảo Luật, đại biểu Hà Phước Thắng thống nhất với ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp Luật là cần cân nhắc bổ sung nguyên tắc này vì thực chất, đây chỉ là mục tiêu cần đạt đến của công tác giám sát của Quốc hội và HĐND qua các cuộc giám sát.
Liên quan đến khoản 6 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi khoản 2 Điều 13 của Luật Hoạt động giám sát (HĐGS) về thời gian xem xét báo cáo của Quốc hội, đại biểu đề nghị giữ nguyên như Luật hiện hành theo khoản 2 Điều 13 của Luật HĐGS để đảm bảo tính thời sự, đồng bộ trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội.
Đại biểu Hà Phước Thắng cho rằng, ở cuối kỳ họp, để thông qua các chỉ tiêu, giải pháp, mục tiêu về kinh tế - xã hội của năm sau, chúng ta phải đồng thời xem xét những vấn đề quan trọng về công tác tư pháp, công tác phòng chống tham nhũng, về tình hình tội phạm, về giải quyết kiến nghị của cử tri…, từ đó có số liệu đồng bộ và chúng ta quyết định những vấn đề năm sau của đất nước.
Liên quan đến điểm a khoản 14 Điều 1 của dự thảo Luật về bổ sung, sửa đổi khoản 1 Điều 21 của Luật HĐGS, đại biểu thống nhất đề nghị không bổ sung quy định: Quốc hội yêu cầu UBTVQH ban hành văn bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và không quy định Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan ban hành văn bản hướng dẫn luật, pháp lệnh, nghị quyết. Vì các nội dung này đã được quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về việc bổ sung quy định cơ quan có trách nhiệm tham mưu, giúp UBTVQH tổ chức tiến hành các hoạt động giám sát, việc thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại khoản 20 và khoản 21 Điều 1 của dự thảo Luật, đại biểu Hà Phước Thắng thống nhất không bổ sung những nội dung này vì những nội dung này đã được ban hành trong Nghị quyết 1156 ngày 17/3/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 13.
9h08: Đại biểu Tô Ái Vang - Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng: Tạo thuận lợi cho việc giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Tô Ái Vang cho biết, tại Tờ trình dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cho thấy còn 4 vấn đề còn ý kiến khác nhau về dự án Luật này. Đưa ra quan điểm về những vấn đề này, đại biểu tán thành với phương án xác định bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương là mục tiêu hướng đến của hoạt động giám sát, không phải là nguyên tắc.
Đại biểu nêu rõ, tại khoản 32 Điều 1 của dự thảo Luật có sửa đổi, bổ sung Điều 52 của Luật hiện hành. Theo đó, việc quy định cứng Đoàn giám sát tại địa phương phải có ít nhất 03 đại biểu là thành viên Đoàn rất khó khả thi. Thực tế đã có những lúc Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh chỉ còn 1 hoặc 2 ĐBQH của địa phương, vì do yêu cầu của công tác cán bộ. Nếu mời ĐBQH từ Trung ương về tham gia giám sát ở địa phương thì sẽ bị động về mặt thời gian. Do đó, đại biểu đề nghị rà soát quy định này cho hợp lý.
Ngoài ra, cần có cơ chế hỗ trợ chuyên môn, cung cấp thông tin, kinh phí tổ chức hoạt động giám sát nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát cho ĐBQH khi tiến hành giám sát.
9h13: Đại biểu Nguyễn Ngọc Xuân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương: Đề nghị bổ sung thẩm quyền giám sát các cơ quan trung ương tại địa phương cho HĐND cùng cấp
Phát biểu góp ý, đại biểu Nguyễn Ngọc Xuân cho biết, qua thực tiễn hoạt động giám sát tại địa phương, Hội đồng nhân dân nhiều nơi kiến nghị Quốc hội xem xét bổ sung mở rộng đối tượng giám sát tại Điều 5 của Luật hiện hành, cụ thể: Hội đồng nhân dân được quyền giám sát hoạt động của cơ quan trung ương tại địa phương như: Cục thuế, hải quan, Bảo hiểm xã hội, Ngân hàng nhà nước cùng cấp…. Đồng thời kiến nghị xem xét bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân được quyền chất vấn người đứng đầu các cơ quan thuộc ngành dọc của Trung ương hoạt động tại địa phương…
Đại biểu phân tích, căn cứ Điều 113, Hiến pháp quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước dân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân”.
Cụ thể hơn, tại khoản 2, Điều 5 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ghi rõ: “Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ở địa phương.
Như vậy, phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân tại địa phương là rất rộng, bao quát tất cả các đối tượng, lĩnh vực trên địa bàn, kể cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được triển khai đồng bộ, thống nhất, hiệu quả.
Đại biểu nhấn mạnh, thực tiễn cho thấy các cơ quan, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền, và các cơ quan, tổ chức khác trong xã hội đều phải tuân thủ pháp luật, đều phải triển khai thực hiện các giải pháp, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh do Hội đồng nhân dân quyết nghị, trong đó, các cơ quan ngành dọc của trung ương tại địa phương phải thực hiện như: Thu thuế, bảo hiểm xã hội; các biện pháp đảm bảo quốc phòng an ninh, thực hiện các chính sách về tài chính, kinh tế, môi trường, xã hội do Hội đồng nhân dân ban hành…
Đại biểu nêu rõ, trong bối cảnh phân cấp, phân quyền mạnh như hiện nay, Hội đồng nhân dân được giao thẩm quyền nhiều hơn trong ban hành các chính sách, hỗ trợ về cơ sở vật chất, tiền công, phụ cấp cho các đối tượng xã hội, cho lực lượng quốc phòng, an ninh; hỗ trợ cấp ngân sách cho các ngân hàng chính sách xã hội; kinh phí đầu tư các dự án và hỗ trợ hoạt động cho các cơ quan trung ương tại địa phương.
“Quy định chính thức việc Hội đồng nhân dân được giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng cấp thuộc trung ương, đóng chân trên địa bàn, nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại địa phương. Qua đó, giúp cho chính quyền trung ương quản lý tốt việc thực hiện chính sách, pháp luật tại địa phương, vừa đảm bảo các định hướng, mục tiêu trung ương giao cho địa phương được thực thi hiệu quả. Với cơ chế kiểm soát của Hội đồng nhân dân buộc các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm giải trình, cam kết hành động trước cơ quan đại diện của Nhân dân”, đại biểu nhấn mạnh.
Do đó, đại biểu kiến nghị Quốc hội xem xét bổ sung thẩm quyền giám sát hoạt động các cơ quan trung ương tại địa phương cho Hội đồng nhân dân cùng cấp và quy định quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân trong chất vấn người đứng đầu các cơ quan đó. Nội dung này phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn, đảm bảo cho việc kiểm soát thực thi quyền lực Nhà nước theo đúng định hướng.
9h20: Đại biểu Vũ Thị Liên Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi: Bổ sung quy định xử lý trách nhiệm cơ quan chịu sự giám sát
Góp ý về nguyên tắc hoạt động giám sát, đại biểu Vũ Thị Liên Hương cho biết, dự thảo bổ sung nguyên tắc bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương là phù hợp. Còn về cách thức thể hiện, đại biểu thống nhất theo phương án 1 để xác định đây là một nguyên tắc riêng, một nội dung mới được bổ sung vào trong luật.
Về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 7 quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, dự thảo luật chỉ sửa đổi bổ sung khoản 2, quy định thêm đối tượng là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm gửi văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đồng thời gửi đến Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có liên quan để giám sát. Đại biểu cũng đề nghị xem xét sửa đổi bổ sung khoản 4. Theo đó, bổ sung quy định về xử lý trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thực hiện nghị quyết, kết luận, yêu cầu, kiến nghị của chủ thể giám sát. Quy định thật cụ thể các hành vi, tính chất, mức độ vi phạm, trình tự, thủ tục thực hiện đảm bảo cơ sở pháp lý thực hiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử.
Về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 13 về thời điểm xem xét báo cáo của các cơ quan, đại biểu đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành. Vì kỳ họp cuối năm, Quốc hội cần phải xem xét toàn diện các vấn đề để có đầy đủ thông tin quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch tài chính, phân bổ ngân sách nhà nước và quyết định các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các vấn đề liên quan trong năm sau.
Góp ý về bổ sung Điều 15 xem xét việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn, giám sát chuyên đề bằng hình thức chất vấn, đại biểu tán thành bổ sung quy định này. Theo đó, tại kỳ họp cuối năm của năm thứ hai và kỳ họp cuối năm của năm thứ tư của nhiệm kỳ, Quốc hội xem xét về chất vấn việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn giám sát chuyên đề.
Như vậy, Quốc hội thực hiện giám sát liên tục, đi đến cùng vấn đề và xem xét trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền đối với vấn đề đã hứa giải quyết với cử tri. Vấn đề này, đại biểu đề nghị nghiên cứu thực hiện đối với Hội đồng Nhân dân các cấp. Tuy nhiên tại khoản 3 của điều này quy định các trường hợp Quốc hội cho trả lời chất vấn bằng văn bản là trùng với quy định tại khoản 4 Điều 14, đề nghị rà soát, chỉnh lý cho thống nhất…
9h51: Đại biểu Huỳnh Thị Phúc - Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Cần đảm bảo tính khả thi về việc giao cơ quan tham mưu giúp UBTVQH trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kiến nghị của cử tri
Nhấn mạnh sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát, đại biểu Huỳnh Thị Phúc góp ý về việc giao cơ quan tham mưu giúp UBTVQH trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kiến nghị của cử tri, đại biểu đề nghị dự thảo Luật này cần quy định để đảm bảo tính khả thi và hiệu lực các vấn đề liên quan đến nội dung này.
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc cho rằng, việc giao UBTVQH quy định cơ quan tham mưu trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kiến nghị của cử tri thì có thể linh hoạt chỉ định cơ quan phù hợp với yêu cầu trong thực hiện nhiệm vụ ở mỗi giai đoạn khác nhau với các chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị được phân công, đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả của giám sát.
Về nội dung sửa đổi quy định trách nhiệm, chế tài trong thực hiện kiến nghị của các Đoàn giám sát của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu Huỳnh Thị Phúc nhận thấy, quy định trách nhiệm thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát của chủ thể giám sát đối với các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát là cần thiết. Đại biểu cho rằng, nếu chỉ đề cập chung chung là xem xét trách nhiệm thì chưa rõ và khó thực hiện khi Luật sửa đổi được ban hành. Để đảm bảo tính ràng buộc, đại biểu Huỳnh Thị Phúc đề nghị cần bổ sung rõ ràng hơn các hình thức xử lý vi phạm, chẳng hạn như xử lý về hành chính, bãi nhiệm, hoặc là quy trình xử lý cao hơn theo từng cấp độ vi phạm của chủ thể chịu sự giám sát.
Đối với các hình thức về chế tài xử lý, đại biểu cho rằng, cần bổ sung nội dung cho phép các cơ quan giám sát kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân các cấp đề nghị báo cáo và đề nghị cấp ủy quyết định áp dụng các hình thức, biện pháp kỷ luật. Quy định như vậy sẽ khả thi hơn vì gắn trách nhiệm của cấp ủy đối với người đứng đầu theo các quy định hiện hành.
Đồng thời cần bổ sung vào dự thảo Luật quy định về thời hạn để cơ quan chịu sự giám sát thực hiện kết luận giám sát là bao nhiêu ngày kể từ khi cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát nhận được kết luận của cơ quan chủ thể và giám sát các nội dung. Bởi vì thực tiễn trong thời gian qua, mỗi Đoàn giám sát theo dõi và giám sát việc thực hiện là khác nhau. Cho nên, trong lần sửa đổi này, đại biểu Huỳnh Thị Phúc đề nghị là nên quy định cụ thể (ví dụ như 15 ngày, 30 ngày, 40 ngày hoặc một thời gian cụ thể nào đó) để việc thực hiện này đảm bảo tính khả thi và người đứng đầu cơ quan chịu sự giám sát phải báo cáo giải trình lý do nếu không thực hiện đảm bảo theo thời gian đó.
9h59: Đại biểu Nguyễn Thị Sửu - Đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên Huế: Hạn chế tối đa việc Quốc hội ban hành thêm những văn bản dưới Luật
Đóng góp vào dự án Luật, đại biểu Nguyễn Thị Sửu quan tâm tới thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân của đơn vị hành chính cấp trên đối với các đơn vị hành chính cấp dưới không tổ chức Hội đồng nhân dân (Điều 5a). Theo đó, đại biểu nhất trí bổ sung nhưng ở khoản 1 thay vì giao Quốc hội quy định về “Thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân của đơn vị hành chính cấp trên đối với các đơn vị hành chính cấp dưới không tổ chức Hội đồng nhân dân” thì đề nghị quy định ngay tại dự Luật này. Vì đây là Luật cụ thể hóa một trong ba chức năng của Quốc hội, cần hạn chế tối đa việc Quốc hội ban hành thêm những văn bản dưới Luật kiểu như thế này nhằm tránh vòng luẩn quẩn trong giải quyết thẩm quyền…
Đề cập về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát (Điều 7), đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật bổ sung từ “làm việc” sau các từ chỉ thời gian “3 ngày” để định vị tình trạng thời gian hành chính trong thực hiện việc gửi văn bản quy phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát đến chủ thể giám sát được quy định ở khoản 2. Mặt khác, để ràng buộc trách nhiệm của “Cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát ủy quyền cho cấp phó thay mình trình bày, báo cáo tại khoản 3, đại biểu đề nghị bổ sung nội dung “nhưng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những vấn đề cấp phó của mình trình bày”.
10h04: Đại biểu Huỳnh Thị Hằng Nga - Đoàn ĐBQH tỉnh Trà Vinh: Bổ sung quy định chế tài xử lý trong trường hợp quá thời hạn mà cơ quan, cá nhân không thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát
Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, đại biểu Huỳnh Thị Hằng Nga đề nghị ban soạn thảo bổ sung thêm quy định đối với trách nhiệm của UBND ở những nơi không có HĐND cùng cấp thì việc gửi quyết định mà mình đã ban hành đến HĐND cấp trên chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày ký văn bản.
Về quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, đại biểu đề nghị ban soạn thảo quy định thêm về trách nhiệm cụ thể mang tính bắt buộc đối với các chủ thể này; cần bổ sung các giải pháp thực sự hiệu quả để tăng cường theo dõi, đôn đốc, ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan chịu sự giám sát, bảo đảm thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm túc các kết luận, kiến nghị giám sát; bổ sung quy định chế tài xử lý trong trường hợp quá thời hạn mà cơ quan, cá nhân không thực hiện kết luận, kiến nghị hoặc thực hiện không đúng yêu cầu; quy định trách nhiệm của cơ quan truyền thông trong việc phản ánh tình hình, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát; tăng cường trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát.
Về nội dung Tham gia giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đại biểu tỉnh Trà Vinh đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định rõ hơn về quyền và trách nhiệm của cá nhân tham gia giám sát, theo đại biểu chủ thể này nên bổ sung quy định đối tượng là Nhân dân được tham gia trong hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát quyền lực người đứng đầu cơ quan Nhà nước nói riêng.
Liên quan đến việc Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương, đại biểu Huỳnh Thị Hằng Nga đề nghị ban soạn thảo tiếp tục rà soát thể chế hóa các quan điểm của Đảng được nêu tại điểm 8 mục IV, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị trong dự thảo Luật sửa đổi cần bổ sung thêm một điều quy định về việc phối hợp giữa giám sát của Nhân dân thông qua MTTQ, ban thanh tra Nhân dân với hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp, không làm trùng lắp và làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.
10h09: Đại biểu Trần Văn Tiến - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc: Lựa chọn chuyên đề giám sát về những vấn đề xã hội quan tâm
Tham gia đóng góp ý kiến tại phiên họp, đại biểu Trần Văn Tiến bày tỏ cơ bản đồng tình với phạm vi điều chỉnh của luật, theo đó, phạm vi điều chỉnh chỉ bao gồm 5 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV. Đại biểu cho biết, dự thảo luật có quy định, Tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát của Quốc hội là vấn đề mang tính thời sự, gắn với quản lý nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, có tính tổng hợp thuộc nhiều lĩnh vực và những vấn đề khác. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về tiêu chí và quy trình lựa chọn chuyên đề giám sát của Quốc hội.
Đại biểu đề nghị bổ sung cụm từ “và những vấn đề xã hội quan tâm” vào sau cụm từ “những vấn đề mang tính thời sự”, cụ thể: Tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát của Quốc hội là vấn đề mang tính thời sự và những vấn đề xã hội quan tâm, gắn với quản lý nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, có tính tổng hợp thuộc nhiều lĩnh vực và những vấn đề khác.
Bên cạnh đó, dự thảo luật cũng quy định, kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật phải được gửi Tổng Thư ký Quốc hội để tổng hợp, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trường hợp cần thiết, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết về giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đại biểu đề nghị làm rõ “Trường hợp cần thiết” là trường hợp như thế nào, để đảm bảo rõ ràng, nhất quán trong thực hiện.
Dự thảo luật cũng quy định, đoàn giám sát do Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân làm Trưởng đoàn, các thành viên khác gồm Ủy viên của Thường trực Hội đồng nhân dân, đại diện Ban của Hội đồng nhân dân và một số đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, tổ chức thành viên của Mặt trận, các chuyên gia có thể được mời tham gia Đoàn giám sát. Về nội dung này, đại biểu đề nghị xem xét quy định về tiêu chí chuyên gia để đảm bảo đúng quy định và chất lượng.
Ngoài ra, về ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa trong hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, dự thảo luật quy định, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện, bộ phận giúp việc của Hội đồng nhân dân cấp xã có trách nhiệm tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa để phục vụ hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân; bảo đảm sự liên thông về dữ liệu giám sát giữa Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan có liên quan. Đại biểu đề nghị cần quy định rõ cách thức xử lý trong trường hợp đối với quận, thành phố, thị xã, phường mà chính quyền đô thị chỉ bao gồm UBND.
10h15: Đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp: Đề xuất đổi tên dự thảo Luật để đảm bảo phù hợp
Phát biểu góp ý, đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa bày tỏ đồng tình với sự cần thiết dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân với những căn cứ thực tiễn, căn cứ pháp lý, căn cứ chính trị đã được nêu trong Tờ trình của Chính phủ; đồng thời cho rằng, công tác chuẩn bị dự thảo Luật đã đảm bảo công phu, kỹ lưỡng và thận trọng…
Về quan điểm và cách tiếp cận, đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa cho biết, Quốc hội khóa XV xác định, giám sát là khâu trọng tâm, then chốt để đổi mới hoạt động của Quốc hội, với tinh thần giám sát không phải để tìm sai sót, hạn chế mà nhằm đồng hành, kiến tạo phát triển và cung cấp dữ liệu đầu vào cho Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Ví dụ như việc giám sát việc thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025.
Về phương pháp luận, theo đại biểu, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung phải thực hiện các yêu cầu liên quan đến thời kỳ đổi mới, đồng thời phải xem xét mối liên hệ chặt chẽ với các luật khác có liên quan như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… trong bối cảnh sắp xếp lại bộ máy hiện nay.
Nhấn mạnh phạm vi sửa đổi của dự thảo Luật rất rộng, đại biểu đề xuất xem xét, sửa đổi tên dự thảo Luật thành "Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi)" thay vì "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân" như hiện tại. Đồng thời, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc lại thời điểm thông qua dự án Luật để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
10h22: Đại biểu Phạm Đình Thanh - Đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum: Không nên quy định cứng trong luật về cơ quan tham mưu tổ chức hoạt động giám sát
Cho ý kiến về bổ sung nguyên tắc công tác giám sát, đại biểu Phạm Đình Thanh cho rằng, không nhất thiết quy định thành một khoản riêng, mà có thể xem xét bổ sung vào các nội dung đã được quy định tại Luật hiện hành. Theo đó, đại biểu thống nhất lựa chọn phương án 2, bổ sung nội dung này vào khoản 2 Điều 3 và xây dựng hoàn chỉnh nội dung của khoản 2 điều này là: Đảm bảo khách quan, công khai, minh bạch, hiệu quả, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Về quy định cơ quan có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức tiến hành các hoạt động giám sát, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, đại biểu nêu quan điểm, không nên quy định cứng trong luật về cơ quan tổ chức nào tham mưu giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát này. Theo đó, đại biểu thống nhất lựa chọn phương án 1 là bổ sung quy định: Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cơ quan có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức tiến hành các hoạt động giám sát, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri.
Đối với điều kiện thành lập Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu sửa đổi quy định về điều kiện thành lập Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội. Nội dung này chưa có trong dự thảo luật trình Quốc hội.
Đại biểu cho biết, khoản 1 điều 52 luật hiện hành gây khó khăn cho các Đoàn đại biểu Quốc hội, nhất là đôi với các Đoàn Đại biểu Quốc hội có ít đại biểu Quốc hội. Để tạo điều kiện các Đoàn ĐBQH địa phương thành lập đoàn giám sát, đại biểu đề nghị sửa đổi quy định về điều kiện thành lập của Đoàn giám sát của Đoàn ĐBQH tại khoản 1 Điều 52 theo hướng: Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội do Trưởng đoàn, hoặc Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội làm Trưởng đoàn và có đại biểu Quốc hội là thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội tham gia Đoàn giám sát. Quy định như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi và linh hoạt cho hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội các địa phương; đồng thời không ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát.
10h27: Đại biểu Cầm Thị Mẫn - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa: Thống nhất với các văn bản, dự án Luật khác để hoạt động giám sát được hiệu quả
Đóng góp vào dự án Luật, đại biểu Cầm Thị Mẫn đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật căn cứ chức năng của Quốc hội, HĐND để quy định chức năng, nhiệm vụ, thống nhất với các văn bản, dự án Luật khác để hoạt động giám sát được hiệu quả…
Theo đại biểu Cầm Thị Mẫn, nội dung dự thảo Luật đã bám sát 5 chính sách được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, giải quyết các hạn chế, bất cập của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân hiện hành, được xác định qua tổng kết 7 năm thi hành luật, kết quả nghiên cứu xây dựng đề án của Đảng đoàn Quốc hội về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Đồng thời, đại biểu Cầm Thị Mẫn cũng đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã nghiên cứu kỹ, tiếp thu tối đa các ý kiến góp ý của cơ quan và giải trình cơ bản các ý kiến đã tham gia.
Tuy nhiên, để dự án luật khi được ban hành đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đại biểu Cầm Thị Mẫn đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nhất là về thẩm quyền giám sát để sửa đổi, bổ sung các quy định tại dự thảo luật nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung của dự thảo luật này với các điều luật khác của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân hiện hành, phù hợp, thống nhất với Hiến pháp và hệ thống pháp luật liên quan.
10h33: Đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Nga - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình: Làm rõ nguyên tắc hoạt động giám sát trong dự thảo Luật
Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND tại phiên họp liên quan đến Nguyên tắc hoạt động giám sát, đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Nga bày tỏ nhất trí cần rà soát, xác định đầy đủ nguyên tắc cần thiết của hoạt động giám sát; tuy nhiên, việc bổ sung nguyên tắc như dự thảo chưa phù hợp. Đại biểu đề xuất nên nghiên cứu lồng ghép vào các nội dung liên quan đến mục tiêu, yêu cầu của hoạt động giám sát.
Về xem xét báo cáo, đại biểu cho rằng nên quy định theo hương linh hoạt hơn, cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định đưa các vấn đề cần thảo luận vào chương trình kỳ họp giữa năm, để đảm bảo các đại biểu Quốc hội có thể phản ánh kịp thời các vấn đề mà cử tri quan tâm trong năm. Đồng thời nghiên cứu quy định theo hướng các cơ quan của Quốc hội chỉ thẩm tra các báo cáo trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến.
Về tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát, nhóm vấn đề chất vấn, vấn đề được giải trình trong dự thảo Luật, đại biểu đề nghị nên quy định nguyên tắc, bổ sung quy định giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định các tiêu chí này để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn; trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể sửa đổi, bổ sung kịp thời các tiêu chí mà không ảnh hưởng đến tính ổn định của Luật.
Về việc bổ sung hoạt động giải trình tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Nga đề nghị nên bổ sung hoạt động giải trình tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội như một hình thức giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tổ chức giải trình về những vấn đề thuộc thẩm quyền giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhất là những vấn đề liên ngành, liên quan đến lĩnh vực phụ trách của nhiều cơ quan của Quốc hội. Đồng thời đề nghị cân nhắc nghiên cứu sửa đổi quy định hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hoạt động chất vấn nên tập trung diễn ra tại phiên toàn thể của Quốc hội sẽ phù hợp hơn.
10h38: Đại biểu Dương Văn Phước - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam: Thống nhất việc bổ sung nguyên tắc hoạt động giám sát
Góp ý về nội dung sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3, đại biểu Dương Văn Phước bày tỏ thống nhất việc bổ sung nguyên tắc bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng và thực thi pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương vào Điều 3. Đây không chỉ là nguyên tắc còn là mục đích hướng đến hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp. Bởi lẽ giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp nên tập trung vào xem xét, đánh giá chính sách, pháp luật đã ban hành đã đi vào cuộc sống hay chưa.
Đại biểu Dương Văn Phước cho rằng, trong quá trình đánh giá chính sách, pháp luật, từ nhu cầu thực tiễn, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật trong thời gian tới. Đồng thời trong quá trình đó, các ĐBQH và các Đoàn giám sát cập nhật thêm thông tin để phục vụ cho việc đánh giá, xem xét, đề xuất, thẩm định việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước cũng như của địa phương. Còn việc chấp hành và tuân thủ chính sách pháp luật đã có các cơ quan như thanh tra, kiểm tra, điều tra…
Việc bổ sung nguyên tắc này rất quan trọng và góp phần hạn chế được tình trạng “dẫm chân” nhau, lấn sân các hoạt động với hoạt động giám sát, hoạt động kiểm tra, thanh tra. Đối với nội dung này, dự thảo đưa ra 2 phương án. Đại biểu Dương Văn Phước nhận thấy trình bày theo phương án 2 sẽ hợp lý hơn, vì cả 2 phương án không khác về nội dung, chỉ là kỹ thuật trình bày.
Về sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 7 (khoản 4, Điều 1), đại biểu đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh, sửa đổi khoản 2, Điều 7 về thời gian gửi văn bản để đảm bảo thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 86 Luật Tổ chức chính quyền địa phương: “...Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi nghị quyết mà mình đã ban hành đến Ủy ban thường vụ Quốc hội chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày bế mạc kỳ họp” thay vì quy định “03 ngày kể từ ngày ký văn bản” như dự thảo Luật.
Liên quan đến sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 13 (khoản 6, Điều 1), đại biểu thống nhất sửa đổi, bổ sung thời điểm xem xét báo cáo tại khoản 2, Điều 13 theo phương án 1 của dự thảo. Việc sửa đổi, bổ sung này là phù hợp, tránh được sự trùng lắp không cần thiết trong việc báo cáo Quốc hội kết quả hoạt động của các chủ thể báo cáo.
Cùng với việc xác định rõ thời điểm báo cáo, tránh trùng lắp thông tin báo cáo cho cùng một đối tượng, đại biểu Dương Văn Phước đề nghị nghiên cứu cần tinh gọn cách thức báo cáo, không cần dài dòng mà tập trung vào kết quả cụ thể. Trong thời đại chuyển đổi số, số hóa, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào hoạt động của nhà nước thì báo cáo cũng cần thay đổi, việc Quốc hội giám sát qua báo cáo cũng cần thay đổi.
10h45: Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu
Thay mặt cơ quan soạn thảo, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm trân trọng cảm ơn các đại biểu Quốc hội đã quan tâm thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật. Các ý kiến phát biểu nhất trí với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của dự án Luật, đồng thời thể hiện quan điểm về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau nêu trong Tờ trình dự án luật.
Các đại biểu cũng đã đề nghị chỉnh sửa, hoàn thiện nhiều nội dung của dự thảo luật, đề nghị bổ sung một số nội dung mới nhằm góp phần thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho biết sẽ tiếp thu tối đa các ý kiến của đại biểu Quốc hội về dự án luật.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho biết, trong giai đoạn soạn thảo, bám sát các quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội về định hướng, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo đã xác định rõ quan điểm xây dựng luật, cơ bản thế hiện trong nội dung Tờ trình dự án luật, luật chỉ quy định những vấn đề chung, vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc thẩm quyền của Quốc hội để đảm bảo tính ổn định của dự án luật. Những vấn đề biến động thường xuyên, chưa ổn định thì giao các cơ quan chức năng quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực thi luật, bắt kịp xu hướng mới, tận dụng các thành tựu khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong hoạt động giám sát.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho biết, sau Kỳ họp, Hội đồng Dân tộc sẽ phối hợp với Ủy ban Pháp luật tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ để hoàn thiện hồ sơ dự án luật, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9.
10h52: Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương phát biểu kết thúc phiên thảo luận
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương phát biểu kết thúc phiên thảo luận
Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, qua thảo luận, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội đánh giá cao Cơ quan chủ trì soạn thảo đã chuẩn bị kỹ hồ sơ dự thảo Luật; Ủy ban Pháp luật cũng đã xây dựng Báo cáo thẩm tra đảm bảo chất lượng, đã phân tích, thể hiện rõ quan điểm; các cơ quan của Quốc hội cũng tham gia rất có trách nhiệm…
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho rằng, dự thảo Luật đã bám sát các chính sách đã đề xuất, thể hiện sự cầu thị, thận trọng. Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự thảo Luật, các đại biểu đề nghị cân nhắc nên sửa đổi toàn diện, chứ không dừng lại ở sửa đổi một số điều, vì hiện nay có nhiều vấn đề mới liên quan đến hoạt động giám sát cần được xem xét.
Các đại biểu cũng đề nghị cần quy định rõ phạm vi, thẩm quyền, đối tượng giám sát của các cơ quan giám sát, không để chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đối tượng chịu sự giám sát.
Về hồ sơ dự thảo luật, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương đề nghị cần tiếp tục bổ sung đầy đủ hồ sơ, đặc biệt là đánh giá tác động của những vấn đề mới được đề xuất trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật. Đối với việc bổ sung nguyên tắc hoạt động giám sát, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị Cơ quan chủ trì thẩm tra và Cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp để làm rõ những ưu điểm, hạn chế của từng phương án; có cơ sở vững chắc, bảo đảm tính thuyết phục để báo cáo Quốc hội trong Kỳ họp tới.
Về quy định thời điểm Quốc hội xem xét, thảo luận các báo cáo, Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, nội dung này còn nhiều ý kiến khác nhau; đề nghị Cơ quan chủ trì thẩm tra và Cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp làm rõ các ưu điểm, hạn chế của từng phương án để lựa chọn phương án phù hợp…
Đối với việc bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các cơ quan phối hợp, căn cứ vào định hướng của Trung ương, cấp có thẩm quyền, để nghiên cứu, tham mưu cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Trên cơ sở các ý kiến góp ý tại Phiên thảo luận hôm nay, Phó Chủ tịch Quốc hội giao Thường trực Ủy ban Pháp luật chủ trì, phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo, các cơ quan hữu quan để tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo Luật và báo cáo Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9 tới.