SỬA ĐỔI LUẬT ĐẤT ĐAI: QUY ĐỊNH TÍCH TỤ ĐẤT NÔNG NGHIỆP PHẢI KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐẦU CƠ

28/03/2023

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều điểm mới liên quan đến tập trung, tích tụ đất nông nghiệp. Tuy nhiên, một số ý kiến chuyên gia cho rằng, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định về phương thức tập trung đất nông nghiệp, cân nhắc con số hạn mức,… nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại; đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất và quan trọng hơn là khắc phục tình trạng lợi dụng tích tụ, tập trung đất nông nghiệp để đầu cơ,…

GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI): QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CẦN ĐẢM BẢO TÍNH THỐNG NHẤT

Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 4 (10/2022)

Tích tụ, tập trung đất đất nông nghiệp là một trong những chủ trương, đường lối được Đảng và Nhà nước quan tâm trong thời gian qua nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Luật đất đai 2103 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã dành nhiều quy định liên quan để điều chỉnh vấn đề tích tụ và tập trung đất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai trên thực tế còn nhiều vướng mắc, bất cập cần phải có những sửa đổi, bổ sung phù hợp nhằm phát triển nền nông nghiệp hướng tới sự phát triển kinh tế - xã hội.

Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”. Trên cơ sở đó, Dự thảo Luật Đất đai năm 2013 sửa đổi đã thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu, chủ trương, giải pháp của Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn và xu thế phát triển với nhiều điểm đổi mới, trong đó nổi bật là vấn đề về tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Cụ thể: bổ sung khái niệm về “tập trung đất nông nghiệp” và “tích tụ đất nông nghiệp”; bổ sung về nguyên tắc, các phương thức tập trung đất nông nghiệp, trách nhiệm của người sử dụng đất cũng như của Nhà nước trong việc khuyến khích, mở rộng hoạt động tập trung, tích tụ đất nông nghiệp; quy định về điều kiện khi xác định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất;…

Nhận định Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều đổi mới liên quan đến tập trung, tích tụ đất nông nghiệp, đã cụ thể hóa được giải pháp về cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng, vẫn cần rà soát, hoàn thiện thêm quy định nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hiện hại; đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất và quan trọng hơn là khắc phục tình trạng lợi dụng tích tụ, tập trung đất nông nghiệp để đầu cơ,…

Theo ThS.NCS. Phùng Thị Phương Thảo, khoa Luật - Học viện Phụ nữ Việt Nam, để đảm bảo tính thống nhất giữa các quy định trong Luật đất đai, tại khoản 2 Điều 185 Dự thảo Luật đất đai năm 2013 cần sửa đổi quy định về các phương thức tập trung đất nông nghiệp theo hướng: thay thế phương thức “dồn điền, đổi thửa” thành phương thức “chuyển đổi quyền sử dụng đất”.

Bên cạnh đó, cần quy định rõ quy mô, diện tích đất nông nghiệp sau khi tiến hành tập trung mà cần phải lập phương án trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất quyết định. Điều này sẽ giảm tải các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian tập trung đất nông nghiệp để kịp thời tổ chức các hoạt động sản xuất nông nghiệp đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn, phù hợp với nhu cầu thị trường; đặc biệt với quy mô không lớn thì không cần phải lập phương án sử dụng đất trình cơ quan Nhà nước.

ThS.NCS. Phùng Thị Phương Thảo cũng đề xuất, bổ sung nguyên tắc về mục đích khi tập trung, tích tụ đất nông nghiệp. Việc tập trung, tích tụ đất nông nghiệp chỉ nhằm mục đích duy nhất là hình thành những thửa đất, cánh đồng rộng lớn, thuận lợi cho hoạt động tổ chức sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Đây sẽ căn cứ, cơ sở quan trọng để Chính phủ quy định chi tiết liên quan đến nghĩa vụ của người sử dụng đất cũng như trách nhiệm của các cán bộ, quản lý về đất đai trong việc lợi ích quy định về tích tụ, tập trung đất nông nghiệp để đầu cơ, thâu tóm đất nông nghiệp trong tương lai.

ThS.NCS Phùng Thị Phương Thảo, khoa Luật - Học viện Phụ nữ Việt Nam

Nêu quan điểm về nội dung này, TS. Nguyễn Tiến Cường, Phó trưởng Ban Kinh tế, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam cho rằng, quy định tại khoản 4 Điều 185 “Tổ chức kinh tế, cá nhân thực hiện việc tập trung đất nông nghiệp phải lập phương án sử dụng đất trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất quyết định...” sẽ hạn chế đến chính sách khuyến khích nông dân tập trung đất nông nghiệp do thủ tục phải lập phương án sử dụng đất và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Vì vậy, đề xuất quy định này chỉ nên áp dụng đối với tổ chức kinh tế, còn đối với cá nhân chỉ nên quy định phải đăng ký biến động (các tổ chức kinh tế có nhu cầu sử dụng diện tích lớn, cần có phương án sản xuất, kinh doanh; trong khi các hộ dân chỉ cần thỏa thuận để thực hiện, không nên phát sinh thủ tục). Bên cạnh đó, nên bổ sung làm rõ nội hàm Nhà nước có chính sách khuyến khích thực hiện tập trung đất nông nghiệp tại khoản 3 Điều 185 (ngoài ứng dụng khoa học, công nghệ, bảo đảm kinh phí đo đạc, chỉnh lý hồ sơ, cấp giấy chứng nhận; có thể bổ sung nhà nước hỗ trợ về giống, vật tư nông nghiệp...).

Ngoài ra, TS. Nguyễn Tiến Cường lưu ý, trong Dự thảo không quy định hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp từ cá nhân của tổ chức kinh tế mà chỉ quy định hạn mức đối với cá nhân (không quá 15 lần hạn mức giao đất), đồng thời sử dụng cụm từ “với quy mô phù hợp” còn mang tính định tính. Qua đó cho thấy chưa đảm bảo tính công bằng giữa các chủ thể sử dụng đất (cá nhân và tổ chức kinh tế) về thực hiện quyền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp. Mặt khác cũng cần cân nhắc việc mở rộng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân cho phù hợp.

Theo TS. Nguyễn Tiến Cường cần quy định cụ thể hạn mức đối với từng phương thức tích tụ (trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất) theo từng đối tượng cá nhân và tổ chức kinh tế, trong đó giữ nguyên hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp của cá nhân như Luật Đất đai 2013, bổ sung hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp từ cá nhân của tổ chức kinh tế; chỉ mở rộng hạn mức nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp. Đồng thời, bổ sung các quy định nhằm đảm bảo sinh kế của nông dân để vừa đáp ứng yêu cầu thúc đẩy kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển vừa tránh tình trạng nông dân không còn tư liệu sản xuất, không có việc làm, thu nhập sau khi chuyển nhượng đất nông nghiệp (nhất là đất trồng lúa) cho các tổ chức kinh tế,…

Tích tụ đất nông nghiệp: đối tượng và hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp cần phải đi kèm với các điều kiện, quy định hạn chế nhằm bảo vệ quyền với đất đai của các nhóm yếu thế.

Quan tâm tới nội dung này, ThS. Nguyễn Trịnh Ngọc Linh, Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nôi tại tỉnh Đắk Lắk cho rằng, tích tụ, tập trung đất đai được coi là một trong những giải pháp đột phá giúp phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, quy mô lớn. Như vậy, để góp phần hoàn thiện chính sách tích tụ, tập trung đất đai trong nông nghiệp hiện nay không thể thiếu nghiên cứu cụ thể quy định hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với thực tiễn sản xuất của từng vùng; cho phép các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước có đủ tiềm lực về vốn, công nghệ được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại, quy mô lớn đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Việt Nam trong tương lai.

Trên cơ sở phân tích những nút thắt pháp lý trong quy định của pháp luật đất đai hiện hành và rào cản trong thực tế triển khai tích tụ đất đai liên quan đến các quy định về hạn mức, đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, ThS. Nguyễn Trịnh Ngọc Linh kiến nghị: cần xem xét, cân nhắc con số hạn mức “không quá 15 lần” đã phù hợp chưa, vì nếu quy định như Dự thảo có thể phù hợp với tình hình phát triển nông nghiệp hiện nay nhưng trong tương lai với sự phát triển không ngừng của công nghiệp mới, nông nghiệp hiện đại tầm nhìn 10 – 20 năm sau thì quy định như vậy vẫn sẽ gây khó khăn cho vấn đề tích tụ đất trong sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường giai đoạn tới và chưa tạo được cơ chế đủ mạnh thu hút nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp.

Do vậy, thay vì chỉ tăng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp lên 5 lần so với hạn mức cũ theo Luật Đất đai năm 2013 là 10 lần, có thể mở rộng thêm hạn mức này lên 20 đến 25 lần hạn mức giao đất nông nghiệp nhằm thu hút các cá nhân có nhu cầu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp trong tương lai, tạo điều kiện phát triển sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, an toàn thực phẩm. Điều này cũng phù hợp với tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW đề ra. Tuy nhiên, việc đưa ra một con số hạn mức không thể chỉ áng chừng, cần có một khảo sát về nhu cầu, khả năng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, từ các số liệu cụ thể và phân tích tiềm năng phát triển tích tụ đất đai trong tương lai ứng với phát triển nông nghiệp hiện đại quy mô lớn. Từ đó mới có thể đưa ra con số hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp mà không trở thành rào cản phát triển nông nghiệp trong tương lai xa.

ThS. Nguyễn Trịnh Ngọc Linh nhấn mạnh, hiện nay xu hướng tích tụ, tập trung đất đai là tất yếu. Đó là xu hướng áp dụng công nghệ, hiện đại hóa làm gia tăng sản lượng nông nghiệp, ổn định nguồn cung và chất lượng nông sản để có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, cũng là xu hướng tất yếu để thu hút lao động nông nghiệp ra khỏi khu vực nông thôn, để tham gia vào các khu vực khác như công nghiệp, thương mại - dịch vụ… Vấn đề đặt ra là, nhà nước phải có một chiến lược toàn diện về việc quy hoạch đất nông nghiệp và hướng giải quyết vấn đề an sinh xã hội, chuyển đổi nghề, việc làm, lao động ở nông thôn. Quan trọng nhất là đẩy đủ nền tảng pháp lý, phải an toàn, dài hạn cho nhà đầu tư và người nông dân. Việc mở rộng đối tượng và hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp cần phải đi kèm với các điều kiện, quy định hạn chế nhằm bảo vệ quyền với đất đai của các nhóm yếu thế (nhóm dân tộc thiểu số, nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ) trong các tiến trình chuyển dịch đất đai./.

Lê Anh