TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 23/10: KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHOÁ XV
TOÀN VĂN PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VƯƠNG ĐÌNH HUỆ KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHÓA XV
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp
Theo đó, tại phiên họp, Quốc hội nghe: (1-2) Báo cáo và báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 - 2026; đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025; (3-4) Báo cáo đánh giá và báo cáo thẩm tra đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025; (5-6) Báo cáo kết quả và báo cáo kết quả thẩm tra rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Nghị quyết số 101/2023/QH15 về Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV; (7-8) Trình bày Tờ trình dự thảo và báo cáo dự thảo Nghị quyết về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu; (9-10) Báo cáo kết và báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp.
Cổng Thông tin điện tử Quốc hội sẽ liên tục cập nhật nội dung:
14h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung Phiên họp
Điều hành nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 6, chiều nay, Quốc hội sẽ nghe các báo cáo về đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 – 2026; đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025; đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025; kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp đến, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
14h02: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tình hình thế giới biến động nhanh, mạnh, phức tạp, nhiều rủi ro; nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, vượt quá khả năng dự báo, ảnh hưởng sâu, rộng, toàn diện, cần thời gian để ứng phó, thích ứng.Trong nước, nền kinh tế trải qua 03 giai đoạn cơ bản, từ phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ đà lây lan của đại dịch sang thích ứng an toàn, linh hoạt, hiệu quả, mở cửa lại nền kinh tế, thúc đẩy phục hồi và ứng phó, thích ứng với những khó khăn, thách thức mới của kinh tế toàn cầu.
Trước những khó khăn, thách thức rất lớn, Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ đã sáng suốt lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, phù hợp với nhiều chủ trương, quyết sách lớn.
Nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, nước ta đã thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển KTXH; mặc dù còn những hạn chế, bất cập nhưng về cơ bản đã đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực…
Sau nửa nhiệm kỳ, nước ta cơ bản đã vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, tạo nền tảng phát triển KTXH, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh trong trung và dài hạn; vẫn tiếp tục là điểm sáng trong nền kinh tế toàn cầu. Một số chỉ tiêu KTXH chủ yếu giai đoạn 2021-2023 dự kiến có sự thay đổi tích cực hơn so với giai đoạn 2016-2018. Nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế Việt Nam, dự báo kinh tế nước ta sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế còn gặp nhiều thách thức; ổn định kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc do chịu tác động của các yếu tố bên ngoài. Năm 2023, nhiều động lực tăng trưởng chính chậm lại, đối mặt với nhiều khó khăn; kim ngạch xuất khẩu ước giảm 3,5%, nhập khẩu giảm 4,2%; nợ xấu có xu hướng tăng; chỉ số lạm phát cơ bản vẫn ở mức cao; các thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn rủi ro.
Bên cạnh đó, sau đại dịch COVID-19, sức chống chịu của nhiều doanh nghiệp đã đến mức tới hạn; hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục còn nhiều khó khăn, nhất là về thị trường đầu ra, dòng tiền, huy động vốn, thủ tục hành chính và áp lực từ yêu cầu của thị trường và đối tác về phát triển bền vững ngày càng gia tăng; việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đáp ứng yêu cầu tạo chuyển biến nhanh về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đầu tư cho văn hoá còn dàn trải, hiệu quả chưa cao; thu nhập của người dân còn ở mức trung bình thấp, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; an sinh xã hội, giảm nghèo còn nhiều thách thức...
Về tình hình thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, căn cứ Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành Chương trình hành động để tổ chức thực hiện; trong đó, đã chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt 102 nhiệm vụ xây dựng chương trình, đề án. Việc thực hiện Kế hoạch tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, cơ bản bám sát mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 31/2021/QH15. Tuy nhiên, bối cảnh, tình hình thế giới, trong nước nhiều khó khăn, thách thức đã tác động không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm.
Trong thời gian tới, Chính phủ xác định tiếp tục bám sát Nghị quyết Đại hội Đảng XIII; các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả Chiến lược 10 năm, Kế hoạch 5 năm, trong đó chú trọng 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm và 12 nhóm giải pháp chủ yếu. Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Bên cạnh đó, đoàn kết, nỗ lực, quyết tâm hành động cao nhất để vừa chống chịu, thích ứng với bối cảnh, tình hình mới, vừa tranh thủ thời cơ, cơ hội, động lực mới để thúc đẩy tăng trưởng, tăng tốc phát triển KTXH nhanh và bền vững; tập trung ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Đồng thời, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững; tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn về thể chế theo hướng cấp nào ban hành cấp đó tháo gỡ; báo cáo cấp trên trực tiếp vấn đề vượt thẩm quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực…
14h30: Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025
Báo cáo tại Phiên họp, về tình hình kinh tế - xã hội 3 năm 2021 – 2023, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với nhiều nội dung theo Báo cáo của Chính phủ, tuy nhiên, các kết quả, nhận định và đánh giá cần phải bám sát Nghị quyết số 16/2021/QH15 và các nghị quyết khác của Quốc hội có liên quan và sát với tình hình thực tế hiện nay.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến, thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường và không thể dự báo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế toàn cầu. Trong nước, Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu, vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh quốc phòng và tự chủ, tự cường gắn với hội nhập quốc tế…
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, với chủ trương nhất quán không đánh đổi môi trường, sức khỏe và tính mạng của người dân lấy tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhiều chính sách, giải pháp được ban hành cả trong ngắn hạn và dài hạn; công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật phục vụ cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 cũng như phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ triển khai quyết liệt và linh hoạt. Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và nhiều nghị quyết khác đã được ban hành kịp thời với quy mô lớn và nhiều cơ chế, chính sách chưa có tiền lệ để hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Về tình hình kinh tế - xã hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, sau 02 năm chịu tác động nặng nề của dịch COVID-19 cộng với bối cảnh kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm, nhiều rủi ro, kinh tế - xã hội nước ta đã phục hồi, đạt được kết quả tích cực. Năm 2021, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 2,56% khi nhiều nền kinh tế có mức tăng trưởng âm; năm 2022 phục hồi mạnh mẽ, đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với kế hoạch (6 - 6,5%); 9 tháng đầu năm 2023 đạt 4,24%, cả năm dự báo khoảng 5 - 5,5%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; khu vực nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế. Lạm phát cơ bản được kiểm soát phù hợp; cơ cấu thu ngân sách được củng cố; bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn 03 năm ước ở mức 3,6% GDP; các chỉ tiêu an toàn nợ công dự kiến đều trong giới hạn cho phép. Giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh; các chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp đạt kết quả đáng ghi nhận.
Ủy ban Kinh tế đánh giá những kết quả đạt được là rất đáng ghi nhận; tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế như: Công tác phòng, chống dịch COVID-19 có thời điểm còn bị động, lúng túng, nhất là giai đoạn đầu khi biến chủng Delta bùng phát mạnh; còn tình trạng tư tưởng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác; Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tuy nhiên, chưa có nhiều thay đổi; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; Thu NSNN thường xuyên vượt so với dự toán, phản ánh xây dựng dự toán thấp, làm bó hẹp không gian tài khóa và ảnh hưởng đến dự toán thu của năm tiếp theo…
Về hoàn thành kế hoạch 5 năm 2021 – 2025, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh, với tác động mang tính độ trễ của các giải pháp từ chính sách hỗ trợ nền kinh tế được triển khai liên tục từ đầu năm 2022, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời, khoa học của Trung ương, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tăng cường giám sát, phối hợp kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả, Chính phủ, các Bộ, ngành quyết liệt chỉ đạo các giải pháp tháo gỡ khó khăn, Ủy ban Kinh tế cho rằng tăng trưởng kinh tế năm 2024 - 2025 có thể được phục hồi tốt hơn so với năm 2023, tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng bình quân khoảng 6,5% - 7% và cao hơn mức bình quân của 5 năm 2016 – 2020 (6,25%) là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến vô cùng phức tạp, không thể lường trước.
Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết cần nhấn mạnh tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết số 16/2021/QH15 và các nghị quyết khác có liên quan của Quốc hội. Cụ thể: Bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến các thị trường quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; Triển khai quyết liệt các giải pháp phù hợp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm. Đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam, phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng số gắn với nâng cao năng lực nội tại; Nghiên cứu, đánh giá kết quả và đề xuất ban hành mới hoặc kéo dài các chính sách tiền tệ, chính sách thuế, phí, lệ phí... để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Đồng thời cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ tri thức giai đoạn 2021 – 2030; đẩy mạnh hợp tác giữa các doanh nghiệp FDI và các trường đại học của Việt Nam để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và phù hợp với yêu cầu của thị trường. Chú trọng phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội. Khẩn trương trình Quốc hội xem xét, thông qua CTMTQG về chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, phát huy sự chủ động, sáng tạo và nâng cao trách nhiệm người đứng đầu. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; đẩy mạnh hơn nữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
14h48: Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 – 2026
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc báo cáo một số nội dung chủ yếu về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 – 2026.
Theo đó, thu NSNN thực hiện 9 tháng năm 2023 bằng 75,5% dự toán. Trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, Chính phủ, Quốc hội đã triển khai thực hiện nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí và tiền thuê đất,ước thu NSNN cả năm bằng dự toán Quốc hội giao; tỷ lệ huy động vào NSNN đạt khoảng 15,7% GDP.
Nếu kể cả khoảng 75 nghìn tỷ đồng giảm thu do thực hiện chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế, thu NSNN cả năm tăng khoảng 4,6% so dự toán, là mức rất tích cực trong bối cảnh hiện nay.
Về chi NSNN năm 2023, ước thực hiện 9 tháng bằng 59,7% dự toán. Về cân đối NSNN năm 2023, căn cứ đánh giá thu và chi NSNN, ước bội chi NSNN khoảng 4% GDP. Đến cuối năm 2023, các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Về dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách Trung ương NSTW năm 2024, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nêu rõ, dự toán thu NSNN năm 2024 tăng khoảng 5% so với dự toán và ước thực hiện năm 2023. Tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 15,3%GDP.
Về bội chi NSNN, bám sát mục tiêu Kế hoạch 05 năm theo Nghị quyết của Quốc hội, dự toán bội chi NSNN năm 2024 bằng khoảng 3,6% GDP. Đến cuối năm 2024, các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ nằm trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng báo cáo Quốc hội về khả năng bố trí nguồn thực hiện cải cách tiền lương, theo đó, với dự kiến thu chi NSNN năm 2024, cùng với việc sử dụng một phần nguồn cải cách tiền lương tích lũy của NSTW và các nguồn của NSĐP, dự kiến đảm bảo đủ thực hiện cải cách đồng bộ chính sách tiền lương theo Nghị quyết 27-NQ/TW từ ngày 01/7/2024.
Về chi NSNN, Chính phủ kiến nghị nguyên tắc bố trí dự toán chi NSNN năm 2024, cụ thể đảm bảo bố trí tổng chi đầu tư phát triển lớn hơn bội chi NSNN cho các nhiệm vụ trong kế hoạch đầu tư công trung hạn theo Luật Đầu tư công và các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển khác theo Luật NSNN.
Bố trí chi trả lãi đầy đủ, đúng hạn, chi dự phòng, dự trữ quốc gia ở mức hợp lý để bảo đảm xử lý kịp thời các nhiệm vụ cấp bách phát sinh. Bố trí nguồn thực hiện cải cách tiền lương theo kết luận của Trung ương; Dành nguồn thực hiện điều chỉnh tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng đối với các đối tượng được NSNN đảm bảo; tăng Chế độ ưu đãi người có công và một số chế độ an sinh xã hội đảm bảo bù đắp một phần trượt giá và có tăng thêm; Thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, các nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, với mức thu và bội chi NSNN như trên, dự toán tổng chi cân đối NSNN năm 2024 tăng khoản 1,2% so với dự toán năm 2023. Báo cáo về Kế hoạch tài chính – NSNN 3 năm 2024-2026, Bộ trưởng Bộ Tài chính nêu rõ, Kế hoạch tài chính – NSNN 03 năm 2024-2026 được xây dựng với dự kiến tình hình kinh tế - xã hội từng bước cải thiện, kiểm soát lạm phát, các cân đối lớn được đảm bảo.
Dự toán thu NSNN được xây dựng ở mức tích cực, phù hợp với dự báo tăng trưởng kinh tế. Dự toán chi NSNN xây dựng chặt chẽ, theo quy định của pháp luật, ưu tiên bố trí chi đầu tư, triệt để tiết kiệm các nhiệm vụ chi thường xuyên chưa thực sự cấp thiết, đảm bảo nghĩa vụ chi trả nợ lãi, viện trợ, dự phòng, dự trữ quốc gia.
Tại Kỳ họp này, Chính phủ cũng trình Quốc hội xem xét, quyết định các nội dung, số liệu cụ thể và kiến nghị đã nêu trong các Báo cáo đầy đủ, trong đó, có một số nội dung, như: Tiếp tục thực hiện mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn như Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 ngày 30/12/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đồng thời, tiếp tục thực hiện giảm 2% thuế suất thuế GTGT như Nghị quyết số 101/2023/QH15 của Quốc hội trong 06 tháng đầu năm 2024.
Quyết định một số nội dung đã báo cáo, gồm: tăng số bổ sung cân đối cho NSĐP năm 2024; xử lý bù mặt bằng chi cân đối NSĐP; thu chuyển nguồn cải cách tiền lương năm trước của các địa phương còn dư sang bố trí dự toán chi cân đối NSĐP năm 2024 để thực hiện mức lương cơ sở 1,8 triệu đồng/tháng.
Lộ trình thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết 27- NQ/TW; điều chỉnh phù hợp lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công và một số chính sách an sinh xã hội đang gắn với lương cơ sở.
Việc thực hiện các cơ chế quản lý tài chính, thu nhập đặc thù đối với các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước ở trung ương. Cho phép bố trí vào dự toán chi thường xuyên giao đầu năm cho các cơ quan, đơn vị đối với một số nhiệm vụ chi không giao tự chủ, các nhiệm vụ đặc thù phát sinh không thường xuyên đã đầy đủ hồ sơ, thủ tục nhưng quy định pháp luật hiện hành chưa phân định rõ ràng giữa bố trí từ nguồn vốn đầu tư phát triển hay từ nguồn kinh phí thường xuyên.
Chuyển nguồn sang năm sau phần kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội còn dư của các địa phương có kết quả thực hiện các chính sách an sinh xã hội năm 2022, 2023 thấp hơn mức đã tính trong định mức phân bổ chi thường xuyên NSĐP năm tương ứng, để tiếp tục thực hiện các chính sách an sinh xã hội do trung ương ban hành, không được sử dụng cho mục đích khác.
15h07: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 - 2026
Về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023, dự toán NSNN, phương án phân bổ NSNN, phương án phân bổ NSTW năm 2024, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh nêu rõ mặc dù nền kinh tế nước ta đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nhưng với nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, việc điều hành ngân sách nhà nước đạt nhiều kết quả khả quan.
Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách cũng đề nghị lưu ý một số vấn đề . Cụ thể, tình hình thu NSNN ước hoàn thành dự toán nhưng thực chất vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi thu nội địa giảm. Điều này cho thấy tình hình kinh tế còn khó khăn. Thu NSNN chịu nhiều ảnh hưởng từ các chính sách miễn giảm thuế phí nhưng báo cáo của Chính phủ chưa có đánh giá định lượng, hiệu quả của các chính sách này. Ủy ban Tài chính, Ngân sách cũng cho rằng vai trò chủ đạo của NSTW bị ảnh hưởng. Thu ngân sách địa phương có sự không đồng đều giữa các địa phương, nhiều địa phương ước không đạt dự toán, các địa phương cần phấn đấu hoàn thành dự toán.
Về chi NSNN, Uỷ ban Tài chính, Ngân sách cho rằng dự kiến thực hiện chi NSNN thể hiện được nỗ lực của Chính phủ nhưng vẫn cần lưu ý một số vấn đề như: Về phân bổ giao dự toán chi đầu tư phát triển, báo cáo của Chính phủ chưa làm rõ nguyên nhân chưa giao hết kế hoạch vốn đã được quyết định. Tiến độ giải ngân chi đầu tư phát triển trong 8 tháng đầu năm đã có những cải tiến tích cực cao hơn so với cùng kì 2022 nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, cần tiếp tục có giải pháp cụ thể, quyết liệt, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện cam kết giải ngân, chủ động tháo gỡ khó khăn vướng mắc. Vẫn còn tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản, chưa thu hồi hết vốn ứng trước.
Về chi thường xuyên, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhận thấy chi thường xuyên được phân bổ cơ bản đảm bảo nhiệm vụ chi an sinh xã hội, đảm bảo nguồn thực hiện tăng lương tối thiểu, tăng lương hưu.
Về chương trình mục tiêu quốc gia, qua giám sát cho thấy việc giải ngân nguồn vốn ở nhiều địa phương còn chậm, cần giải pháp tháo gỡ tổng thể để đẩy mạnh triển khai.
Về dự toán NSNN năm 2024, Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng phương án dự toán thu tăng 5% so với số ước thực hiện năm 2023 là khá tích cực trong bối cảnh dự kiến tăng trưởng kinh tế khoảng 6% - 6,5%, lạm phát khoảng 4% - 4,5%. Tuy nhiên thu NSNN vẫn chứa yếu tố rủi ro, thiếu bền vững khi thu từ đất có mức tăng lớn. Về dự toán chi, Ủy ban Tài chính, Ngân sách lưu ý cần đánh giá tổng thể về thực hiện chính sách cải cách tiền lương, cân đối nguồn lực 2024-2026, dự báo đến 2030 để bảo đảm tính khả thi, lâu dài theo đúng tinh thần của Nghị quyết 27-NQ/TW; cần thực hiện các giải pháp đồng bộ để tăng thu ngân sách bền vững, tránh bị động trong bố trí nguồn lực; đề nghị cần có chính sách tài khóa, tiền tệ linh hoạt, có chính sách động viên bổ sung nguồn thu trong giai đoạn tiếp theo; đồng bộ điều chỉnh mức lương cơ sở với đổi mới, sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gắn với vị trí việc làm.
Về kế hoạch tài chính NSNN 3 năm 2024-2026, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhận thấy việc lập kế hoạch đã bám sát mục tiêu Đại hội Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, phù hợp với chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, đảm bảo các nhiệm vụ trọng tâm; đồng thời đề nghị có giải pháp quyết liệt hơn trong điều hành thu chi NSNN, phấn đấu tăng thu.
Về bổ sung dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2023 cho các bộ, cơ quan ở trung ương, địa phương, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết để bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định, đề nghị trên cơ sở tổng mức chi được Quốc hội quyết định, giao Chính phủ rà soát, phân bổ chi tiết từng nhiệm vụ chi cụ thể cho từng bộ, cơ quan trung ương, địa phương; chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, sự cần thiết, tính đầy đủ, hợp lệ, tuân thủ tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi và các điều kiện bổ sung, giao dự toán và giải ngân theo quy định của Luật NSNN và các quy định pháp luật có liên quan. Đối với số vốn còn lại chưa phân bổ, đề nghị Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, báo cáo Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định tại Nghị quyết số 70/2022/QH15. Quá thời hạn theo quy định của pháp luật, đề nghị hủy dự toán theo quy định.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh cũng đề nghị các đại biểu Quốc hội quan tâm thảo luận về tổng thu, tổng chi, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, dự kiến cải cách tiền lương, các nguyên tắc, cơ cấu, phương án phân bổ chi thường xuyên, chi đầu tư NSTW, một số kiến nghị của Chính phủ, đánh giá việc xây dựngKế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 – 2026.
15h25: Quốc hội nghỉ giải lao (20 phút)
15h47: Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025
Báo cáo những kết quả chính đạt được trong các năm 2021-2023, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, triển khai quyết liệt công tác hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về tài chính, ngân sách; cải cách thủ tục hành chính kết hợp hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tinh giản bộ máy. Trong đó, đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng Đề án “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý, phân bổ NSNN để đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và chủ động của NSĐP, các cơ quan, đơn vị có liên quan” và báo cáo ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất việc sửa đổi Luật NSNN trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh vào thời điểm thích họp, tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời chỉ đạo các cơ quan tiến hành lập hồ sơ xây dựng các Luật Thuế giá trị gia tăng, Thuế thu nhập doanh nghiệp, Thuế tiêu thụ đặc biệt để đăng ký vào Chương trình xây dựng Luật.
Bộ Tài chính, các cơ quan hữu quan cũng đã huy động các nguồn lực đảm bảo đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tháo gỡ các vướng mắc về đầu tư công, tăng cường giải ngân các nguồn vốn. Thực hiện cơ cấu lại NSNN với kết quả tích cực. Tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản công; tiếp tục hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại DNNN; ban hành các văn bản tạo hành lang pháp lý trong đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng đẩy mạnh giao quyền tự chủ tài chính, giảm chi bộ máy từ NSNN.
Bàn về những tồn tại, khó khăn trong công tác này, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, công tác hoàn thiện thể chế còn có những khó khăn, trong thực hiện đặt ra yêu cầu rà soát lại các quy định về quản lý chi thường xuyên và đầu tư công để thực hiện nhiệm vụ chi của NSNN. Thu NSNN có xu hướng giảm, dự báo các năm còn lại của giai đoạn phụ thuộc vào việc xử lý các hạn chế nội tại, sự phục hồi của nền kinh tế.
Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN bình quân khả năng không đạt kế hoạch 85-86%; thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở mức rất thấp,... Cơ cấu lại chi NSNN tiếp tục gặp thách thức, áp lực tăng chi lớn. Hiệu quả, hiệu lực quản lý, sử dụng NSNN còn bất cập; phân bổ nhiều lần trong năm, trong đó có một số lĩnh vực chi theo tỷ lệ (ví dụ chi sự nghiệp KHCN, chi sự nghiệp môi trường). Giải ngân vốn đầu tư công nhiều năm không đạt kế hoạch.
Phân tích nguyên nhân của tình trạng này, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng, nguyên nhân khách quan là do: bối cảnh kinh tế, chính trị thế giới và khu vực diễn biến nhanh, chưa có tiền lệ, khó lường...; Tình hình kinh tế - xã hội trong nước vẫn còn khó khăn; Cơ cấu lại nền kinh tế cần thời gian, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế chậm cải thiện; Hệ thống pháp lý trong tổ chức thực hiện còn có những điểm bất cập, chưa phù hợp. Nguyên nhân chủ quan là do: Năng lực xây dựng và thực thi thể chế chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế; Công tác quản lý, điều hành có lúc lúng túng, sự phối họp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ; Năng lực phân tích, dự báo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn luôn biến động,...
Rút ra bài học kinh nghiệm, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng, cần quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng; rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật cho phù hợp, đồng bộ, đáp ứng thực tiễn. Trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện cần nắm chắc tình hình, bám sát thực tiễn, điều hành linh hoạt, quyết liệt, kịp thời, có trọng tâm, trọng điềm và đồng bộ từ trung ương đến địa phương; nâng cao năng lực phân tích, dự báo;...
Cùng với đó, cần coi trọng tính cân đối, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương và cải cách hành chính trong tất cả các khâu huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính - ngân sách cho phát triển kinh tế xã hội, góp phần ổn định vĩ mô, hướng tới phát triển bền vững. Tăng cường công tác tuyên truyền, thông tin, đảm bảo quán triệt, tạo sự đồng thuận.
Về dự kiến khả năng thực hiện 05 năm 2021-2025, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng, các chỉ tiêu cụ thể về thu, chi và cân đối NSNN vẫn đang theo tiến độ kế hoạch tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội; một số chỉ tiêu khả năng khó đạt theo mục tiêu kế hoạch, gồm: tỷ trọng thu nội địa bình quân trong tổng thu NSNN; chi ĐTPT từ nguồn vốn ngoài nước và chi ĐTPT từ nguồn cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.
Trong tổ chức thực hiện các năm 2024-2025, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, cơ quan liên quan để tiếp tục thực hiện, phấn đấu cao nhất các chỉ tiêu trên, cũng như một số chỉ tiêu khác như giảm tỷ lệ nợ đọng thuế trong tổng thu NSNN, giảm Số lượng và giảm chi trực tiếp từ NSNN cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đối với định hướng nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho rằng, cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế. Rà soát, tổng kết thực hiện Luật NSNN. Nghiên cứu xây dựng văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều luật liên quan đầu tư, ngân sách.. .để xử lý vướng mắc giữa các Luật. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất giải pháp chính sách về thu NSNN; chính sách về đất đai theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện cơ cấu lại chi NSNN, bảo đảm nguồn lực cho quốc phòng, an ninh, chính sách an sinh xã hội, lực thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội theo chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước;... Điều hành chi NSNN chặt chẽ, hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Rà soát lại hệ thống các quy định về tỷ lệ chi NSNN đối với một số lĩnh vực như khoa học và công nghệ, giáo dục-đào tạo và dạy nghề, bảo vệ môi trường... phù hợp với thực tiễn quản lý, yêu cầu phát triển của đất nước. Tiếp tục triển khai thực chất việc tinh giản biên chế theo Nghị quyết của Đảng, Bộ Chính trị; rà soát, sắp xếp, kiện toàn các đơn vị sự nghiệp công lập.
16h02: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025
Báo cáo thẩm tra đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Ủy ban TCNS nhận thấy, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành công tác quản lý vay, trả nợ công. Trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn tới kinh tế trong nước, các chỉ tiêu Quốc hội đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 đã được Chính phủ chủ động kiểm soát. Cụ thể:
(1) Các mục tiêu đạt kế hoạch đề ra theo Nghị quyết của Quốc hội. Sau 03 năm triển khai thực hiện, các mục tiêu cụ thể cơ bản đều đạt Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội đề ra; các chỉ tiêu an toàn nợ từng năm giai đoạn 2021-2023 đảm bảo trong các mức trần và ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt .
(2) Công tác quản lý nợ công được điều hành chủ động, chặt chẽ, thận trọng. Chính phủ chủ động ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành theo thẩm quyền và tích cực các biện pháp kiểm soát an toàn nợ công và các hạn mức nợ. Công tác huy động vốn đáp ứng nhu cầu chi của NSNN. Trong bối cảnh thu ngân sách vượt kế hoạch, giải ngân đầu tư công chậm hơn dự kiến, Chính phủ đã chủ động điều chỉnh nhu cầu vay, đảm bảo huy động đủ nguồn lực cho NSNN.
(3) Chính phủ đã chú trọng việc đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và ngoài nước; phát hành trái phiếu Chính phủ tập trung vào kỳ hạn dài. Trong đó, vay trong nước dự kiến khoảng 547.085 tỷ đồng, trong đó chủ yếu phát hành TPCP. Kỳ hạn phát hành TPCP bình quân đạt mức 12,6 năm, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra là từ 9-11 năm tại Nghị quyết số 23/2021/QH15). Kết hợp linh hoạt phát hành để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ. Vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài khoảng 57.294 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng mức vay.
(4) Đảm bảo hạn mức bảo lãnh Chính phủ và hạn mức vay về cho vay lại vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài; kiểm soát chặt chẽ cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay trong phạm vi hạn mức bảo lãnh.
Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Báo cáo của Chính phủ đã đánh giá thẳng thắn về những vấn đề còn hạn chế trong công tác quản lý vay, trả nợ. Ủy ban TCNS nhận thấy, một số tồn tại, hạn chế nổi bật như sau:
Mặc dù các chỉ tiêu, tỷ lệ an toàn nợ công trong giai đoạn 2021-2023 và dự kiến 2 năm còn lại của giai đoạn trong hạn mức được Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, một số chỉ số cần lưu ý: (i) Vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; (ii) tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu NSNN năm 2024 đã tiệm cận mức trần theo Nghị quyết của Quốc hội. Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ phân tích kỹ những vấn đề này, có giải pháp điều hành cân đối NSNN chủ động, bảo đảm an toàn nợ công.
Báo cáo của Chính phủ chưa phân tích kỹ về hiệu quả sử dụng vốn vay, hiệu quả huy động vốn gắn với nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước. Qua số liệu quyết toán NSNN hằng năm cho thấy, số chuyển nguồn ngân sách lớn, giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn nước ngoài rất chậm, trong khi ngân sách phải đi vay để bù đắp bội chi và phải chịu lãi suất, trả phí cam kết, cho thấy tình trạng lãng phí nguồn lực. Đề nghị Chính phủ đánh giá tổng thể về vấn đề này.
Việc huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn. Với vị thế là nước thu nhập trung bình thấp, hiện nay, Việt Nam đang phải tiếp cận các khoản vay gần điều kiện thị trường, các nhà tài trợ cũng chào vay với các điều kiện tài chính kém thuận lợi hơn trước đây. Các khoản vay được ký mới trong giai đoạn này chủ yếu có lãi suất thả nổi.
Bên cạnh đó, Việc giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài rất chậm, nhiều năm không đạt dự toán…
Trước những hạn chế nêu trên, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nhất trí với giải pháp Chính phủ đã nêu, theo đó, tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước, các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội. Đồng thời, Chính phủ tích cực, chủ động, triển khai thực hiện các giải pháp về điều hành thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Đề nghị Chính phủ tiếp tục theo dõi, đánh giá kỹ về một số vấn đề nổi lên như: (i) Vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; (ii) tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu NSNN năm 2024 tăng khá lớn; (iii) tình hình huy động vốn trái phiếu Chính phủ hằng năm trong khi tồn dư NSNN lớn từ số chuyển nguồn tăng thu NSNN năm 2021, 2022, số dư nguồn cải cách tiền lương không thể sử dụng... để trong điều hành ngân sách nhà nước, xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng vốn vay tiết kiệm, hiệu quả và đề xuất giải pháp cân đối NSNN chủ động, bảo đảm an toàn nợ công…
Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xem xét nghiêm túc, đánh giá toàn diện về: (i) Nguyên nhân bất cập, vướng mắc kéo dài; (ii) hiệu quả của các dự án; (iii) tính hợp lý của phương án huy động vốn; (iv) trách nhiệm trong huy động, phân bổ, sử dụng vốn ODA... để đề xuất giải pháp thiết thực, xử lý dứt điểm các tồn tại, hạn chế kéo dài, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay.
16h16: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025
Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, về phân bổ và giải ngân kế hoạch vốn, triển khai Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội, trên cơ sở tổng mức vốn và các nguyên tắc, tiêu chí được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ đã giao kế hoạch đầu tư trung hạn vốn cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đạt khoảng 90% tổng mức vốn được Quốc hội cho phép phân bổ. Tổng kế hoạch đầu tư công hằng năm (từ năm 2021 đến năm 2023) được Quốc hội quyết nghị đạt 59% tổng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
Cơ cấu vốn đầu tư công dịch chuyển gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy cơ cơ cấu lại các ngành, vùng lãnh thổ bảo đảm tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội, giữa các ngành, lĩnh vực, các địa phương, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP tăng, quy mô vốn đầu tư từ nguồn NSNN tăng qua các năm.
Cùng với đó, hiệu quả đầu tư toàn nền kinh tế tăng lên, việc sử dụng vốn đầu tư xã hội nói chung, và vốn đầu tư công nói riêng được cải thiện. Đầu tư công đã phát huy vai trò dẫn dắt, là vốn mồi để thu hút các nguồn lực đầu tư từ các khu vực kinh tế ngoài nhà nước, tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, kéo dài, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến lược, kế hoạch phát triển KTXH 5 năm…
Tuy nhiên, việc ban hành chính sách, văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện dự án đầu tư công trong một số trường hợp còn chậm, gây khó khăn trong công tác tổ chức thực hiện; phân bổ, giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 tuy đã có bước cải thiện nhưng vẫn chậm, làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án và hiệu quả sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, việc phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư công hằng năm cho các nhiệm vụ, dự án của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương có nơi còn chậm và thực hiện nhiều lần trong năm; việc tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch tại một số nơi, một số thời điểm còn lúng túng, bị động, hiệu quả chưa cao; chất lượng chuẩn bị dự án còn thấp, công tác khảo sát, thiết kế dự án chưa tốt dẫn tới nhiều dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư nhưng vẫn chưa đủ điều kiện giải ngân vì vướng mắc về quy hoạch, địa điểm, đất đai, giải phóng mặt bằng, dẫn tới phải điều chỉnh đơn giá, dự toán làm thay đổi hoặc điều chỉnh lại dự án...
Trong giai đoạn tới, Chính phủ sẽ huy động tối đa các nguồn lực đầu tư của nền kinh tế, trọng tâm là bảo đảm nguồn lực NSNN bố trí kế hoạch năm 2024, 2025 đáp ứng nhu cầu còn lại của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025; rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định của pháp luật về đầu tư công và pháp luật có liên quan để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả đầu tư công; chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, nâng cao tính sẵn sàng, tính khả thi, khả năng triển khai thực hiện dự án; khẩn trương phân bổ chi tiết toàn bộ kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 làm căn cứ để triển khai kế hoạch đầu tư hằng năm.
Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án quy mô lớn, trọng điểm; kiên quyết siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát, hậu kiểm, xử lý nghiêm vi phạm; kiểm soát chặt chẽ mục tiêu, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm; hực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư công; nâng cao vai trò của người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành gắn với kiểm soát quyền lực nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra…
16h31: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo thẩm tra về đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025.
Thẩm tra về đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, qua 3 năm thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn (KHĐTCTH), Chính phủ cùng các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, nghiêm túc triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết 29 đặt ra, đạt được nhiều kết quả tích cực: KHĐTCTH giai đoạn 2021 - 2025 được Quốc hội thông qua vào tháng 7/2021, sớm hơn gần 01 năm so với giai đoạn 2016 – 2020, đã tạo ra sự chủ động cho các bộ, ngành, địa phương sớm triển khai thực hiện ngay từ đầu nhiệm kỳ, góp phần triển khai đồng bộ kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021 – 2025, thúc đẩy nền kinh tế vượt qua khó khăn, phục hồi và tiếp tục phát triển.
Thể chế về đầu tư công tiếp tục được hoàn thiện, việc phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục được đẩy mạnh. Trong quá trình chỉ đạo điều hành, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp quyết liệt để đẩy mạnh công tác giải ngân vốn đầu tư công hàng năm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phục hồi nền kinh tế.
Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài, Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, tình trạng thực hiện, giải ngân nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài của rất chậm, nhiều dự án phải gia hạn thực hiện, không hoàn thành và đưa vào khai thác đúng thời hạn dự kiến. Một số trường hợp phát sinh thêm phí cam kết làm tăng chi phí, kéo dài thời gian thực hiện, gây lãng phí nguồn lực, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay. Đề nghị Chính phủ cần xem xét kỹ lưỡng, đánh giá toàn diện về tính hợp lý của việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn ODA, tránh lãng phí, tạo gánh nặng về nợ công trong khi không bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn.
Về dự kiến thực hiện 02 năm còn lại của KHĐTCTH giai đoạn 2021-2025, đa số ý kiến Ủy ban TCNS cho rằng, với thực tế bố trí vốn NSTW hiện nay, việc phân bổ, giao kế hoạch vốn trung hạn và hàng năm chậm, cân đối nguồn cho chi đầu tư công không đạt kế hoạch, yêu cầu cân đối nguồn vốn trong 2 năm còn lại là khá lớn. Bên cạnh đó, vốn bố trí cho các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43 giải ngân rất thấp, tạo áp lực lớn cho bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện giải ngân vốn.
Do vậy, khả năng cân đối đủ nguồn vốn NSTW là hết sức khó khăn để triển khai thực hiện có hiệu quả hơn trong 2 năm còn lại của KHĐTCTH trong khi vai trò chủ đạo của NSTW chưa đảm bảo, nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước thuộc NSTW dự kiến hụt thu lớn. Đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ khả năng cân đối vốn thực tế, tình hình giải ngân vốn đã phân bổ 3 năm qua, tập trung phân bổ, điều chỉnh vốn cho các dự án có khả năng giải ngân để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
Về kế hoạch đầu tư vốn nước ngoài, Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ cho vay vốn để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn, tránh kéo dài, lãng phí nguồn lực. Chính phủ cần đàm phán, thống nhất với các nhà tài trợ để hài hòa quy định của nhà tài trợ với luật pháp trong nước và xây dựng phương thức vay vốn mới, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay.
16h43: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
Báo cáo tại trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, sau gần 02 năm triển khai cho thấy việc ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 là quyết sách đúng đắn, kịp thời của Quốc hội trong hoàn cảnh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19.
Nghị quyết được ban hành tại Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất của Quốc hội với nhiều chính sách chưa từng có tiền lệ hỗ trợ cho công tác phòng, chống, kiểm soát dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thực hiện Nghị quyết đã đạt được nhiều kết quả tích cực, cổ vũ tinh thần cho người dân, doanh nghiệp và bổ sung một nguồn lực lớn từ ngân sách nhà nước và các nguồn huy động khác để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và phát triển nhanh sau dịch COVID-19, được sự đồng thuận, hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân, thành phần kinh tế.
Căn cứ Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, Chính phủ đã xây dựng và ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 nhằm triển khai, thể hóa các quyết sách được Quốc hội quyết nghị. Tuy nhiên, một số chính sách đã hết thời gian thực hiện hoặc sử dụng hết nguồn lực nhưng cần tiếp tục triển khai, một số chính sách có nguồn lực lớn nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình còn chậm, có khả năng không thực hiện được các mục tiêu đã đề ra của chính sách.
Báo cáo kết quả thực hiện các chính sách theo Nghị quyết số 43/2022/QH15, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, về chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, đã diảm 2% thuế giá trị gia tăng. Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo số liệu việc tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ phòng, chống dịch COVID-19 trong thời gian tới.
Về chính sách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đến cuối tháng 8/2023, số tiền hỗ trợ lãi suất tương đương khoảng 1,95% nguồn lực được Quốc hội quyết định, dư nợ đạt gần 57.000 tỷ đồng cho hơn 2.100 khách hàng. Bên cạnh đó, tính đến hết tháng 9/2023, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân tín dụng ưu đãi đạt hơn 21.000 tỷ đồng cho hơn 366.000 lượt khách hàng; đã giải ngân khoảng 3.679,3 tỷ đồng hỗ trợ tiền thuê nhà cho 128.746 lượt người sử dụng lao động và 5.194.162 lượt lao động.
Chính phủ cũng đã xây dựng danh mục và mức vốn bố trí cho các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công và các nguyên tắc, tiêu chí, đối tượng bố trí vốn; khẩn trương, nỗ lực hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án sử dụng nguồn vốn Chương trình trong thời gian ngắn, kể cả các dự án quan trọng quốc gia, quy mô lớn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, địa phương. Đồng thời phân bổ chi tiết hơn 166.000 tỷ đồng vốn Chương trình trong kế hoạch các năm 2022, 2023, góp phần đẩy nhanh việc khởi công xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đường cao tốc, cầu khẩu độ lớn...
Về những tồn tại, hạn chế, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc xây dựng, ban hành văn bản triển khai chính sách thuộc Chương trình đã được thực hiện tích cực, tuy nhiên một số văn bản còn chậm so với yêu cầu đề ra; Công tác dự báo, tính toán nhu cầu hỗ trợ của một số chính sách trong quá trình xây dựng Chương trình chưa lường hết được khó khăn, vướng mắc trong tổ chức triển khai; trong khi tình hình thế giới, trong nước từ đầu năm 2022 đến nay thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề mới, không thể dự báo; Việc thực hiện và giải ngân một số chính sách đã được ban hành còn thấp so với quy mô nguồn lực được giao; Việc triển khai các chính sách hỗ trợ ở một số nơi, một số chỗ, một số thời điểm còn chưa linh hoạt, chủ động, quyết liệt; Việc phân bổ và giải ngân nguồn vốn của Chương trình cho các nhiệm vụ, dự án còn chậm, tạo áp lực giải ngân lớn, nhất là trong kế hoạch năm 2023.
Trên cơ sở đó, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, tiếp tục giao Chính phủ triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị quyết số 43/2022/QH15. Về Sử dụng số vốn từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 còn dư sau khi thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép bổ sung đối tượng vào Nghị quyết số 43/2022/QH15 và bố trí số vốn gần 3.000 tỷ đồng còn dư sau khi thực hiện chính sách nêu trên cho 05 dự án thuộc ngành y tế.
Đồng thời Chính phủ kiến nghị cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình đến hết năm 2024. Giao Chính phủ rà soát, xác định rõ số vốn cần kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân của từng dự án, trên cơ sở đó báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
16h56: Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
Báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đánh giá cao những nỗ lực và sự chỉ đạo quyết liệt, tích cực, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, vai trò đầu mối của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như sự tham gia vào cuộc của các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương có liên quan, UBND các tỉnh, thành phố, đã ban hành đầy đủ 17/17 văn bản theo thẩm quyền để cụ thể hóa các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết số 43, tổ chức phối hợp, thực hiện và hoàn thành khối lượng lớn công việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng việc ban hành một số văn bản hướng dẫn, chuẩn bị các dự án chưa kịp thời, làm ảnh hưởng đến tiến độ, tính hiệu lực, hiệu quả, ý nghĩa của Nghị quyết; chưa quyết liệt trong việc hoàn thiện, chủ trương đầu tư, đề nghị cắt giảm, không thực hiện một số dự án thuộc Chương trình, làm chậm tiến độ triển khai dự án, ảnh hưởng tiến độ giải ngân và hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Việc xác định danh mục các dự án thuộc Chương trình chưa bảo đảm tính chặt chẽ, sát thực, có nhiều điều chỉnh so với danh mục đã báo cáo Quốc hội… Một số chính sách có nguồn lực lớn nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế, chưa đạt yêu cầu đề ra.
Do đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ, làm rõ trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân trong việc không hoặc chậm triển khai chính sách, kết quả thấp, không khả thi và đánh giá tác động tới kết quả, hiệu quả triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Về kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, Ủy ban Kinh tế thống nhất với Báo cáo của Chính phủ về đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 43. Việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, Chính phủ chưa phân tích rõ những khó khăn, tồn tại, nhất là khả năng phục hồi của nền kinh tế thời gian qua chưa thật sự bền vững. Đề nghị Chính phủ bổ sung phân tích về những khó khăn, vướng mắc, đánh giá khả năng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 5 năm 2021-2025, từ đó đánh giá hiệu quả triển khai các chính sách tới khả năng phục hồi của người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Về kết quả thực hiện các chính sách tại Nghị quyết số 43, đối với chính sách tài khóa, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, kết quả thực hiện các gói hỗ trợ của chính sách tài khóa đã có tác động tích cực tới người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế; trong đó một số chính sách hỗ trợ có kết quả thực hiện cao như các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí đạt 94,6% kế hoạch; chính sách cho vay thông qua Ngân hàng chính sách xã hội đạt 54,55% hạn mức tối đa, trong đó nổi bật là chính sách cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm đã đạt 100% kế hoạch đề ra.
Bên cạnh đó, đa số các gói hỗ trợ thuộc chính sách tài khóa giải ngân chậm, có trường hợp rất chậm như giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình đạt khoảng 28,9%; cho vay cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập đạt 10,8%; cho vay phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi đạt 21,9%...
Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ tập trung phân tích, làm rõ nguyên nhân chủ quan, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện chậm; ngoài những nguyên nhân đã chỉ ra trong báo cáo, cần đánh giá việc bám sát thực tiễn trong công tác dự báo, tính toán nhu cầu, trình tự thủ tục hỗ trợ trước khi ban hành chính sách; bổ sung đánh giá việc triển khai các chính sách chậm tác động tới đối tượng thụ hưởng và hiệu quả tổng thể của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Về chính sách tiền tệ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Chính phủ đã đánh giá cơ bản tổng thể, toàn diện tình hình thực hiện chính sách tiền tệ. Về nhiệm vụ điều hành tăng trưởng tín dụng, một số ý kiến cho rằng nền kinh tế hiện nay khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn, mặc dù mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm xuống, dư nợ tín dụng đến 29/9 chỉ tăng 6,92%, cho thấy nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn tín dụng còn rất yếu. Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ bổ sung phân tích, đánh giá hiệu quả, tác động của các chính sách tới đối tượng thụ hưởng và khả năng phục hồi doanh nghiệp và nền kinh tế. UBKT đề nghị Chính phủ bổ sung phân tích, đánh giá hiệu quả, tác động của các chính sách tới đối tượng thụ hưởng và khả năng phục hồi doanh nghiệp và nền kinh tế.
Đồng thời đề nghị Chính phủ tập trung nguồn lực, nhân lực để tiếp tục triển khai hiệu quả các cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 trong thời gian còn lại của Nghị quyết (đến hết 31/12/2023); bảo đảm thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết đã đặt ra.
Đối với việc triển khai chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thực hiện chính sách hỗ trợ 2% lãi suất này; đối với số vốn không giải ngân hết kế hoạch sau khi kết thúc thời gian giải ngân của Chương trình, trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn theo quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Luật Ngân sách nhà nước.
Về đề nghị cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư của Chương trình, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện tối đa việc điều hòa vốn cho các nhiệm vụ, dự án theo quy định tại Nghị quyết số 93/2023/QH15 của Quốc hội để bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn và tăng cường tính kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công.
17h05: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu kết thúc Phiên họp
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, Quốc hội đã nghe các báo cáo về đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2023, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm 2024 – 2026; đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025; đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025; kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Phiên họp chiều nay kết thúc tại đây. Ngày mai, Quốc hội tiếp tục thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.