Tại Phiên họp, đề cập về một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Lê Quang Huy khẳng định: Ngay sau Kỳ họp thứ 3, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã bám sát các mục tiêu chính sách (như về quy hoạch, cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện; nghĩa vụ tài chính khi sử dụng tần số vô tuyến điện; quản lý nhà nước; nâng cao hiệu quả khai thác các tần số vô tuyến điện phân bổ phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh...), tiếp tục tổ chức khảo sát, hội thảo, tọa đàm; phối hợp với cơ quan soạn thảo, các cơ quan hữu quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Lê Quang Huy.
Về quy định giới hạn tổng độ rộng băng tần thông tin di động một doanh nghiệp được cấp phép sử dụng (khoản 3 Điều 1 dự thảo Luật): Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định này, làm rõ việc giới hạn có làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp, quyền lợi của người dân trong việc lựa chọn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và sử dụng dịch vụ mạng thông tin di động hay không.
Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy: Băng tần dành cho thông tin di động là hữu hạn. Nếu không giới hạn tổng độ rộng băng tần thông tin di động mà một doanh nghiệp được sử dụng thì với phương thức cấp phép thông qua đấu giá và cho phép chuyển nhượng có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh sẽ thâu tóm lượng lớn tần số, các doanh nghiệp khác bị ảnh hưởng, có thể dẫn đến tình trạng độc quyền, làm giảm, thậm chí triệt tiêu tính cạnh tranh của thị trường.
Quy định giới hạn tổng độ rộng băng tần thông tin di động được cấp phép áp dụng với mọi doanh nghiệp. Do đó, không gây bất bình đẳng đối với một doanh nghiệp cụ thể nào, không làm giảm sức cạnh tranh của thị trường và cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân khi lựa chọn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, không cản trở quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh của doanh nghiệp, không trái với khoản 2 Điều 14 và Điều 33 Hiến pháp năm 2013, Luật Cạnh tranh.
Kinh nghiệm quốc tế tại 22 quốc gia thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), có 19/22 quốc gia (chiếm 86%) quy định giới hạn băng tần thông tin di động một doanh nghiệp được cấp. Vì vậy, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho giữ quy định tại khoản 3 Điều 1 dự thảo Luật.
Về phương thức cấp phép (khoản 5, 6, 7, 8 Điều 1 dự thảo Luật): Nhiều ý kiến đề nghị giải thích lý do tại sao 13 năm qua chưa đấu giá tần số, nguyên nhân là ở quy định của pháp luật hay vướng mắc trong thực tiễn triển khai và giải pháp khắc phục. Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường báo cáo một số vướng mắc dẫn đến 13 năm qua chưa đấu giá tần số vô tuyến điện và giải pháp khắc phục như sau:
Vướng mắc trong quy định pháp luật: Năm 2010, Luật Tần số vô tuyến điện có hiệu lực. Trong giai đoạn 2010-2014, các doanh nghiệp viễn thông không có nhu cầu sử dụng thêm băng tần do vừa mới được cấp phép băng tần cho mạng 3G thông qua thi tuyển vào năm 2009 và đang tập trung mọi nguồn lực để triển khai mạng 3G. Trong những năm này, các quy định pháp luật về đấu giá tần số vô tuyến điện đã cơ bản được hoàn thiện. Năm 2016, Bộ Thông tin và Truyền thông thành lập Hội đồng đấu giá để triển khai đấu giá các băng tần này. Tuy nhiên, năm 2017, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công được ban hành và có hiệu lực, trong đó giao Chính phủ quy định chi tiết về mức thu và phương thức thu tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện. Bởi vậy, tiến trình đấu giá bị dừng lại để xây dựng Nghị định. Cuối năm 2021, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 88/2021/NĐ-CP quy định về tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, đấu giá, cấp phép, chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện đối với băng tần.
Vướng mắc trong thực tiễn triển khai: Đây là vấn đề mới, khó, chưa có tiền lệ, cơ quan có thẩm quyền chưa kịp thời nghiên cứu kinh nghiệm, thông lệ quốc tế để tham mưu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tổ chức thực hiện đấu giá.
Đề cập về giải pháp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Lê Quang Huy cho biết, dự thảo Luật bổ sung quy định (khoản 5 và khoản 12 Điều 1 dự thảo Luật) nhằm tháo gỡ khó khăn trong thời gian qua: (1) Thống nhất thu tiền cấp quyền với tần số vô tuyến điện có giá trị thương mại cao, áp dụng đối với cả 3 phương thức cấp phép là đấu giá, thi tuyển và cấp trực tiếp; (2) Làm rõ các trường hợp được áp dụng đấu giá, thi tuyển, cấp trực tiếp; (3) Giao Chính phủ quy định chi tiết xử lý các tình huống đặc thù của đấu giá trên cơ sở Luật Đấu giá tài sản; quy định về mức thu tiền cấp quyền đối với các trường hợp cấp phép thông qua đấu giá, thi tuyển, cấp trực tiếp.
Toàn cảnh Phiên họp về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện.
Về cấp lại giấy phép sử dụng băng tần (khoản 9 Điều 1 dự thảo Luật): Một số ý kiến đề nghị làm rõ tại sao có quy định các mốc thời gian doanh nghiệp phải nộp đề nghị cấp lại là 03 năm và 06 tháng; có thể nâng từ 03 năm lên thành 05 năm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động phương án kinh doanh không.
Theo Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, quy định tại dự thảo Luật đặt ra hai mốc thời gian: 03 năm là thời điểm xem xét doanh nghiệp có nằm trong diện được cấp lại hay không, để doanh nghiệp chuẩn bị các phương án kinh doanh mới; 06 tháng là thời điểm để doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép, cơ quan quản lý thực hiện các thủ tục, cấp giấy phép và thu tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện. Trong đó, khoảng thời gian xem xét cấp lại giấy phép cần đảm bảo đủ dài. Trường hợp không được cấp lại giấy phép, doanh nghiệp còn có thời gian để thực hiện chuyển đổi mạng lưới và khách hàng. Nếu dài quá (thí dụ 05 năm) thì việc quy hoạch tần số vô tuyến điện có thể không theo sát sự thay đổi của công nghệ. Tham khảo kinh nghiệm 32 quốc gia trên thế giới có quy định về cấp lại giấy phép trong Luật, thời điểm xem xét cấp lại sớm nhất là 03 năm trước khi giấy phép hết hạn. Vì vậy, việc chọn các mốc thời gian như dự thảo Luật là phù hợp.
Về sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế (điểm c khoản 15 Điều 1 dự thảo Luật): Có một số ý kiến (07 ý kiến) tán thành sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế trên cơ sở đánh giá từ thực tiễn cần bảo đảm an ninh, quốc phòng và cho rằng nếu sử dụng các mạng kinh tế, xã hội hiện có thì không đáp ứng được các yêu cầu về thiết bị, bảo mật và triển khai nhiệm vụ. Nhiều ý kiến (21 ý kiến) đề nghị chưa quy định việc sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế. Nhiều ý kiến (19 ý kiến) đề nghị nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng thêm về chính sách này vì đây là nội dung lớn của dự án Luật và bởi một số lý do ảnh hưởng đến bảo mật, cạnh tranh, bình đẳng, quản lý giám sát của các cơ quan nhà nước, bảo đảm tính khả thi của Luật trong thực tiễn.
Qua khảo sát, hội thảo, tọa đàm, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy nội dung này còn có nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề xuất 02 phương án để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận và cho ý kiến, cụ thể như sau:
Phương án 1: Không quy định nội dung này trong dự thảo Luật. Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy Phương án 1 có một số ưu điểm, nhược điểm cơ bản. Về ưu điểm, phương án bảo đảm việc phân bổ tần số vô tuyến điện được xác định và sử dụng đúng mục đích, mục tiêu ngay từ quy hoạch ban đầu; Bảo đảm sự minh bạch, công bằng trong việc phân bổ, sử dụng tài nguyên tần số vô tuyến điện theo đúng mục đích sử dụng; điều này không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị được giao, không tiềm ẩn nguy cơ làm lộ, lọt bí mật quốc phòng, an ninh và bí mật Nhà nước; bảo đảm công bằng, công khai trong các hiệp định FTA mà Việt Nam đã ký kết. Phù hợp với nguyên tắc ưu tiên sử dụng tần số vô tuyến điện cho quốc phòng, an ninh và quy định về những hành vi bị cấm theo Luật hiện hành; phù hợp với xu thế chung của nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Nhược điểm của phương án này là khác so với phương án do Chính phủ trình. Khi có phương án cần sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh kết hợp với phát triển kinh tế cụ thể, rõ ràng và khả thi thì Chính phủ phải báo cáo Quốc hội ban hành Nghị quyết để áp dụng và như vậy quy trình thực hiện sẽ kéo dài, phức tạp.
Phương án 2: Quy định nội dung này trong dự thảo Luật như phương án Chính phủ trình. Các ý kiến tán thành phương án này cho rằng, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung quy định trong dự thảo Luật theo hướng làm rõ thẩm quyền, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tài chính như phí, lệ phí, tiền cấp quyền sử dụng (bổ sung khoản 3 Điều 31 Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009), phương án sử dụng kết hợp không làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo quốc phòng, an ninh và sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động viễn thông khi sử dụng tần số vô tuyến điện trong băng tần phân bổ cho mục đích quốc phòng, an ninh để phát triển kinh tế (bổ sung khoản 4 Điều 45 Luật Tần số VTĐ năm 2009).
Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy Phương án 2 có một số ưu điểm, nhược điểm cơ bản. Về ưu điểm, theo Tờ trình số 162/TTr-CP của Chính phủ, phương án này là thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về kết hợp chặt chẽ bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế, xã hội. Có thể tận dụng nguồn tài nguyên tần số phục vụ quốc phòng, an ninh còn dôi dư cho mục đích kinh tế kết hợp với một số hoạt động nghiệp vụ bảo đảm an ninh, trật tự xã hội.
Nhược điểm của phương án này là không bảo đảm việc phân bổ tần số vô tuyến điện được xác định và sử dụng đúng mục đích, mục tiêu ngay từ quy hoạch ban đầu; có thể ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị được giao, tiềm ẩn nguy cơ làm lộ, lọt bí mật quốc phòng, an ninh và bí mật Nhà nước. Quy định “trường hợp đặc biệt” sử dụng tần số vô tuyến điện phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế chưa thực sự rõ ràng. Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường lựa chọn Phương án 1.
Băng tần là tài sản đặc biệt, có giá trị kinh tế lớn nên việc nghiên cứu, giải trình về phương thức đấu giá phải kỹ lưỡng
Tại Phiên họp, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tập trung cho ý kiến đóng góp vào các nội dung: cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện thông qua đấu giá; thẩm quyền phê duyệt và thực hiện quy hoạch tần số vô tuyến điện; quy định giới hạn tổng độ rộng băng tần thông tin di động một doanh nghiệp được cấp phép sử dụng; sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế...
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại Phiên họp.
Phát biểu tại Phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá cao cơ quan soạn thảo và thẩm tra đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện đã có sự phối hợp chặt chẽ trong việc cố gắng tiếp thu các ý kiến của các cơ quan để đảm bảo chất lượng dự án Luật.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện có phạm vi sửa đổi không nhiều nhưng rất quan trọng. Bởi vì băng tần là tài sản đặc biệt, có giá trị kinh tế lớn nên việc nghiên cứu, giải trình về phương thức đấu giá phải kỹ lưỡng. Liệu dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện có chồng chéo, vướng mắc với các luật khác hay không hoặc đã tương thích với các luật pháp quốc tế hay chưa thì cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra cần đề cập, nghiên cứu rõ hơn.
Với những ý kiến đóng góp, đề xuất của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ yêu cầu cơ quan soạn thảo và thẩm tra dự án Luật tiếp thu tối đa những đóng góp đó để hoàn thiện dự án Luật trước khi trình Quốc hội xem xét, đóng góp ý kiến tại Phiên họp thứ 4 tới.
Phát biểu Kết luận tại Phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự chủ động, tích cực và Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, cơ quan soạn thảo, các Bộ, ngành, tổ chức hữu quan trong việc nghiên cứu, tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 3 để hoàn thiện dự thảo Luật. Các tài liệu báo cáo tại Phiên họp được chuẩn bị khá chu đáo, kỹ lưỡng và đánh giá phù hợp với các nội dung tiếp thu, chỉnh lý và cần bổ sung thêm một số nội dung như các vị đại biểu tham gia.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu kết luận Phiên họp.
Thường vụ Quốc hội thống nhất sau khi tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về cơ bản dự thảo luật đáp ứng được các quan điểm, mục tiêu, yêu cầu đặt ra khi sửa đổi luật đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, thảo luận. Đề nghị Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường hoàn thiện hồ sơ dự án luật; xin ý kiến Hội nghị đại biểu chuyên trách lấy ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội và một số cơ quan quan. Đồng thời chủ trì cùng các cơ quan soạn thảo tiếp thu các ý kiến tham gia để đảm bảo chất lượng dự án luật trình Quốc hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị sau khi tiếp thu ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường gửi tài liệu dự án Luật được tiếp thu, chỉnh lý để Chính phủ tham gia ý kiến bằng văn bản. Việc tham gia ý kiến của Chính phủ cần khẩn trương để đảm bảo thời gian tiếp thu và trình Quốc hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải giao Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì, phối hợp với cơ quan soạn thảo, các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện dự án Luật; Chuẩn bị hồ sơ báo cáo xin ý kiến tại hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách; Gửi xin ý kiến Đoàn đại biểu Quốc hội, các cơ quan Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan tập hợp đầy đủ các ý kiến tham gia để tiếp tục hoàn thiện Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự án Luật, gửi xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội bằng văn bản để hoàn chỉnh hồ sơ dự án luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 4. Đề nghị Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội thực hiện đúng quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và chịu trách nhiệm đến cùng đối với dự án Luật./.
Trân trọng giới thiệu một số hình ảnh tại Phiên họp:
Toàn cảnh Phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện.
Thượng tướng Trần Quang Phương - Phó Chủ tịch Quốc hội đề cập về nội dung sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho ý kiến về phương án khi đề cập việc sử dụng tần số vô tuyến điện được phân bổ riêng phục vụ quốc phòng, an ninh để kết hợp phát triển kinh tế.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng đề nghị cơ quan soạn thảo và thẩm tra dự án Luật làm rõ thêm về quy hoạch tần số vô tuyến điện.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, ngân sách Nguyễn Phú Cường nêu quan điểm về nội dung cấp giấy phép sử dụng băng tần thông qua hình thức đấu giá.
Thượng tướng Lương Tam Quang-Thứ trưởng Bộ Công an nêu các nội dung trọng tâm của dự án Luật.
Đại tá Vũ Viết Hoàng-Phó Tham mưu trưởng tác chiến Binh chủng Thông tin liên lạc nêu quan điểm tại Phiên họp.
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng giải trình, làm rõ ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu kết luận Phiên họp và yêu cầu cơ quan soạn thảo và thẩm tra dự án Luật cần tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các thành viên Ủy ban.