I. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
1. Khái quát các mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 1986-2006
Trong 25 năm từ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước mô hình phát triển kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi quan trọng phù hợp với các điều kiện trong nước và quốc tế vì vậy nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế quốc gia trên quốc tế. Có thể khái quát bởi hai mô hình phát triển theo thời gian như sau:
• Từ 1986 - 1997
Mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là khắc phục khủng hoảng của mô hình kế hoạch hóa tập trung. Đặc điểm quốc tế của giai đoạn này là hệ thống các nước XHCN bị tan rã, nước ta bị cô lập về kinh tế do chính sách cấm vận của Mỹ. Trong khi đó ở trong nước, mô hình phát triển kinh tế dựa trên mối quan hệ toàn diện trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế ) mất dần sự hỗ trợ từ Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu nên nền kinh tế gặp khó khăn, không đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, lạm phát tăng cao cộng với việc điều chỉnh kinh tế vĩ mô chậm được đổi mới để phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời kỳ này, mục tiêu của mô hình tăng trưởng kinh tế là: đáp ứng các yêu cầu ổn định đời sống nhân dân, ổn định kinh tế, ổn định chính trị đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
Các đột phá cơ bản đã được áp dụng trong giai đoạn này bao gồm:
- Đột phá về tư duy chính trị, tư duy kinh tế để xóa bỏ các ràng buộc về thể chế quản lý kinh tế, quản lý nhà nước từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
- Nông nghiệp được coi trọng đổi mới thông qua các chính sách như Chỉ thị 100, Khoán 10 với mục tiêu trong thời gian một nhiệm kỳ Đại hội cơ bản ổn định được đời sống của nhân dân.
- Ngành sản xuất hàng tiêu dùng được chọn làm một bước đột phá với mục tiêu là thay thế hàng nhập khẩu.
- Thực hiện tổng thể các biện pháp chống cấm vận thông qua bước đột phá là thúc đẩy thương mại Việt – Trung.
- Thực hiện đột phá, đổi mới về nhân sự. Thành tựu của giai đoạn này hết sức to lớn, các biện pháp đột phá được chọn đã phát huy được tác dụng. Chỉ trong vòng 5 năm đã ổn định được kinh tế vĩ mô, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Cụ thể, từ một nước nhập khẩu lương thực Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới. Ổn định và mở quan hệ Việt – Trung sang một trang mới, tạo tiền đề quan trọng trong việc Mỹ xóa bỏ cấm vận năm 1994 và Việt Nam tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) một năm sau đó. Tăng trưởng kinh tế đã góp phần ổn định xã hội, ổn định chính trị và bảo vệ CNXH.
• Giai đoạn 1998 -2006
Mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là: tận dụng thời cơ hướng tới xuất khẩu.
Giai đoạn này, tình hình quốc tế có đặc điểm là thế giới 2 cực bị phá vỡ, mô hình đa cực chưa hình thành, kinh tế khu vực rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tệ (bắt đầu từ Thái Lan năm 1997). Ở trong nước, đời sống nhân dân được nâng cao, tích lũy của cải trong xã hội được đầu tư cho phát triển do các nhà đầu tư cảm nhận được sự thông thoáng trong chính sách.
Mục tiêu của mô hình tận dụng thời cơ hướng tới xuất khẩu là tận dụng mọi lợi thế so sánh và điều kiện mở của thị trường Mỹ để phát triển nuôi trồng thủy sản, các ngành công nghiệp chế biến thu hút nhiều lao động với yêu cầu tay nghề thấp. Ngoại lực là quan trọng, nội lực là quyết định. Các đột phá chính trong thời kỳ này có thể nêu ra:
- Tiếp tục chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính.
- Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Ưu đãi với doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, dệt may, da giày xuất khẩu.
Thành tựu của giai đoạn này là đã góp phần đưa tổng kim ngạch XNK dần vượt qua giá trị GDP cả nước, hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam được thị trường quốc tế chấp nhận. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, thành tích xóa đói giảm nghèo được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tạo được bước đi vững chắc cho nước ta trở thành thành viên của WTO.
2. Quan điểm xây dựng mô hình phát triển trong giai đoạn 2012-2020
Để mô hình có thể tạo ra một bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội thì cần được xây dựng trên những vấn đề cơ bản như sau:
- Huy động được tổng lực mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - ổn định xã hội.
- Tận dụng được các lợi thế của đất nước trong 10 năm tới là ổn định chính trị, giá nhân công hợp lý (lương thấp cộng chi phí đào tạo thấp).
- Tận dụng được bối cảnh quốc tế: các nước ASEAN khủng hoảng kéo dài; kinh tế khu vực và thế giới vẫn bị ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính năm 2008 và khủng khoảng nợ công ở châu Âu từ năm 2011.
- Sử dụng mô hình tam giác phát triển: kinh tế - bảo vệ môi trường - đảm bảo an sinh xã hội để xây dựng mục tiêu ngắn và trung hạn nhằm tăng cường thông tin 2 chiều giữa vĩ mô và vi mô, tạo sự đồng thuận trong xã hội và công tác đánh giá hiệu quả của cơ quan điều hành vĩ mô.
- Bám sát Cương lĩnh xây dựng CNH - HĐH năm 2011 đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua.
- Tăng cường hợp tác quốc tế để tận dụng được sự giúp đỡ của các đối tác quốc tế vào phát triển kinh tế Việt Nam.
II. PHÁC THẢO MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN 2012-2020
1. Tên gọi
Tận dụng thời cơ, đưa kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận, một khâu trong chuỗi giá trị của các sản phẩm được bán ra trên thị trường thế giới.
2. Mục tiêu
Mục tiêu cao nhất là đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để dễ hình dung mục tiêu này, ta có thể đưa ra một số tiêu chí cụ thể như sau: vào năm 2020 nền kinh tế nước ta có quy mô tương ứng với Thái Lan năm 2010 về GDP, về cơ sở hạ tầng; tương đương với Singapore năm 2000 về dịch vụ tài chính - ngân hàng và dịch vụ hàng hải logistics; Về hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin đạt trình độ tương đương với trình độ các nước thuộc nhóm OECD. Nước ta trở thành một trong nhóm 3-5 nước có sản lượng dệt may - da giày khoảng 30-40 tỷ USD/năm ở mảng thị trường số đông; Có công nghiệp chế biến nông thủy sản đáp ứng yêu cầu của các nước G7, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm xanh, không biến đổi gen và phục vụ cho người tiêu dùng có độ tuổi trên 50. Điều quan trọng trong việc xây dựng mô hình tái cơ cấu nền kinh tế là khi đưa ra các con số cụ thể trong mục tiêu của năm 2020 thì đồng thời đưa ra được phương án trả lời 2 câu hỏi: ai là thực hiện và sẽ thực hiện các chỉ tiêu đó với nguồn lực tài chính nào? Như vậy, đã gần như có câu trả lời và việc điều hành vĩ mô trong 10 năm tới buộc phải thực hiện theo hướng: Chính phủ chỉ làm cơ chế chính sách và chọn một số khâu đột phá trong đó sử dụng nguồn lực từ NSNN, còn người thực hiện không chỉ là DNNN mà các doanh nghiệp hình thành từ nguồn vốn FDI hoặc các thành phần kinh tế khác cũng có vai trò quan trọng.
Sau khoảng 15 năm thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của những nước Đông Nam Á trên đã đạt được những bước tiến quan trọng. Đơn cử là, chỉ số GDP bình quân đầu người đã tăng gấp đôi. Nhưng nếu kết hợp với tốc độ tăng dân số và số GDP tuyệt đối thì tốc độ phát triển là rất ấn tượng. Cụ thể, GDP của bốn nước này đều tăng gấp ba lần, qua đó tiềm lực thực của nền kinh tế có những bước phát triển vượt bậc. Dù đạt những thành tựu lớn về kinh tế nhưng cả bốn nước này đều chưa được công nhận là nước công nghiệp ở giai đoạn đầu chứ chưa nói tới là cơ bản theo hướng hiện đại. Nhìn hai nước có GDP tương đương Việt Nam là Malaysia và Thái Lan đều thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Malaysia, Thái Lan vào khoảng 7,2%/năm và 6,1%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng gấp sáu lần, với tốc độ tăng bình quân khoảng 10%/ năm. Một trong những chỉ số phản ánh kinh tế vĩ mô là mức nợ tuyệt đối của quốc gia với nước ngoài và tỷ lệ tương đối so với GDP cho thấy tốc độ tăng nợ thấp hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Về con số tuyệt đối, cả tăng trưởng kinh tế và nợ nước ngoài đều tăng trên ba lần, tuy nhiên tỷ lệ tương đối trên GDP chỉ ở mức dưới 1% năm.
Nếu nhìn sang nước láng giềng Trung Quốc, mô hình tăng trưởng từ năm 1978 đến nay cũng chia là 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là giai đoạn hướng Đông hay còn gọi là phát triển vùng ven biển, người giàu trước kéo người giàu sau kéo dài suốt 20 năm của thế kỷ 20. Trong giai đoạn này mọi nguồn lực của đất nước được tập trung vào các vùng, các khu kinh tế có lợi thế so sánh để hình thành 5 đặc khu kinh tế, 5 đầu tàu kéo cả nền kinh tế Trung Quốc. Đây là thời kỳ Trung Quốc mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, tận dụng thị trường nội địa, phát triển công nghiệp tiêu dùng phục vụ xuất khẩu. Tư tưởng xuyên suốt giai đoạn này là những việc gì có lợi cho phát triển kinh tế là được thực hiện. Sang thế kỷ 21, Trung Quốc bước sang giai đoạn 2 với chính sách hướng Tây, xây dựng xã hội phát triển hài hòa. Với lợi thế thành viên mới của WTO còn có thời gian ân hạn chuyển đổi, Trung Quốc đã có sự bứt phá thần kỳ, trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, những khoảng cách phát triển 2 vùng Đông - Tây đã được phát hiện nhưng cũng cần có độ dài thời gian để khắc phục và vì thế những dấu hiệu bất ổn xã hội đã được một số thế lực tận dụng và được trình bày dưới góc nhìn của “kính lúp”.
Bằng việc đánh giá nhanh một vài chỉ tiêu kinh tế chúng ta thấy trong quá trình phát triển kinh tế, các nước trong khu vực cũng đều quan tâm đến vấn đề tạo ra được cơ cấu kinh tế phù hợp với bối cảnh quốc tế và chú trọng giải quyết các vấn đề đảm bảo an sinh xã hội.
Qua phân tích các số liệu và cách đặt vấn đề nêu trên, tôi cho rằng cần phải hiểu khái niệm Việt Nam cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại như sau: đến 2020 Việt Nam sẽ có mô hình tăng trưởng “tương tự như các nền công nghiệp mới (NICs)” tuy chưa đạt tới trình độ như Hàn Quốc hay Đài Loan nhưng có thể đuổi kịp Thái Lan, Malaysia về một số chỉ tiêu kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ. Cần phải nhìn thẳng vào thực tế rằng Việt Nam đang ở cách khá xa cả về thu nhập bình quân đầu người cũng như trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ của các nước NICs, khoảng cách này không thể xóa bỏ trong thời gian 10 năm. Ngay việc đuổi kịp trình độ phát triển của Thái Lan và Malaysia cũng đã là một thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam trong việc lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế vĩ mô và lựa chọn các sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh cao của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Xin lấy tỷ trọng nông nghiệp trong cấu trúc kinh tế làm ví dụ, tính đến thời điểm 2005 thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của hai nước nói trên chỉ dao động trong khoảng 10%. Nếu so sánh việc chuyển đổi tỷ trọng nông nghiệp trong giai đoạn 2005-2010 của Việt Nam vừa qua (trong 5 năm chỉ giảm được 0,1% tỷ trọng nông nghiệp trong GDP) thì để giảm tỷ lệ này xuống 10% trong vòng 10 năm là một thách thức lớn, đòi hỏi những đột phá táo bạo và mạnh mẽ trong tư duy phát triển nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng.
Bên cạnh đó, nội hàm của “bẫy thu nhập trung bình” là một khía cạnh đáng quan tâm khác về mô hình tăng trưởng đó được nhiều nhà khoa học tranh luận trong thời gian qua. Tuy nhiên, đến nay chưa có nhà kinh tế học nào đưa ra được một khái niệm cụ thể, chính xác về “bẫy thu nhập trung bình”. Theo quan điểm của tôi, khái niệm “bẫy thu nhập trung bình” là để chỉ các nước đang phát triển trong một quãng thời gian khoảng 3-5 năm có nguồn vốn đầu tư lớn nhưng tốc độ tăng trưởng cả về GDP và GDP bình quân đầu người vẫn thấp, chất lượng cuộc sống không được cải thiện, nền kinh tế có xu hướng bị đẩy dần ra khỏi chuỗi giá trị của sản phẩm quốc tế và sự độc lập, tự chủ về kinh tế bị giảm dần. “Bẫy thu nhập trung bình” không giới hạn cụ thể sẽ xảy ra khi thu nhập bình quân đầu người là 2.000 USD hay 5.000 USD.
Tuy nhiên, tôi cho rằng vấn đề hiện nay của Việt Nam không phải là “bẫy thu nhập trung bình” mà là “bẫy tăng trưởng”. Chúng ta thời gian qua tuy đạt được tốc độ tăng GDP và GDP bình quân đầu người vào loại cao trong nhóm các nước đang phát triển nhưng kèm theo đó là lạm phát cao vào tốp năm trên thế giới, tốc độ tăng nợ công cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP, bội chi ngân sách tăng cao, công nghệ của các ngành sản xuất còn lạc hậu, hiệu quả đầu tư giảm dần và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, sự phân hóa vùng miền thể hiện càng lúc càng rõ nét và xã hội đang có xu hướng phân giai tầng với tốc độ nhanh. Trong lúc đó thu nhập bình quân đầu người của chúng ta chưa đạt tới ngưỡng 1.200 USD. Như vậy, bài toán đặt ra cho chúng ta là mặc dù tốc độ tăng đầu tư cao, tốc độ tăng GDP cũng vào loại cao trong khu vực và thế giới, các chỉ tiêu về xóa đói giảm nghèo được cải thiện nhưng kinh tế vĩ mô không ổn định. Ngoài ra, đời sống của đại bộ phận những người làm công hưởng lương gặp khó khăn do lạm phát cao kéo dài mà đây lại là bộ phận lao động trong lĩnh vực quyết định tăng trưởng kinh tế (công nghiệp và dịch vụ) và bộ phận làm dịch vụ công của các cơ quan quản lý nhà nước.
. Bốn nhóm vấn đề cơ bản cần tập trung giải quyết theo mục tiêu phân kỳ 5 năm và hàng năm.
Với những quan điểm về xây dựng mô hình tăng trưởng, những phân tích, so sánh với các nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam trong các phần trình bày trên, đồng thời dựa trên điều kiện thực tế của nước ta, tôi đề xuất bốn nhóm vấn đề cơ bản cần tập trung giải quyết như sau:
3.1. Tạo sự đồng thuận trong nhận thức phát triển bền vững
Xác định dùng lý thuyết tam giác phát triển làm thước đo độ tương thích của mô hình phát triển kinh tế với các yếu tố xã hội, môi trường. Đồng thời sử dụng lý thuyết này làm cơ sở cho việc xây dựng lộ trình tác động của kinh tế đối với hai lĩnh vực môi trường và an sinh xã hội, cũng như tương tác giữa các lĩnh vực với nhau. Lý thuyết phát triển trước hết là một sản phẩm của nghiên cứu khoa học nên phải gắn với một điều kiện lịch sử cụ thể. Ngoài ra, số liệu và kết quả công bố là sản phẩm của một thời điểm nghiên cứu cụ thể với các yếu tố đầu vào là bất biến, theo đó mới xác định được các tác động của yếu tố kinh tế phát triển đối với vấn đề bảo vệ môi trường và thực hiện an sinh xã hội.
Điều cần lưu ý là vấn đề bảo vệ môi trường chỉ là bắt đầu quá trình bảo vệ sự cân bằng sinh thái đối với môi trường sống của con người. Thực tế tại nước ta hiện nay nhiều hệ cân bằng sinh thái đã bị phá vỡ trạng thái ban đầu của nó mà nhiều khi do những nguyên nhân không trực tiếp từ các hoạt động phát triển kinh tế trong nước. Một ví dụ điển hình là sự suy thoái chất lượng nước sông Mê Kông đã ảnh hưởng đến số lượng, chủng loại các loại cá ở cuối nguồn, thay đổi thủy lực dòng chảy của sông, làm giảm sút lượng phù sa, hay làm biến đổi vùng cửa sông gây nhiều thiệt hại cho ngành nuôi trồng thủy sản, ngành giao thông. Tuy nhiên, nguyên nhân lại không bắt nguồn từ An Giang, Đồng Tháp mà còn ở xa hơn ở phía thượng nguồn của dòng sông. Một ví dụ khác, tác động trực tiếp đến môi trường sinh thái của dòng sông ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là các công trình xây dựng cơ bản, đê bao ngăn lũ v.v… định hướng phát triển nông nghiệp, thủy sản và lúa đã phá vỡ hệ sinh thái ngập lũ điển hình mà hướng tới hệ sinh thái đê bao của miền Bắc làm cho độ màu mỡ của đồng bằng bị giảm, tăng chi phí bảo vệ phòng chống sâu bệnh v.v…
Vấn đề xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế không phải là ở 6% hay 8% mà là với tốc độ nào thì nền kinh tế phải chi ít nhất cho môi trường nhưng vẫn đảm bảo cân bằng sinh thái động của thiên nhiên đặc biệt là ít tác động tiêu cực nhất đến đời sống con người. Tuy vậy, sự đầu tư trở lại cho môi trường phụ thuộc vào trình độ nhận thức và ý thức trách nhiệm xã hội của công dân và doanh nghiệp. Ví dụ như là sự kiện tích nước của một số hồ thủy điện ở miền Trung trong khi vẫn còn hơn 20 hộ dân không chịu tái định cư. Họ không phải là những nhà đấu tranh vì môi trường, vì sự tồn tại của lá phổi xanh và lo sợ trước sự hình thành một vùng tiểu khí hậu mới do hồ thủy điện tạo ra mà ở đây là sự tính toán về lợi ích kinh tế của các hộ dân với doanh nghiệp. Vì vậy, với một nguồn vốn đầu tư xác định tạo ra một nguồn lợi kinh tế cụ thể thì câu hỏi đặt ra là lợi nhuận sẽ được phân chia như thế nào? Ai là người được thụ hưởng chính, trực tiếp, hay ai là người thụ hưởng gián tiếp khi phải chuyển đổi nghề, chỗ ở cho phù hợp với sự biến đổi môi tường sống do tác động của phát triển kinh tế. Nếu không tạo được sự minh bạch thì kinh tế càng phát triển, mâu thuẫn trong xã hội ngày càng lớn, tiềm ẩn bất ổn chính trị, xã hội.
3.2. Tạo sự đồng thuận trong hội nhập kinh tế quốc tế
Trong nền kinh tế phẳng hiện nay, không có một quốc gia nào, không một vùng lãnh thổ nào có lợi thế tuyệt đối. Do đó, không một quốc gia nào có thể đóng cửa để sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, cần xác định rõ vấn đề độc lập tự chủ, chủ quyền quốc gia ở khía cạnh kinh tế là có sự khác biệt so với tư duy và nhận thức của thời kỳ trước. Độc lập tự do thể hiện trong kinh tế ở thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế phải được hiểu là nền kinh tế Việt Nam hay doanh nghiệp Việt Nam tham gia bình đẳng trong việc hình thành một sản phẩm hoàn chỉnh thương hiệu quốc tế nào đó. Điều cần quan tâm ở đây là nguyên liệu chúng ta đưa vào sử dụng để tham gia quá trình sản xuất sản phẩm đó phải có giá thành hợp lý, bù đắp lại được các bất ổn về môi trường sinh thái do khai thác tài nguyên gây ra, đồng thời phải đủ để đầu tư tạo một sự cân bằng mới với sự hỗ trợ của công nghệ. Ngoài ra, đơn giá công nhân trong sản xuất sản phẩm vừa bù đắp được chi phí lao động, tái tạo sức lao động đồng thời có tích lũy để đào tạo nâng cao tay nghề và nâng cao đời sống. Thông qua các hoạt động kinh tế, phân chia quyền lợi kinh tế mà làm các nước hiểu Việt Nam hơn, Việt Nam cũng hiểu được mối quan tâm của các nước hơn. Bên cạnh đó, thông qua việc bảo vệ quyền lợi kinh tế hợp pháp hình thành cơ chế phối hợp cùng nhau trên các diễn đàn khu vực và quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là bất biến nhưng phân chia lợi nhuận kinh tế phải theo lợi thế so sánh.
Chỉ có trên nhận thức chung như vậy chúng ta mới giải thích, tạo được sự đồng thuận xã hội khi phải bán than ở miền Bắc và nhập than ở miền Nam. Vấn đề ở đây là hiệu quả kinh tế khi sử dụng lợi thế so sánh. Giá bán chưa quan trọng bằng việc sau khi so sánh cùng một khối lượng than như thế nếu vận chuyển từ Quảng Ninh vào miền Tây cao hơn nếu so sánh việc nhập từ nước ngoài thì chúng ta phải nhập. Vấn đề ở đây phải trả lời được câu hỏi của xã hội đặt ra là khai thác tiếp để đổi than lấy than mà vẫn thu được lợi nhuận, tạo ra được việc làm hay là dừng lại không khai thác để dành cho thế hệ sau. Câu trả lời chỉ có thể có được nếu chúng ta kết hợp hài hòa 3 nhóm lợi ích đã nêu trong quan điểm phát triển ban đầu về kinh tế - bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội.
3.3. Tạo sự đồng thuận trong việc hình thành quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất trong bối cảnh mới: Xã hội tin học
Với thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay, việc kỳ vọng cao và tập trung quá nhiều nguồn lực vào đầu tư phát triển khoa học cơ bản có thể là một sai lầm, gây lãng phí nguồn lực hạn hẹp của đất nước. Nhìn từ khía cạnh lý thuyết kinh tế, tăng trưởng kinh tế là phần giá trị gia tăng của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư vào phát triển khoa học cơ bản để tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao là đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận thẳng thắn vào điều kiện của Việt Nam hiện nay, việc quá coi trọng đầu tư vào lĩnh vực này cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Đầu tư vào lĩnh vực này đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thêm vào đó là lực lượng lao động có tay nghề cao, liệu sau đó sản phẩm từ lĩnh vực này có thể bù đắp được chi phí lớn như vậy không?
Hiện nay Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao, cộng thêm các điều kiện về vốn và nhân lực còn hạn chế, có thể nói rằng chúng ta vẫn nên coi trọng những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động để tận dụng lực lượng lao động dồi dào hiện có. Nên coi việc ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ ở nước ta là trọng tâm, là một đặc thù, theo đó các nhà nghiên cứu khi có các ý tưởng mới, sáng kiến mới được áp dụng vào sản xuất cũng phải được đãi ngộ như người có vốn, có sức lao động.
Trong thời gian tới, lực lượng sản xuất của khối DNNN, của khối có vốn đầu tư nước ngoài và khối dùng vốn của các thành phần kinh tế khác sẽ cùng phát triển và có sự thay đổi về tỷ lệ giữa ba khối này. Theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Cương lĩnh 2011 thì lực lượng sản xuất của khối các thành phần kinh tế khác sẽ có xu hướng phát triển mạnh. Vấn đề đặt ra là quan hệ sản xuất trong ba khối này có gì khác biệt hay vẫn áp dụng chung một mô hình tổ chức về tổ chức đảng, công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác đảm bảo quyền lợi của người lao động. Để đảm bảo sự đồng thuận xã hội với việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trong 10 năm tới phải phát triển lực lượng sản xuất trên ba mặt: xây dựng thể chế bảo đảm sự bình đẳng của lực lượng sản xuất của cả ba khối, tránh tình trạng có sự phân biệt đối xử về lương, về vị thế chính trị trong xã hội với lực lượng sản xuất trong ba khối; xác định rõ ưu tiên phát triển về số lượng của khối nào hay phát triển dàn hàng ngang đồng thời nhưng phải đảm bảo tính hiệu quả của các mô hình tập hợp trên các lĩnh vực: tập hợp người lao động, rèn luyện và giáo dục chính trị tư tưởng cũng như đấu tranh đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động. Cuối cùng là tạo một nhận thức mới của xã hội đối với mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, tạo điều kiện hình thành một đội ngũ công nhân mới, đội ngũ người lao động có tác phong công nghiệp của thời kỳ công nghệ thông tin song song với hình thành và phát triển một đội ngũ những người làm quản lý vi mô, người sử dụng lao động có tri thức, có trách nhiệm xã hội.
3.4. Tạo sự đồng thuận về chuyển đổi bộ máy quản lý nhà nước từ chính quyền sản xuất sang chính quyền quản lý
Cần xác định rõ mục tiêu cuối cùng là xây dựng một bộ máy chính quyền làm tốt chức năng quản lý. Có lộ trình cụ thể chuyển mô hình lưỡng tính hiện nay của chính quyền quản lý sản xuất sang chính quyền quản lý nhà nước trong vòng 5 năm tới. Trước mắt, trong nhiệm kỳ Đại hội và Quốc hội này chủ động thành lập cơ quan quản lý sản xuất theo ngành, lãnh thổ ở một số Bộ, địa phương trọng điểm để sang giai đoạn 2016-2020 hình thành một cơ quan quản lý vốn - tài sản của Nhà nước không nằm trong bộ máy Chính phủ. Theo mô hình này các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước có trách nhiệm trả lợi nhuận như vay từ ngân hàng thương mại và con số nộp vào ngân sách được công khai kiểm toán. Căn cứ vào nguồn thu ổn định này và Luật NSNN, Quốc hội và Chính phủ mới tiến hành phân bổ ngân sách ổn định trong một thời kỳ. Có như vậy mới tăng cường được sự minh bạch trong chi tiêu công, góp phần làm giảm môi trường tiêu cực tham nhũng. Có như vậy xã hội mới giám sát được DNNN và có đánh giá đúng mức, đãi ngộ thỏa đáng với đội ngũ các nhà quản trị trong DNNN.
Như vậy, Chính phủ mới chuyển hẳn sang nhiệm vụ quản lý chung của đất nước, không can thiệp vào công việc sản xuất của doanh nghiệp. Những sự kiện trong 2 năm qua ở Vương quốc Bỉ làm một ví dụ minh chứng rõ trong nền kinh tế thị trường vai trò của Chính phủ là ban hành chính sách và đảm bảo cung ứng dịch vụ công cho người dân. Còn các doanh nghiệp tự hoạt động theo hành lang pháp lý đã công bố để lập kế hoạch sản xuất và phát triển doanh nghiệp và thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chính vì vậy, 2 năm qua với Chính phủ lâm thời nền kinh tế Bỉ vẫn vận hành tốt và nằm trong số các quốc gia có chỉ số kinh tế vĩ mô tương đối tốt trong khu vực sử dụng đồng Euro.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của việc chuyển đổi mô hình phát triển của Chính phủ là xác định: đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế để có định hướng thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế trên ba khâu đột phá đã được Hội nghị TW3 (khóa XI) xác định là: đầu tư công - doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại. Ba khâu đột phá tái cơ cấu phải lấy mục tiêu tách dần nhiệm vụ sản xuất từ Chính phủ về doanh nghiệp, Chính phủ sử dụng đầu tư công như là một đòn bẩy có tính chất định hướng phát triển theo kế hoạch của Chính phủ. Bên cạnh đó, tái cơ cấu khối ngân hàng thương mại cổ phần là lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và đảm bảo huy động nguồn lực xã hội cho phát triển để chia sẻ với nhà nước trong những ngành, lĩnh vực sinh lợi. Đồng thời cũng là một kênh giám sát, thẩm định quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nói riêng, của toàn xã hội nói chung.
III. TIỀM NĂNG TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM
1. Về nguồn tài nguyên
Trong một thời gian dài và ngay cả hiện nay khi xây dựng kế hoạch phát triển, các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà khoa học đều đưa ra yếu tố nguồn tài nguyên của đất nước là tiềm lực quan trọng theo định tính. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay cần có đánh giá khác, thực tiễn và hiệu quả hơn. Xin đưa ra đây những số liệu về một số tài nguyên chính như dầu mỏ, than đá để góp phần định hướng triển khai mô hình theo tư duy mới.
Hàng năm, trên báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước dầu thô đóng góp khoảng 22-24% tổng thu. Đây là đóng góp rất lớn của ngành công nghiệp dầu khí. Nhưng đứng trên bình diện vĩ mô, riêng năm 2010 nhập siêu từ xăng dầu khoảng 2 tỷ USD và chiếm tỷ trọng hơn 20% nhập siêu của cả năm. Mỏ Bạch Hổ đang ở giai đoạn đóng mỏ nên sản lượng giảm dần, số lượng mỏ mới trong nước đưa vào khai thác không đủ bù sản lượng giảm của Bạch Hổ. Vì vậy, về cơ bản chúng ta vẫn là quốc gia nhập khẩu dầu mỏ và chế phẩm từ dầu mỏ. Khi đã xác định như vậy thì quan hệ đối ngoại của đất nước cũng phải phục vụ cho nhận thức này. Bên cạnh những mối quan hệ truyền thống thì cũng phải chú trọng đến những nước có thể hợp tác với Việt Nam để tận dụng những lợi thế so sánh của từng nước để cùng phát triển: ví dụ đối tác có tài nguyên dầu khí nhưng hạn chế về nông nghiệp thì chúng ta hợp tác trao đổi thương mại, hoặc cùng đối tác đầu tư và khai thác nguồn nguyên liệu của phía đối tác phục vụ phát triển kinh tế của họ và đáp ứng nhu cầu nước ta.
Chúng ta có trữ lượng than đá dự báo hơn 100 tỷ tấn nhưng phân bố mỏ chủ yếu ở vùng Đông Bắc của Tổ quốc và chủ yếu là đơn chủng loại không đáp ứng được nhu cầu luyện thép. Do đặc điểm địa lý của đất nước nên cự ly vận chuyển than từ phía Bắc vào tiêu thụ thị trường phía Nam làm cho giá thành một tấn than cùng chủng loại cao hơn nhập từ các nước lân cận. Vì vậy, việc nâng sản lượng khai thác một mặt không giải quyết được vấn đề nhập khẩu than ở niềm Nam, mặt khác không phải là có vốn sẽ nâng sản lượng khai thác lên được mà phụ thuộc vào khả năng cân bằng sinh thái tự nhiên, phụ thuộc vào chiến lược an ninh năng lượng quốc gia và quan trọng là phụ thuộc vào mô hình phát triển kinh tế - xã hội.
Tương tự như hai loại khoáng sản lớn đã nêu, chúng ta còn bôxit, quặng sắt, quặng titan hay nguồn nước ngọt tuy có khối lượng lớn nhưng để trở thành nguồn lực cho phát triển kinh tế yêu cầu phải có một nguồn lực tài chính lớn vì vậy vừa phải là tiềm năng lợi thế vừa là thách thức. Trong 10 năm tới, cần phải xác định rõ có đầu tư khai thác các khoáng sản này không và chế biến đến mức độ sản phẩm thế nào với nguồn lực tài chính có hạn của Việt Nam hiện nay. Đồng thời, phải đảm bảo được cân bằng sinh thái tự nhiên, hạn chế tác động tiêu cực của việc khai thác đến đời sống người dân.
2. Về nguồn nhân lực
Lợi thế của chúng ta là số lượng người trong độ tuổi lao động lớn (62% dân số) nhưng hạn chế là khoảng 70% của số lao động này xuất thân từ nông thôn và sản xuất nông nghiệp. Trong mô hình tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội cần phải đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi nghề của lao động từ nông nghiệp với các dự kiến kinh phí đào tạo và điều quan trọng là kinh phí đảm bảo điều kiện sống tối thiểu khi di cư ra thành phố và khu công nghiệp. Qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, những vấn đề gắn quy hoạch phát triển đô thị với phát triển công nghiệp, gắn với đảm bảo đời sống cho đại bộ phận người lao động từ nông thôn ra thành phố đã không được quan tâm đúng mức. Nhìn chung, đời sống người lao động tại các khu công nghiệp ven thành phố gặp rất nhiều khó khăn về chỗ ở, về giáo dục, chăm sóc sức khỏe cũng như các nhu cầu sinh hoạt giải trí khác. Nhiệm vụ của mô hình phát triển và phân vùng kinh tế được xây dựng cho giai đoạn đến 2020 phải đáp ứng được yêu cầu vừa đào tạo nghề phù hợp phục vụ trực tiếp cho tăng trưởng nhưng không tạo áp lực di cư lên các thành phố lớn mà hạ tầng cơ sở vốn đã yếu kém. Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phải bám vào mục tiêu Cương lĩnh và Chiến lược 10 năm để tránh lãng phí nguồn lực đất nước về kinh phí, về con người và thời gian.
3. Về vị trí địa lý
Bản thân vị trí địa lý hay điều kiện tự nhiên không hẳn đã là lợi thế hay tiềm năng quyết định khả năng phát triển. Tuy Việt Nam có nhiều vị trí có khả năng thuận tiện cho việc xây dựng cảng nước sâu nhưng hậu cần cảng, hậu phương cảng không có, nên nếu đầu tư cũng làm cho chi phí khai thác sau này trở nên cao hơn rất nhiều so với các khu vực khác. Kinh nghiệm cảng Cái Lân, cảng Vân Phong của Việt Nam là một bài học quý cho việc xác định lợi thế, chúng ta vay được tiền, có đủ trình độ thi công nhưng hiệu suất cảng bị hạn chế, sau khi đi vào sử dụng liên tục lỗ, chỉ đạt 20% công suất thiết kế. Kinh nghiệm quốc tế về cảng Klang của Malaysia cũng là bài học kinh nghiệm về sử dụng lợi thế điều kiện tự nhiên. So với cảng nước sâu ở Việt Nam, cảng Klang có nhiều lợi thế hơn về vốn, về quy hoạch, về công nghệ và điều kiện tự nhiên nhưng khi đi vào khai thác thì thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là không cạnh tranh được với cảng Singapore về hậu cần cảng, hậu phương cảng và áp dụng công nghệ mới logistics. Thời gian vừa qua chúng ta quá chú trọng đến các yếu tố địa lý tự nhiên mà ít quan tâm đến các điều kiện để cho dự án hay công trình hoạt động có hiệu quả. Việc phát triển kinh tế theo lợi thế so sánh trong vùng ít được quan tâm do bị ảnh hưởng bởi địa giới hành chính và lợi ích cục bộ. Đây chính là nguyên nhân quan trọng làm cho chỉ số ICOR của Việt Nam ngày càng cao, hiệu quả vốn đầu tư thấp nên không huy động các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác mà chỉ dựa vào đầu tư công phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
4. Về hội nhập và toàn cầu hóa
Cũng như ba lợi thế tiềm năng đã nêu ở trên, hội nhập kinh tế mở ra cơ hội mới cho việc thâm nhập và xác định thương hiệu ở thị trường mới nhưng đồng thời cũng tạo ra thách thức cho Việt Nam. Trong lĩnh vực công nghệ nhờ có hội nhập kinh tế chúng ta đã tiếp cận được công nghệ hạng 2 thông qua dự án ODA, doanh nghiệp FDI. Đây là những công nghệ ngay cả các Trường đại học hàng đầu Việt Nam cũng chưa tiếp cận được về lý thuyết như công nghệ thi công cầu lớn, về mạch tích hợp, v.v… Trong thực tế, mô hình phát triển công nghệ “đàn sếu bay” vẫn đang áp dụng rộng rãi trên thế giới nên việc nhập khẩu và áp dụng tiêu chuẩn công nghệ phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội môi trường và lao động của đất nước. Vấn đề khí thải là một ví dụ, hiện nay EU đang áp dụng bắt buộc tiêu chuẩn EURO 3 và khuyến khích EURO 4.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta cho nhập xe ô tô với tiêu chuẩn nào EURO 2 hay 3? Không nên tách rời điều kiện lịch sử cụ thể vì các nước đang phát triển không làm ra nhiều khí CO2 đến mức độ gây ra hiệu ứng nhà kính.
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề xác định được thị trường là quan trọng. Trong 10 năm tới để phát triển kinh tế với tốc độ như chúng ta mong muốn thì bên cạnh các thị trường mà chúng ta đang xuất siêu như Mỹ, châu Âu thì phải tập trung khai thác thị trường miền Tây của Trung Quốc thông qua việc phát triển hai hành lang một vành đai.
IV. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
1. Về thể chế chính sách và mô hình quản lý
- Kiên quyết tách chức năng quản lý nhà nước và vai trò chủ sở hữu của Chính phủ và các Bộ, tỉnh/thành phố đối với các DNNN, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Trước mắt, trong giai đoạn 2012-2015 cần tách xong cấp Bộ và tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và hình thành một cơ quan chuyên ngành quản lý phần vốn - tài sản tại Việt Nam tương đối độc lập với Chính phủ.
- Nhà nước làm tốt vai trò quản lý trong việc xây dựng quy hoạch phát triển vùng vượt qua không gian hành chính để tận dụng lợi thế so sánh của từng địa phương với nhau và lợi thế của cả nước.
- Xây dựng hệ tiêu chí mới về đánh giá phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và phân bổ ngân sách cho các địa phương theo lợi thế so sánh.
2. Thực hiện khẩn trương một số đột phá về tái cơ cấu
Do điều kiện bài viết có hạn nên chỉ đưa ra những cơ sở số liệu cơ bản để góp phần hình thành quan điểm chỉ đạo về tái cơ cấu đầu tư công, khối DNNN, vì đây là hai lĩnh vực mà Nhà nước, cụ thể là Chính phủ có thể tác động tích cực đến việc chuyển đổi mô hình phát triển và chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động.
Về vấn đề đầu tư công, câu hỏi đặt ra là cần coi trọng đầu tư công vào lĩnh vực nào? Hiện nay, lợi thế của nền kinh tế nước ta là khả năng sản xuất và cung ứng nhiều hàng hóa trong lĩnh vực nông nghiệp để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nhóm hàng nông lâm thủy sản sẽ phải giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế để phù hợp với mô hình phát triển của nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, vấn đề cần lưu ý là chỉ giảm về tỷ trọng nhưng phải tăng về số tuyệt đối. Theo số liệu công bố và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm thì tại thời điểm năm 2011 với kim ngạch xuất khẩu tuyệt đối của các sản phẩm nông lâm thủy sản đã đạt 19,085 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 20,6%) nhưng đến năm 2015 và 2020 thì tỷ trọng giảm còn 17,7% và 13% nhưng số tuyệt đối đạt 22,47 và 27,81 tỷ USD.
Trong đóng góp vào thành tích nói trên với khoảng 7 triệu tấn gạo xuất khẩu của năm 2011, xuất khẩu gạo nằm trong nhóm 15 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu hơn 2 tỷ USD. Căn cứ vào Quy hoạch sử dụng đất đến 2020 thì chúng ta phải phấn đấu quyết liệt và có chính sách đúng thì mới giữ được khoảng 3,8 triệu hécta đất trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Như vậy, về cơ bản trong 10 năm tới mặt hàng gạo sẽ khó có khả năng tăng khối lượng xuất khẩu và việc tăng hay giảm kim ngạch của mặt hàng này chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng gạo xuất khẩu. Trong khi đó mặt hàng thủy sản dự kiến tốc độ tăng bình quân 10 năm khoảng 6% với kim ngạch đạt khoảng 9 tỷ USD. Với những số liệu thống kê và dự báo như trên tái cơ cấu trong 2011-2015 và định hướng 10 năm 2011-2020 phải đảm bảo được yêu cầu tăng trưởng trong nông nghiệp, là khu vực có nhiều lao động và gần 70% dân số nước ta đang sống và làm việc liên quan đến lĩnh vực này.
Như vậy, trong 10 năm tới thực hiện tái cơ cấu trong lĩnh vực nông nghiệp cần chọn trồng lúa và nuôi trồng thủy sản là khâu quyết định. Vấn đề đặt ra ở đây là ngay trong năm 2012 phải rà soát lại được các hạ tầng phục vụ hai chuyên ngành này trên phạm vi cả nước để có những điều chỉnh quy hoạch đồng bộ. Trước mắt cần tập trung vốn đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực thủy lợi để có thể tách bạch hệ thống thủy lợi dành cho trồng lúa và hệ thống thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản riêng biệt. Nguồn vốn trái phiếu chính phủ cần tập trung ưu tiên cho lĩnh vực này để cơ bản hình thành được hệ thống thủy lợi với các yêu cầu tiết kiệm nước, đảm bảo xử lý môi trường cho nuôi công nghiệp. Cần quy hoạch vùng trồng lúa để có thể áp dụng cơ giới hóa trong nông nghiệp về phát triển lực lượng sản xuất ở lĩnh vực nông nghiệp. Mặt khác, cần nghiên cứu và sửa đổi Luật Đất đai về tích tụ ruộng đất, xây dựng hành lang pháp lý cho việc giao đất ổn định sau 2013 và cơ chế để nông dân hợp tác với nhau góp ruộng hình thành các cánh đồng đủ lớn cho sản xuất theo hướng công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, hình thành nên một quan hệ sản xuất mới trong nông thôn xuất phát từ tư tưởng hợp tác của giai cấp công nhân, bảo đảm ổn định khu vực có số lượng người lao động đông nhất cả nước nhưng nghèo nhất nước này.
Trong thời gian kế hoạch 5 năm 2011-2015, các ngành khoa học công nghệ và viện nghiên cứu cần triển khai ngay việc liên kết đầu tư sản xuất giống cho thủy sản và các loại giống lúa mới có chất lượng gạo cao hơn. Để hỗ trợ cho việc này cần có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân đối với nhà khoa học, viện khoa học có sản phẩm bán cho nông dân phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, đầu tư công trong giai đoạn này cần tập trung cho nông nghiệp với những nhiệm vụ cụ thể, dự án cụ thể trong cả một thời gian dài gồm hai kế hoạch 5 năm để tạo sự đột phá về hạ tầng sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên canh, nâng cao năng suất và thân thiện môi trường.
Cùng trong lĩnh vực nông nghiệp còn có hai ngành hàng quan trọng khác là cà phê và tiêu. Chỉ trong khoảng thời gian từ 2000-2010, diện tích trồng cà phê đã tăng lên đáng kể, kéo theo việc sử dụng lãng phí tài nguyên nước ngầm tại khu vực Tây Nguyên và nhiều tác động không tốt đến cân bằng sinh thái và ổn định xã hội khu vực nóc nhà của đất nước. Vì vậy, theo quan điểm phát triển bền vững của mô hình phát triển mới thì tái cấu trúc nền kinh tế đối với mặt hàng cà phê và tiêu lại là giữ vững quy hoạch vùng và diện tích trồng trên cơ sở tính đầy đủ các tác động về thời tiết, thổ nhưỡng và cung cấp nước tưới bảo đảm cân bằng sinh thái, không làm tăng chi phí sản xuất. Điều đó có nghĩa là đầu tư công sẽ được dành cho các nghiên cứu đánh giá tác động môi trường, giảm chi phí sản xuất, ổn định chất lượng cà phê hạt. Bên cạnh đó, tái cấu trúc trong lĩnh vực này chủ yếu là về cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút nguồn lực của xã hội đầu tư vào công nghiệp chế biến. Khuyến khích doanh nghiệp trong nước liên kết, mua cổ phần của một số hãng chế biến cà phê đã có thương hiệu trên thế giới, đặc biệt là khu vực Trung và Nam Âu, vì khu vực này vốn có quan hệ thương mại lâu đời với Việt Nam, thị trường cũng vừa chuyển sang cơ chế thị trường và phát triển mạnh trong khoảng 10 - 15 năm gần đây, không “khó tính” như các nước G7.
Nhưng khi đặt vấn đề đầu tư như vậy, chúng ta cần phải chuẩn bị xử lý các vấn đề phát sinh khi chuyển trọng tâm đầu tư công cho phù hợp. Trước tiên, phải xác định được tỉnh nào, khu vực nào sẽ được đầu tư vào nông nghiệp và như vậy, các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế mà Đại hội Đảng bộ các tỉnh đã thông qua cần được điều chỉnh vì tốc độ tăng từ nông nghiệp phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng từ công nghiệp và dịch vụ. Theo đó, cần hình thành cơ chế khoán ngân sách cho các địa phương. Nếu địa phương đảm bảo cung ứng đạt đủ số lượng và tiêu chuẩn chất lượng các sản phẩm nông nghiệp thì Trung ương sẽ đảm bảo phần đầu tư khác cho an sinh xã hội như y tế, giáo dục v.v… Để thực hiện cơ chế như đề xuất thì việc đầu tiên là phải sửa Luật Ngân sách nhà nước, xây dựng mới Luật Đầu tư công và cách đánh giá về hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, địa phương.
Tất nhiên việc đầu tư từ TW đối với địa phương và nguồn vốn đầu tư của địa phương tại các tỉnh thuần nông này lại phải gắn với việc thực hiện Nghị quyết TW 7 (khóa X) về Tam nông mà trọng tâm là xây dựng nông thôn mới. Nếu vẫn duy trì cách thức phân bổ ngân sách như hiện nay thì sẽ không thể chấm dứt được tình trạng địa phương nào cũng thi đua xây dựng cảng biển, nhà máy xi măng, khu công nghiệp v.v… Sẽ không có tỉnh nào chấp nhận mình là tỉnh nông nghiệp mà sẽ phấn đấu tăng trưởng theo các tỉnh công nghiệp cho dù là tự phát theo kiểu trăm hoa đua nở.
Về tái cơ cấu khối DNNN xin sử dụng ví dụ khác là ngành dệt may. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong năm 2011 nhưng kim ngạch xuất khẩu dệt may và da giày vẫn đạt khoảng 14 tỷ USD, nếu cộng cả vali, túi, mũ, giày dép là khoảng hơn 18,6 tỷ USD. Tuy vậy, phần lớn các doanh nghiệp dệt may là các công ty cổ phần hoặc do các thành phần kinh tế khác làm chủ sở hữu. Theo Kế hoạch KT-XH 5 năm tới thì đến năm
2015, ngành dệt may nhập khẩu khoảng 64 tỷ USD nhưng sẽ xuất khẩu khoảng 111 tỷ USD, tức là sẽ xuất siêu gần 50 tỷ. Điều đáng nói là, tuy là ngành đang đóng góp nhiều nhất cho kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng đời sống của công nhân dệt may hiện còn khó khăn với mức thu nhập bình quân hiện nay vào khoảng 2,5-2,7 triệu đồng/người/tháng.
Nếu mỗi huyện không phải ở vùng kinh tế phát triển dành một hécta đất để đầu tư xây dựng nhà máy may xuất khẩu thì với diện tích đất như vậy có thể sử dụng được từ 1.000 đến tối đa 2.000 lao động với trình độ tay nghề không cao, thời gian đào tạo nghề ngắn. Như vậy, mỗi năm trên một ha đất ở vùng nông nghiệp người dân có thu nhập khoảng từ 30 đến 60 tỷ đồng. Đứng về hiệu quả sử dụng đất thì không thể có sản phẩm nào trong lĩnh vực nông nghiệp có thể tạo ra thu nhập và sử dụng nhiều lao động cho nông thôn như vậy. Nhưng hạn chế của ngành hàng này là đóng góp trực tiếp cho ngân sách địa phương rất thấp. Vì vậy, nhiều địa phương hiện nay không mặn mà với công nghiệp dệt may. Với những số liệu sơ bộ như vậy câu hỏi liệu sau 10 năm nữa đất nước có còn cần phát triển công nghiệp dệt may nữa không, đã được trả lời. Với câu trả lời như thế thì định hướng của 10 năm tới là Nhà nước cần có chính sách ưu tiên cho ngành này như: chính sách cấp đất ưu đãi để phát triển TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm thời trang của cả khu vực vì đóng góp của ngành đối với giải quyết việc làm, với cán cân thương mại của cả nước. Đồng thời, phải tính toán xem số lượng lao động của ngành này đến năm 2020 sẽ là bao nhiêu để tổ chức Công đoàn có thỏa thuận cụ thể với các doanh nghiệp trong việc bảo đảm đời sống cho công nhân dệt may và việc xây nhà ở cho người có thu nhập thấp cần đặt trọng tâm vào nhóm đối tượng này. Chính sách an sinh xã hội do nguồn lực còn hạn chế nên phải có trọng tâm, trọng điểm, phải đầu tư cho những người làm ra nhiều của cải, đóng góp cho GDP của cả nước. Với mô hình ngành công nghiệp dệt may như vừa nêu còn góp phần làm sáng tỏ một định hướng phát triển vĩ mô là trong thời gian 10 năm tới Chính phủ cần chuyển mạnh sang thực hiện vai trò quản lý nhà nước và giảm dần vai trò Chính phủ sản xuất.