TĂNG CƯỜNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRƯỚC QUỐC HỘI
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước
Bảo đảm cho việc thực thi pháp luật được thống nhất, hiệu quả
Quyền giám sát của Quốc hội và trách nhiệm giải trình của Chính phủ trước Quốc hội là hai mặt của một vấn đề với mục tiêu thống nhất là bảo đảm cho việc thực thi pháp luật, thực hiện đầy đủ quyền lực Nhân dân mà Quốc hội là người đại diện. Các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến quyền giám sát của Quốc hội và trách nhiệm giải trình của Chính phủ khá đầy đủ, từ Hiến pháp đến các Luật tổ chức Quốc hội, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Chính phủ...Trách nhiệm giải trình của của chính phủ trước quốc hội trong giám sát thi hành pháp luật là một chế định mang tính phổ quát trong quản trị của các quốc gia phát triển và được coi là một trong những trụ cột trong công tác giám sát của Quốc hội với các cơ quan của Chính phủ, qua đó, đại biểu quốc hội và cử tri theo dõi kết quả thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan hành pháp so với những quy định, kế hoạch triển khai hay những lời hứa, cam kết của những người đứng đầu ngành trong thực thi công vụ, góp phần phòng, chống tham nhũng hiệu quả.
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái báo cáo, giải trình trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV
Nghiên cứu về nội dung này, TS. Hoàng Thị Lan cho biết, Quốc hội và Chính phủ có vai trò quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Việc thực hiện trách nhiệm báo cáo, giải trình của Chính phủ trước Quốc hội tác động đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước, là căn cứ quan trọng để đánh giá hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Vì vậy, quan điểm hoàn thiện pháp luật để nâng cao chế độ báo cáo, giải trình của Chính phủ trước hết xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Chính phủ. Ngày 09/11/2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong đó, việc nâng cao trách nhiệm giải trình là một trong những yêu cầu đặt ra trong nhóm nhiệm vụ giải pháp để tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ.
Cũng theo TS. Hoàng Thị Lan, trách nhiệm báo cáo, giải trình của Chính phủ trước Quốc hội được nhận diện thông qua quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan. Căn cứ các văn bản pháp luật, cơ bản trách nhiệm báo cáo, giải trình của Chính phủ trước Quốc hội được quy định tương đối đầy đủ, có nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung phù hợp với những điểm mới của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ và nhiều văn bản pháp luật có liên quan. Điều này phản ánh quá trình phát triển khoa học pháp lý và mong muốn của Đảng, Nhà nước về một Chính phủ có trách nhiệm trước Quốc hội, trước Nhân dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vấn đề này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.
Do vậy, từ nhận thức về vị trí vai trò của Quốc hội, Chính phủ và chế độ báo cáo, giải trình của Chính phủ trước Quốc hội trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về chế định này là yêu cầu cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Giải quyết các yêu cầu trên với cách thức cơ bản là rà soát hệ thống pháp lý đã ban hành, đánh giá thực trạng và đối chiếu với hiệu quả hoạt động thực tế để hướng tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Chính phủ.
Hoàn thiện pháp luật về chế độ báo cáo, giải trình của Chính phủ
Nhận diện chế độ báo cáo, giải trình của Chính phủ là một hoạt động để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao và Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội. Để hoàn thiện pháp luật về chế độ báo cáo, giải trình của Chính phủ, TS. Hoàng Thị Lan, Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật như sau:
TS. Hoàng Thị Lan, Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội
Thứ nhất, đối với hình thức giám sát thông qua việc xem xét báo cáo: Quy định chi tiết tiêu chí để lựa chọn nội dung Chính phủ báo cáo trực tiếp (có thẩm tra, xem xét, thảo luận), nội dung nào chỉ gửi ĐBQH tự nghiên cứu để cung cấp thông tin. Đối với mỗi loại báo cáo cần quy định cụ thể về thời hạn gửi báo cáo; thời gian thẩm tra tùy thuộc vào tính chất, nội dung của loại báo cáo.
Đồng thời, cần bổ sung chế tài xử lý các cơ quan liên quan khi để xảy ra tình trạng không gửi, chậm gửi báo cáo theo quy định. Có thể đây là tiêu chí để xem xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các thành viên Chính phủ khi lấy phiếu tín nhiệm hoặc đánh giá kết quả nhiệm vụ cuối năm...; Bổ sung quy định về huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học về lĩnh vực thẩm tra các báo cáo trình Quốc hội.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về các hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo, giải trình:
Liên quan đến việc áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật của Quốc hội đối với thành viên Chính phủ: Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính hình thức trong việc Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo, giải trình là thiếu quy định xác định hậu quả pháp lý khi thông qua hoạt động báo cáo, giải trình của Chính phủ để Quốc hội đánh giá kết quả đạt được, trách nhiệm của Chính phủ đến đâu đối với kết quả đó.
Hiện nay, trong lĩnh vực tổ chức, pháp luật Việt Nam mới chỉ quy định về trách nhiệm gánh chịu hậu quả của cá nhân thành viên Chính phủ mà không đề cập đến trách nhiệm tập thể. Ngoài ra, chưa có sự phân biệt giữa miễn nhiệm và bãi nhiệm, giữa miễn nhiệm và cách chức. Mặc dù các hình thức này giống nhau vì cùng thông qua hành động của Quốc hội theo trình tự, thủ tục để Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên của Chính phủ không còn đảm nhiệm chức vụ trước khi hết nhiệm kỳ nhưng khác nhau về bản chất, nguyên nhân dẫn đến việc Quốc hội quyết định lựa chọn hình thức nào để áp dụng đối với các thành viên Chính phủ. Do vậy, pháp luật nên bổ sung quy định để phân biệt các hình thức áp dụng đối với từng biện pháp xử lý phù hợp.
Các vị đại biểu Quốc hội tham gia chất vấn, tranh luận tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV
Đối với hoạt động chất vấn: Kế thừa quy định chất vấn tại các bản Hiến pháp, Hiến pháp năm 2013 tiếp cận theo hướng: Chất vấn là quyền của đại biểu, trả lời chất vấn là trách nhiệm của thành viên Chính phủ. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động chất vấn nhiều khóa Quốc hội cho thấy, cần thay đổi nhận thức về hoạt động chất vấn. Không nên chỉ coi chất vấn là quyền mà còn được xác định là nghĩa vụ, trách nhiệm của Quốc hội, của từng ĐBQH. Ngược lại, trả lời chất vấn không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà còn là quyền của thành viên Chính phủ. Khi thay đổi nhận thức đó mới nâng cao được chất lượng câu hỏi chất vấn của ĐBQH, bản thân Chính phủ mới thực hiện hiệu quả chế độ báo cáo, giải trình trước Quốc hội.
Bên cạnh việc thay đổi nhận thức, cần sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về khái niệm, trình tự, thủ tục chất vấn, cụ thể: Sửa đổi khái niệm chất vấn: Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy định: “Chất vấn là việc ĐBQH nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, .... và yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu” (khoản 7 Điều 2). Như vậy, chất vấn gồm hai thành phần: Nêu vấn đề và yêu cầu trả lời.
Sửa đổi các quy định liên quan đến hoạt động chất vấn theo hướng quy định rõ hơn hình thức, trách nhiệm chuyển tải nội dung trả lời chất vấn đối với các trường hợp bị chất vấn mà không trả lời trực tiếp tại kỳ họp Quốc hội cho Nhân dân để nhằm bảo đảm cho tất cả cử tri, biết được nội dung trả lời chất vấn (trừ những trường hợp liên quan đến bí mật nhà nước).
Thứ ba, quy định về thành phần tham gia các phiên họp có nội dung báo cáo, giải trình của Chính phủ: Để đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch với sự tham gia của công chúng thì nên quy định về thành phần tham dự các phiên họp có nội dung báo cáo, giải trình của Chính phủ.
Trong đó, thành phần tham dự tùy thuộc vào tính chất nội dung hoạt động giám sát của Quốc hội để mời các thành phần khác đến dự phiên họp để có thêm thông tin bên cạnh các thông tin do các cơ quan có trách nhiệm báo cáo, giải trình cung cấp. Khi yếu tố cung cấp thông tin được đặt lên hàng đầu thì việc mở rộng thành phần tham dự và họ có quyền cung cấp thông tin là một giải pháp để Quốc hội, cử tri và Nhân dân có thể đối chiếu, đối chứng, kiểm chứng các nguồn thông tin với nhau, nhất là kiểm chứng thông tin của các bộ, ngành.
Đối với các hoạt động báo cáo, giải trình gắn liền với công tác xây dựng pháp luật thì việc mời đại diện của các nhóm trong xã hội như doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức xã hội, cá nhân công dân phát biểu về vấn đề thực hiện chính sách hoặc dự luật… bên cạnh các ý kiến của các bộ, ngành cũng nên được xem như là một gợi ý để nâng cao chất lượng hoạt động báo cáo, giải trình của Chính phủ.
TS. Hoàng Thị Lan nhấn mạnh, tính quyền lực Nhân dân được xuất phát từ nguyên lý mọi hoạt động của cơ quan nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân thông qua Quốc hội - cơ quan đại diện của Nhân dân. Đạt được điều đó, yêu cầu đặt ra không chỉ là các giải pháp hướng tới chủ thể thực hiện chế độ báo cáo, giải trình mà cần được tính đến trong giải pháp tổng thể hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước./.