ĐOÀN GIÁM SÁT BÁO CÁO ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KẾT QUẢ GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIAI ĐOẠN 2016-2021

12/10/2023

Ngày 12/10, tại Phiên họp thứ 27, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021”. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy – Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát đã trình bày Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát, nêu rõ kết quả, hạn chế, nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, bài học kinh nghiệm và kiến nghị những giải pháp trong giai đoạn trước mắt và dài hạn.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 12/10: GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ ‘’VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIAI ĐOẠN 2016-2021’’

Toàn cảnh Phiên họp thứ 27, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021”

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy – Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát cho biết, thực hiện Nghị quyết số 23/2022/UBTVQH15 về Chương trình giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2023 và số 582/NQ-UBTVQH15 về thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021”, Đoàn giám sát đã nghiên cứu, kế thừa nội dung báo cáo của các cơ quan Trung ương, kết quả xử lý, tổng hợp báo cáo của Chính phủ, các Bộ, ngành, tập đoàn kinh tế, Ủy ban nhân dân, Đoàn Đại biểu Quốc hội 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, căn cứ kết quả giám sát thực tế tại 11/11 địa phương, kết quả làm việc với Chính phủ, 10/10 Bộ, ngành, 03/03 tập đoàn năng lượng, kết quả 07 hội thảo, tổ chức Đoàn đại biểu đi khảo sát, học tập tại Australia, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và nhiều vòng tham vấn chuyên gia, nhà khoa học. Đoàn giám sát xây dựng Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát, trong đó nêu kết quả, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, bài học kinh nghiệm và kiến nghị các giải pháp trước mắt và lâu dài.

Ban hành 499 văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa quan điểm, chủ truowng của Đảng về phát triển năng lượng.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy – Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát cho biết,  trong giai đoạn 2016-2021, Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành 04 Nghị quyết, 02 Kết luận nhằm định hướng phát triển ngành năng lượng, đáp ứng đồng bộ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội - môi trường, quốc phòng - an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế. Để thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, các cơ quan nhà nước ở trung ương đã ban hành 499 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL).

Đoàn giám sát xây dựng Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát tại Phiên họp thứ 27 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chương trình, kế hoạch, đề án, nhiệm vụ triển khai trên địa bàn. Nhìn chung, công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng được triển khai khá kịp thời. Pháp luật ngành năng lượng từng bước được hoàn thiện, tiến độ công tác xây dựng, ban hành VBQPPL ngành năng lượng được đẩy nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn. Công tác quy hoạch đã được quan tâm, chú trọng, đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển các phân ngành năng lượng than, điện, khí, xăng dầu. Việc xây dựng và ban hành VBQPPL về cơ bản tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định.

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý về phát triển năng lượng đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế xã hội (KTXH), bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của nhân dân, tạo tiền đề quan trọng để phát triển các ngành, lĩnh vực khác; bảo tồn, phát triển, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn năng lượng; bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút nguồn lực đầu tư; chuyển đổi năng lượng công bằng; tích hợp, đồng bộ với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải, ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững; đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ.

Tuy nhiên, việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển năng lượng thành chính sách, pháp luật nói chung và trong từng phân ngành nói riêng chưa toàn diện, đồng bộ; có nội dung chưa bảo đảm tính hệ thống, thống nhất. Pháp luật trong từng lĩnh vực than, dầu khí, điện, năng lượng mới và năng lượng tái tạo được xây dựng tương đối độc lập, quy định trong nhiều VBQPPL, thiếu tính liên thông, kết nối; hình thức, giá trị pháp lý và chủ thể ban hành khác nhau.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy – Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát

Còn tình trạng quy định chung chung, thiếu cụ thể, chi tiết, mâu thuẫn, chồng chéo, chưa bảo đảm tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả, thiếu tính đồng bộ giữa các phân ngành khác, thậm chí ngay trong cùng phân ngành và với hệ thống pháp luật nói chung. Một số VBQPPL ban hành thiếu kịp thời, bị “nợ đọng”. Một số quy định chưa bám sát thực tế, chưa được đánh giá tác động kỹ lưỡng, chưa lường hết những rủi ro, phát sinh, việc bố trí nguồn lực chưa tương xứng để thực hiện.

Bên cạnh đó, việc chậm ban hành Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia, các quy hoạch phân ngành năng lượng, nhất là Quy hoạch điện VIII đã làm ảnh hưởng tới việc việc cụ thể hóa và triển khai các mục tiêu của Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025.

Nhiều thách thức trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cung cấp và nhập khẩu năng lượng, bảo đảm an ninh năng lượng cơ bản đáp ứng đủ cho yêu cầu phát triển KTXH, quốc phòng an ninh với chất lượng ngày càng được cải thiện, cơ bản đảm bảo an ninh năng lượng. Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 có mức tăng trưởng trung bình khoảng 8,7%/năm. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Việt Nam giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 6,8%/năm. Ngành dầu khí đã cơ bản hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra, vẫn giữ vững là ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng; Ngành than đã thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo đáp ứng đủ than cho nhu cầu sử dụng trong nước, đặc biệt là than cho sản xuất điện, góp phần đảm bảo năng lượng quốc gia.

Tuy vậy, mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đối mặt với nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn. Chỉ tiêu chủ yếu đánh giá đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia biến động theo chiều hướng bất lợi. Khả năng thiếu điện trong ngắn hạn (2024-2025), trung hạn (2025-2030) và dài hạn (2030–2050) là nguy cơ hiện hữu. Trong số 6 chỉ tiêu chủ yếu đánh giá đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, có đến 3/6 chỉ tiêu đang biến động theo chiều hướng bất lợi. Đáng lưu ý, ngành năng lượng nước ta ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu; tài nguyên năng lượng sơ cấp Việt Nam ngày càng cạn kiệt… Những bất cập trong cung ứng năng lượng, nhất là việc chuẩn bị nhiên liệu sơ cấp thực hiện kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia hằng năm, dự trữ xăng dầu, trong đó chưa kịp thời chỉ đạo, thực hiện yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã dẫn đến tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ cuối năm 2022, tình hình thiếu điện ở miền Bắc đầu năm 2023, gây bức xúc trong dư luận xã hội, cử tri và nhân dân. Một số dự án nguồn điện chưa đưa vào vận hành do chậm tiến độ, chậm khởi công so với quy hoạch, hoặc dừng triển khai...

Việc triển khai quy hoạch các phân ngành năng lượng còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là trong việc tổ chức thực hiện Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh đối với việc phát triển điện mặt trời, điện gió, thủy điện nhỏ. Việc đầu tư nguồn điện và lưới điện giai đoạn 2016 - 2021 chưa đồng bộ, đạt mục tiêu đề ra. Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng còn nhiều bất cập.

Về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, chuyển dịch năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, Đoàn giám sát nhận định, tiêu thụ năng lượng gia tăng đáng kể, cơ cấu tiêu thụ năng lượng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ngày càng được quan tâm; chuyển dịch năng lượng theo hướng công bằng, bền vững đã được chú trọng nhằm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đang tích cực triển khai kế hoạch, lộ trình chuyển đổi năng lượng theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Mặc dù vậy, hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng còn thấp; Chuyển đổi năng lượng đối mặt với nhiều thách thức lớn, công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực năng lượng có nơi chưa được quan tâm đúng mức, gây bức xúc xã hội. Trong đó, đáng lưu ý những thách thức lớn về kỹ thuật - công nghệ, nguồn nhiên liệu thay thế, hành lang pháp lý và tính hiệu quả của dự án, trong đó có lĩnh vực sản xuất nhiệt điện từ than trong việc triển khai Quy hoạch điện VIII.

Đối với thị trường năng lượng, chính sách giá điện, giá than, giá khí; huy động nguồn lực đầu tư phát triển năng lượng; tổ chức bộ máy quản lý và tái cơ cấu ngành năng lượng, Đoàn giám sát nêu rõ, thời gian qua đã tích cực thực hiện chuyển đổi ngành năng lượng sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đang trở thành một ngành kinh tế năng động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; huy động nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển ngành năng lượng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nòng cốt là các doanh nghiệp Nhà nước; hạ tầng năng lượng ngày càng được tăng cường. Nhưng thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, chưa đạt mục tiêu đề ra, thiếu liên thông giữa các phân ngành năng lượng, cơ chế, chính sách giá năng lượng còn bất cập; Thị trường xăng dầu trong nước còn bị động, thiếu hụt nguồn cung và vướng mắc trong cơ chế điều hành.

Các đại biểu tham dự Phiên họp

Công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực năng lượng đã được quan tâm đầu tư, bước đầu đã làm chủ một số công nghệ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa công nghệ; nguồn nhân lực, việc làm được phát triển, mở rộng, nhất là trong lĩnh vực năng lượng mới. Tuy nhiên, trình độ công nghệ trong một số lĩnh vực thuộc ngành năng lượng chậm được đổi mới và nâng cao; chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế.

Bên cạnh đó, ngành năng lượng đã tích cực thực hiện công tác an sinh xã hội, chương trình năng lượng nông thôn, miền núi, hải đảo và nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đến đầu năm 2020, 100% số xã có điện, hơn 99,47% số hộ dân có điện, trong đó có 99,18% số hộ nông dân có điện. Công tác quốc phòng - an ninh - đối ngoại gắn với hoạt động dầu khí đã được thực hiện tốt. Mặc dù vậy, quá trình chuyển dịch năng lượng đặt ra những thách thức mới về chuyển đổi việc làm, đào tạo và phát triển nhân lực trong lĩnh vực năng lượng. Một số xã vùng sâu, vùng xa, hải đảo vẫn chưa được cung ứng năng lượng đầy đủ.

Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nêu các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập, trong đó có nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan; trách nhiệm để xảy ra những hạn chế, bất cập trên thuộc trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước các cấp trong công tác tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về năng lượng. Trong đó, có trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương, các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh một số địa phương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam. Một số sai phạm, trách nhiệm cụ thể của các tổ chức, cá nhân, nhất là trong chấp hành chính sách, pháp luật trong triển khai thực hiện Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VII điều chỉnh, quản lý và điều hành cung cấp điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị có liên quan đến cung cấp điện, pháp luật về khoáng sản của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã và đang được các cơ quan có thẩm quyền kết luận.

Kiến nghị các nhiệm vụ, giải pháp cần làm ngay và nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn.

Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn mới, Đoàn giám sát kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021. Theo đó, phân công trách nhiệm cụ thể đối với các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp cần làm ngay giai đoạn 2024-2025.

Theo đó, cần tập trung rà soát, trình Quốc hội việc sửa đổi, bổ sung Luật Điện lực, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Khoáng sản, Luật Hóa chất, Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các VBQPPL khác để tháo gỡ các vướng mắc, điểm nghẽn khi triển khai đầu tư các dự án, hạ tầng năng lượng. Nghiên cứu, đề xuất  cơ chế, chính sách vận hành thị trường năng lượng cạnh tranh phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo lộ trình phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.

Rà soát, đánh giá tính khả thi của các dự án nguồn và lưới điện dự kiến thu hút đầu tư hoặc được cam kết đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước giai đoạn 2023-2030; hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển điện lực, đầu tư, quy hoạch để thu hút các nhà đầu tư thực hiện các dự án nguồn, lưới điện theo Quy hoạch điện VIII.

Nghiên cứu cơ chế, chính sách phù hợp, khả thi về đầu tư, phát triển, quản lý hệ thống kho, cảng dự trữ xăng dầu tại khu vực Bắc-Trung-Nam để đáp ứng yêu cầu về dự trữ, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Tiếp tục đẩy mạnh công tác giám sát, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, điều tra và kết luận, xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng; trong năm 2023, làm rõ nguyên nhân gây ra khoản lỗ của các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước phát triển năng lượng trong thời gian vừa qua.

Về các nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn (đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045), Đoàn giám sát kiến nghị hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng. Trọng tâm là rà soát, trình Quốc hội sửa đổi Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Luật Quy hoạch, Luật Lâm nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Quản lý nợ công; nghiên cứu, xây dựng các dự án Luật về năng lượng tái tạo, về biến đổi khí hậu.

Huy động nguồn lực trong xã hội, khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp năng lượng nhà nước trong lĩnh vực năng lượng. Nâng cao năng lực, trình độ khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạo cơ chế khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp năng lượng tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.

Phát triển các nguồn cung năng lượng theo hướng tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hoá, đảm bảo tính hiệu quả, tin cậy và bền vững. Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí, than tại các khu vực tiềm năng; mở rộng tìm kiếm, thăm dò, nâng cao chất lượng công tác đánh giá các cấp trữ lượng và tài nguyên năng lượng. Cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp tiêu thụ ít năng lượng và có hiệu quả về KTXH.

Phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực; thúc đẩy nhanh xã hội hoá các cơ sở hạ tầng và dịch vụ trong ngành năng lượng. Thực hiện xã hội hoá tối đa trong đầu tư và khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, dịch vụ ngành năng lượng trên cơ sở đảm bảo quốc phòng, an ninh, bao gồm cả hệ thống truyền tải điện. Đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa; liên thông giữa các phân ngành, than, dầu khí và năng lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới.

Phát triển công nghiệp, thiết kế, chế tạo, dịch vụ phục vụ ngành năng lượng với mục tiêu nâng cao nội lực, tăng cường tỷ lệ nội địa hoá. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển nghiên cứu công nghệ, công nghiệp thiết kế, chế tạo, lắp đặt và dịch vụ phục vụ ngành năng lượng đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước, hướng đến xuất khẩu, lấy cạnh tranh toàn cầu là động lực phát triển.

Thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, chuyển dịch năng lượng công bằng, vừa bảo đảm yêu cầu tái cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng xanh hóa, số hóa, vừa bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trường, ứng phó với biến đổi khí hậu theo các cam kết quốc tế. Chủ động và tích cực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng để tranh thủ tối đa cơ hội, vượt qua thách thức, huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tri thức trong lĩnh vực năng lượng.

Cùng với đó, Đoàn giám sát cũng kiến nghị Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật cần hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung và các dự án trọng điểm cần tập trung tháo gỡ, giải quyết trong lĩnh vực năng lượng.

Lan Hương