ĐBQH NGUYỄN THỊ VIỆT NGA: GIẢM THỜI GIAN ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI XUỐNG CÒN 15 NĂM PHẢI CÓ CHẾ ĐỊNH CỤ THỂ, TRÁNH VIỆC TRỤC LỢI CHÍNH SÁCH
TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 23/11: QUỐC HỘI THẢO LUẬN VỀ DỰ ÁN LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI)
Theo chương trình kỳ họp thứ 6, Quốc hội vừa thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). Một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đối với dự án Luật là khoản 1 Điều 21 quy định điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội là đủ 75 tuổi trở lên và không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng khác theo quy định của Chính phủ.
Tuy nhiên, độ tuổi quy định tại Điều 21 khác với độ tuổi mà người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng chế độ hưu trí quy định tại Điều 64 dự thảo và Điều 169 Bộ luật Lao động... Vì vậy, cần có sự đánh giá tác động và khả năng đáp ứng của ngân sách Nhà nước, nhất là trong điều kiện nước ta sắp chuyển sang giai đoạn dân số già hóa. Số lượng người thuộc diện bảo đảm của chính sách này sẽ ngày càng gia tăng.
Quốc hội thảo luận về dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).
Đại biểu Nguyễn Thị Huế - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Kạn nhấn mạnh: Tại Chương III quy định chế độ trợ cấp hưu trí xã hội, Điều 20 dự thảo luật quy định "đối tượng áp dụng trợ cấp hưu trí xã hội là công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật". Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 169 Bộ luật Lao động, tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và 60 tuổi đối với nữ vào năm 2035. Mặt khác, khoản 1 Điều 21 dự thảo luật quy định "điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội là đủ 75 tuổi trở lên và không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng khác theo quy định của Chính phủ". Theo đó, độ tuổi quy định tại Điều 21 khác với độ tuổi mà người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng chế độ hưu trí quy định tại Điều 64 trong dự thảo luật và Điều 169 Bộ luật Lao động. Nếu quy định như vậy vừa mâu thuẫn giữa Điều 20 và Điều 21, vừa gây khó hiểu trong quá trình thực thi, mà thực chất đây là chính sách trợ cấp cho người cao tuổi chưa được hưởng bất kỳ một chế độ nào.
Để dễ hiểu và thuận lợi cho quá trình thực hiện, đại biểu Nguyễn Thị Huế đề nghị gộp Điều 20 và Điều 21 thành một điều chung là đối tượng, điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội và sửa lại như sau: "đối tượng áp dụng trợ cấp hưu trí xã hội là công dân Việt Nam đủ 75 tuổi trở lên, không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng khác theo quy định của Chính phủ".
Đại biểu Nguyễn Thị Huế - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Kạn.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Huế, chính sách trợ cấp hưu trí xã hội là một chính sách hết sức nhân văn được nhiều cử tri và Nhân dân mong đợi. Với quy định như vậy đã thể chế hóa một bước chủ trương điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội của Nghị quyết số 28, nhằm phấn đấu đạt mục tiêu đến hết năm 2030 khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hàng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
Đối với người cao tuổi từ 75 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng khác thì việc hạ độ tuổi sẽ giúp người cao tuổi có khoản trợ cấp hàng tháng, hỗ trợ về kinh tế để cải thiện cuộc sống và được sử dụng thẻ bảo hiểm y tế dành cho người cao tuổi để khám, chữa bệnh. Ước tính hiện nay có khoảng 1,5 triệu người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng khác, đang được hưởng trợ cấp xã hội. Khi giảm độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 80 tuổi xuống 75 tuổi sẽ có thêm khoảng gần 800.000 người cao tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội và bảo hiểm y tế.
Tuy nhiên, việc đề xuất độ tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 75 tuổi trở lên lại nhận được những ý kiến trái chiều. Đại biểu Sùng A Lềnh – Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai nhận định, việc bổ sung quy định về trợ cấp hưu trí, xã hội để hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng là thể chế hóa nội dung của Nghị quyết số 28 của Trung ương. Chính sách này thể hiện tính nhân văn, trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm an sinh cho người cao tuổi không có lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng khác.
Đại biểu Sùng A Lềnh – Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai.
Tuy nhiên, việc quyết định loạt trợ cấp hưu trí xã hội không gắn với nghĩa vụ đóng và được điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội. Trong Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có thể ảnh hưởng tới chính sách phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, cũng như ảnh hưởng tới mục tiêu hạn chế giúp bảo hiểm xã hội một lần. Vì có thể dẫn tới tâm lý người lao động suy nghĩ không cần tham gia bảo hiểm xã hội hoặc không cần duy trì đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, đến khi đủ điều kiện về tuổi (trong dự thảo luật đang đề xuất là 75 tuổi) vẫn được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội. Đây là vấn đề cần phải đánh giá kỹ tác động và khả năng đáp ứng của ngân sách Nhà nước, nhất là trong điều kiện nước ta sắp chuyển sang giai đoạn dân số già hóa. Số lượng người thuộc diện bảo đảm của chính sách này sẽ ngày càng gia tăng.
Đồng thuận với việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, hướng đến mở rộng bảo hiểm xã hội toàn dân, đúng tinh thần Nghị quyết 28. Tuy nhiên, đại biểu Ma Thị Thúy – Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang cũng còn băn khoăn việc đưa đối tượng người cao tuổi từ đủ 75 tuổi trở lên hưởng trợ cấp hưu trí xã hội theo cách trình bày của Ban soạn thảo.
Thứ nhất, trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi không có lương hưu, không có trợ cấp bảo hiểm xã hội nếu không thực hiện và mang sang luật này thì Luật Người cao tuổi và Nghị định 20 quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội vẫn đang được thực hiện. Nếu không bổ sung nhóm đối tượng này vào Luật Bảo hiểm xã hội thì người cao tuổi vẫn được hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định.
Thứ hai, về tên gọi trợ cấp hưu trí xã hội. Đối tượng này thực hiện theo điểm a, b, c khoản 5 Điều 5 của Nghị định 20 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội gồm: Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc diện quy định ở điểm a khoản này đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn. Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại điểm a khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng.
Đại biểu Ma Thị Thúy – Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang.
Ở đây chính sách bảo hiểm xã hội thực hiện theo nguyên tắc đóng hưởng, trong khi trợ cấp cho nhóm đối tượng này hoàn toàn do ngân sách nhà nước chi trả. Vậy liệu quy định vào dự thảo luật có phù hợp hay không? Mặt khác, về tên gọi trợ cấp hưu trí xã hội cho nhóm đối tượng không phải là hưu trí từ công chức, viên chức, người lao động và chưa từng tham gia đóng bảo hiểm xã hội liệu có phù hợp khi được quy định trong trường hợp này hay không?
Thứ ba, về độ tuổi trợ cấp xã hội, theo quy định hiện nay, người từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) lần này lại quy định trợ cấp hưu trí xã hội cho tất cả công dân từ 75 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Như vậy sẽ bỏ Điều 17 trong Luật Người cao tuổi năm 2009 hay vẫn còn giữ nguyên Điều 17? Nếu bỏ thì chế độ bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng những người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng thì sẽ giải quyết như thế nào?
Từ những băn khoăn nêu trên, đại biểu Ma Thị Thúy kiến nghị Ban soạn thảo cần có báo cáo làm rõ hơn quy định này về đối tượng, độ tuổi, tên gọi, mức trợ cấp, các chính sách có liên quan, nguồn lực thực hiện và tính liên thông, tính đa tầng với các quy định khác cho phù hợp chung với các nguyên tắc đã được nêu trong dự thảo luật.
Giảm dần độ tuổi trợ cấp hưu trí xã hội tiến tới tiệm cận tuổi nghỉ hưu
Trước những ý kiến đóng góp, đề xuất của các ĐBQH về trợ cấp hưu trí xã hội, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung khẳng định, đây là vấn đề mà Chính phủ, Ban soạn thảo đã bám sát tinh thần Nghị quyết 28 để thảo luận, cân nhắc và trình với Quốc hội. Việc trợ cấp hưu trí xã hội là tầng đầu tiên trong hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng theo định hướng Nghị quyết 28. Trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách Nhà nước đảm bảo cho người lao động ở các độ tuổi là người cao tuổi, không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội hàng tháng. Để có chính sách huy động nguồn lực xã hội bổ sung cho các đối tượng này có mức lương hưu cao hơn.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung.
Theo Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, việc điều chỉnh giảm dần độ tuổi trợ cấp hưu trí xã hội, trước mắt kỳ này Chính phủ đề xuất với Quốc hội giảm từ 80 xuống 75, với phương án sẽ tiếp tục giảm dần, tiến tới tiệm cận tuổi nghỉ hưu. Việc điều chỉnh này sẽ tùy theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách của Nhà nước. Việc này điều chỉnh thời điểm nào, mức nào sẽ do Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Đồng thời, để linh hoạt quy định mức hỗ trợ kinh phí cho trợ cấp hưu trí xã hội, cũng như các hỗ trợ khác như thai sản, hỗ trợ phụ nữ trẻ em,... mà chúng ta đã nêu trong dự thảo sẽ giao cho Chính phủ quy định mức này. Tóm lại, tất cả mức quy định bằng tiền sẽ giao cho Chính phủ quy định, như vậy sẽ phù hợp và linh hoạt hơn. Còn những mức nào đó quy định ra sao, trách nhiệm của Chính phủ sẽ báo cáo Thường vụ Quốc hội trước khi xem xét, quyết định theo thẩm quyền./.