Trước đó, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An; Biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
Tiếp theo, Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi); Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
8h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp
Điều hành phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, theo chương trình sáng nay, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An; biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
Mở đầu chương trình, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An.
8h01: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An
Trình bày Báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về bổ sung thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cho biết, ngày 31/5/2024 và 07/06/2024, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về bổ sung thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo số 890/BC-UBTVQH15 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
Theo đó, về tên gọi của Nghị quyết, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin điều chỉnh tên gọi của Nghị quyết thành: “Nghị quyết của Quốc hội về bổ sung thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An”.
Về chính sách hỗ trợ ngân sách giữa các cấp, các địa phương (khoản 2 Điều 3) , tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý quy định tại Dự thảo Nghị quyết theo hướng mở rộng phạm vi địa bàn của tỉnh Nghệ An được nhận hỗ trợ từ các tỉnh, thành phố khác. Theo đó, khoản 2 Điều 3 của Dự thảo Nghị quyết được sửa lại như sau: “Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được sử dụng ngân sách cấp mình để hỗ trợ tỉnh Nghệ An thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh đối với các địa bàn, nhiệm vụ cụ thể. Trường hợp hỗ trợ chung cho tỉnh Nghệ An thì việc phân bổ cho các địa bàn cụ thể do Hội đồng nhân dân Tỉnh quyết định, trong đó, ưu tiên cho huyện Nam Đàn và địa bàn miền Tây Nghệ An”.
Đối với chính sách cho phép tỉnh Nghệ An khi xác định số bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương không tính đối với nguồn thu thuế từ các cơ sở sản xuất thủy điện, nguồn thu nội địa từ hoạt động khai khoáng… để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội địa bàn miền Tây Nghệ An (khoản 3 Điều 3).
Có ý kiến đề nghị quy định không tính đối với nguồn thu thuế từ các cơ sở sản xuất thủy điện, nguồn thu nội địa từ hoạt động khai thác khoáng sản được áp dụng đầu tư trên toàn bộ địa bàn tỉnh Nghệ An. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Miền Tây Nghệ An là địa bàn đặc biệt khó khăn và cũng là địa bàn quan trọng của tỉnh, nhạy cảm về chính trị, quốc phòng, an ninh; trong khi đó, đầu tư về cơ sở hạ tầng cho khu vực này còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, rất cần tập trung hỗ trợ thêm nguồn lực từ ngân sách Trung ương. Do vậy, việc đề xuất áp dụng cơ chế thí điểm này là cần thiết. Đồng thời, để bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, tập trung nguồn lực cho địa bàn thực sự khó khăn, quy định thể hiện như tại Dự thảo Nghị quyết là phù hợp.
Về chính sách phân bổ thêm 50% số vốn đầu tư công nguồn NSTW bổ sung có mục tiêu cho tỉnh Nghệ An (khoản 4 Điều 3), Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Nghệ An hiện là tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, đang nhận bổ sung cân đối từ NSTW, nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế. Việc cho phép phân bổ thêm 50% số vốn đầu tư công nguồn NSTW bổ sung có mục tiêu cho địa phương sẽ bảo đảm tính ổn định, công khai, minh bạch, rõ ràng của chính sách; tạo sự chủ động cho địa phương trong việc cân đối, lập kế hoạch bố trí nguồn lực cho các dự án. Chính sách này tương tự như chính sách cho phép tỉnh Nghệ An được phân bổ thêm 45% so với định mức chi thường xuyên được áp dụng từ năm 2022. Vì vậy, chính sách hỗ trợ thêm nguồn lực đầu tư công cho Nghệ An là cần thiết. Đồng thời, để bảo đảm chủ động, khả thi, phù hợp với tình hình và nhu cầu thực tế của địa phương, khoản 4 Điều 3 Dự thảo Nghị quyết quy định giao HĐND quyết định danh mục đầu tư từ nguồn tăng thêm này.
Về điều chỉnh chủ trương đầu tư (khoản 2 Điều 4), tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, để bảo đảm tính chặt chẽ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung nội dung “Giữa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân” vào khoản 2 Điều 4 Dự thảo Nghị quyết.
Tiếp thu ý kiến đại biểu về quy định mở rộng phạm vi điều chỉnh tăng tỉ lệ vốn nhà nước tham gia không quá 70% tổng mức đầu tư đối với các dự án trong lĩnh vực văn hóa, thể thao; các dự án thực hiện trên địa bàn miền Tây Nghệ An, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh tăng tỉ lệ vốn nhà nước tham gia không quá 70% tổng mức đầu tư đối với các dự án trong lĩnh vực văn hóa, thể thao; các dự án thực hiện trên địa bàn miền Tây Nghệ An là phù hợp với đặc thù, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An. Đây là lĩnh vực và địa bàn không hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư theo hình thức PPP. Do đó, các dự án PPP trên địa bàn tỉnh cần có chính sách cho phép nâng tỷ lệ tham gia vốn của Nhà nước tới 70% tổng mức đầu tư dự án đối với lĩnh vực văn hóa, thể thao và các dự án thực hiện trên địa bàn miền Tây Nghệ An nhằm tăng tính hấp dẫn và thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư tư nhân, tạo sự linh hoạt, tháo gỡ khó khăn đối với các dự án PPP trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, quy định tại Dự thảo Nghị quyết là phù hợp.
Đối với chính sách tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư công (khoản 5 Điều 4), tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, để bảo đảm tính chặt chẽ, cụ thể trong trường hợp quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án tổng thể, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung nội dung trên tại điểm b khoản 5 Điều 4 Dự thảo Nghị quyết.
Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, về cơ chế chính sách khai thác, phát triển quỹ đất đô thị (Khoản 1 Điều 5), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý lại nội dung này tại khoản 1 Điều 5 Dự thảo Nghị quyết, để phù hợp với quy định của Luật Đất đai, cụ thể là: “Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An xem xét, quyết định vị trí, ranh giới, diện tích đất thu hồi dự án vùng phụ cận tiếp giáp các điểm kết nối giao thông và các tuyến đường giao thông đô thị trên địa bàn Tỉnh ngoài phạm vi chỉ giới đường đỏ theo quy hoạch…”.
Về sử dụng nguồn kinh phí trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác (khoản 2 Điều 5), tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung vào khoản 2 Điều 5 về trách nhiệm của UBND tỉnh Nghệ An như sau: “Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An chịu trách nhiệm về việc sử dụng nguồn kinh phí này đúng mục đích, hiệu quả.”.
Về tổ chức thực hiện (Điều 7), tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thể hiện tại điểm a khoản 1 Điều 7 như sau: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết này; sơ kết 03 năm việc thực hiện Nghị quyết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2027; tổng kết 05 năm việc thực hiện Nghị quyết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2029”.
Về điều khoản thi hành (Điều 8), một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể trong Nghị quyết thời hạn áp dụng là 05 năm. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, ý kiến các vị đại biểu Quốc hội là xác đáng và xin tiếp thu bổ sung thời gian hiệu lực của của Dự thảo Nghị quyết là 05 năm tương tự các Nghị quyết của Quốc hội đã được ban hành và đã thể hiện lại tại khoản 1 Điều 8 Dự thảo Nghị quyết.
8h12: Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An
Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An bằng hình thức biểu quyết điện tử. Kết quả biểu quyết cho thấy, có 453 đại biểu biểu quyết tán thành (chiếm 93,21%). Như vậy, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An với tỷ lệ tán thành cao.
8h15: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng
Trình bày Báo cáo tại Phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, ngày 31/5/2024 và 07/06/2024, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách phát triển Thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo số 890/BC-UBTVQH15 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
Về phạm vi của Nghị quyết, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan thẩm tra phối hợp với Ban soạn thảo rà soát kỹ lưỡng các chính sách trong dự thảo Nghị quyết, tránh tạo ra những xung đột pháp luật, vướng mắc trong triển khai, thực hiện.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho rằng, việc xây dựng chính sách cần bảo đảm thận trọng, chỉ quy định những nội dung “đã chín, đã rõ”, không quy định những vấn đề chưa được đánh giá kỹ lưỡng. Do vậy, tại thời điểm hiện nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng phạm vi chính sách thể hiện như dự thảo Nghị quyết là phù hợp.
Liên quan đến nội dung về quản lý đầu tư (Điều 9), Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương, tăng thêm nguồn lực cho ngân sách địa phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng quy định như dự thảo Nghị quyết là phù hợp.
Về quản lý tài chính - NSNN (Điều 10), tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý theo hướng quy định tổng dư nợ vay không vượt quá 80% số thu ngân sách Thành phố được hưởng theo phân cấp.
Đối với việc thí điểm thành lập Khu thương mại tự do (Điều 13), Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc thí điểm thành lập Khu thương mại tự do là chủ trương lớn đã có đủ căn cứ chính trị, căn cứ pháp lý; nếu thực hiện thành công sẽ tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng và của cả vùng. Tuy nhiên, đây là chính sách mới, chưa được thực hiện tại Việt Nam, Nghị quyết mang tính chất thí điểm; các chính sách là bước thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần. Do vậy, cần thận trọng, có bước đi chắc chắn, không quy định những vấn đề chưa được đánh giá kỹ lưỡng, mang tính rủi ro cao. Hơn nữa, các chính sách cần được nghiên cứu, xây dựng căn cứ trên khả năng tổ chức thực hiện, nguồn lực tài chính, điều kiện đáp ứng của thành phố Đà Nẵng. Do vậy, tại thời điểm hiện nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữ phạm vi chính sách như dự thảo Nghị quyết.
Về đầu tư phát triển vi mạch, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, đổi mới sáng tạo (Điều 14), Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, để khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia thử nghiệm có kiểm soát, cần thiết phải có quy định miễn trừ trách nhiệm trong thử nghiệm có kiểm soát, bảo đảm tính khả thi thực hiện chính sách về thử nghiệm có kiểm soát trong thực tế.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính cụ thể, hợp lý và quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác khi bị thiệt hại, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung nội dung tại khoản 5 Điều 14 theo hướng quy định rõ chỉ miễn trừ trách nhiệm dân sự trong thử nghiệm có kiểm soát khi xảy ra thiệt hại, rủi ro gây ra cho Nhà nước do nguyên nhân khách quan và khi đã thực hiện đầy đủ quy trình, quy định về thử nghiệm. Đối với thiệt hại, rủi ro gây ra cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thử nghiệm phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, HĐND Thành phố xem xét, hỗ trợ một phần kinh phí bồi thường từ ngân sách thành phố trên cơ sở tính chất, mức độ thiệt hại, khả năng cân đối ngân sách của địa phương. Đối với việc bổ sung quy định miễn trừ trách nhiệm hình sự thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành có liên quan.
Ngoài các vấn đề trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo Cơ quan thẩm tra và Cơ quan soạn thảo nghiêm túc tiếp thu đầy đủ các ý kiến xác đáng của các vị đại biểu Quốc hội cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp, thể hiện cụ thể trong dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp này.
8h26: Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng
Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
Kết quả, 93% đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, như vậy Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
8h29: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành nội dung thảo luận về Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
Điều hành nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, Luật Di sản văn hóa được Quốc hội ban hành năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sau hơn 20 năm thực hiện, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu.
Tuy nhiên trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn và những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đó là: Quan tâm hơn nữa đến việc tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở các vùng miền của đồng bào dân tộc, tiếp thu văn hóa thời đại, phát triển sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh quốc gia trong thời kỳ mới.
Để tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho phát triển mới của hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Ngày 18/6, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận ở Tổ về dự án Luật. Đây là nội dung được nhiều cử tri quan tâm và được các đại biểu Quốc hội phát biểu với 96 lượt ý kiến về dự án Luật này. Tổng Thư ký Quốc hội đã tổng hợp đầy đủ ý kiến phát biểu của các đại biểu Quốc hội.
Bên cạnh 7 vấn đề chung, 9 vấn đề cụ thể, 8 nội dung gợi ý thảo luận tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đề nghị các vị ĐBQH tập trung thảo luận kỹ một số nội dung như: (1) quyền sở hữu và các quyền liên quan tới di sản văn hóa; (2) về các chính sách phát triển di sản văn hóa; (3) về khu vực bảo vệ của di tích; (4) phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản; (5) Qũy bảo tồn di sản văn hóa.
Trước hết, Phó Chủ tịch Quốc hội mời đại biểu Trần Thị Thu Hằng - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông phát biểu.
8h32: Đại biểu Trần Thị Thu Hằng - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông: Cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Di sản văn hoá (sửa đổi)
Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trần Thị Thu Hằng cho biết, phạm vi điều chỉnh quy định tại Điều 1 dự thảo Luật đã gộp toàn bộ nội dung tại Điều 1, Điều 2 của Luật hiện hành. Tuy nhiên, đại biểu nhận thấy nội dung này chưa thực sự phù hợp.
Theo đó, khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật kế thừa từ Điều 1 của Luật hiện hành quy định, di sản văn hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa vật thể và di sản tư liệu là sản phẩm tinh thần vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đại biểu cho rằng, quy định này mang tính giải thích từ ngữ, không thuộc nội dung của phạm vi của dự thảo Luật. Vì vậy, đại biểu đề nghị đánh giá thêm quy định tại khoản 2 điều này để xác định rõ phạm vi điều chỉnh đảm bảo tính phù hợp, bao quát.
Đối với các chính sách của nhà nước về di sản văn hoá, Điều 7 dự thảo Luật đề cập đến hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, huy động các nguồn lực, nhân lực, ngân sách để đạt hiệu quả cao nhất cho hoạt động này. Đại biểu đề nghị bổ sung một số chính sách liên quan đến nhân tố thụ hưởng như chế độ miễn phí với các chủ thể đặc biệt khi tham quan các công trình được công nhận là di tích lịch sử quốc gia như người có công với cách mạng, học sinh, sinh viên, anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, phái đoàn ngoại giao, người cao tuổi...
8h35: Đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp: Bổ sung quy định cụ thể nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của bảo tàng tư nhân
Đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa bày tỏ sự thống nhất cao với sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Di sản văn hóa hiện hành nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thời gian qua và tạo hành lang pháp lý kịp thời bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Để hoàn thiện dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa góp ý một số nội dung:
Thứ nhất, về tên gọi và phạm vi điều chỉnh của Luật, đại biểu bày tỏ băn khoăn về phạm vi điều chỉnh và một số khái niệm liên quan đến di sản văn hóa nhưng chưa được giải thích, làm rõ trong dự thảo Luật như: “di sản hỗn hợp”, “di sản thiên nhiên, “di sản địa chất”,…
Thứ hai, về hoạt động của bảo tàng và chính sách đối với bảo tàng tư nhân được quy định tại Chương 5 của dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa cho rằng, đây là Chương mới, các nội dung có kế thừa, điều chỉnh, bổ sung cụ thể hơn nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của bảo tàng.
Đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa cho rằng, hiện nay, chính sách cho bảo tàng ngoài công lập của nước ta đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và xu hướng phát triển, hành lang pháp lý đã có nhưng chưa rõ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến điều kiện, tiêu chí xếp hạng những bảo tàng ngoài công lập. Đồng thời, các bảo tàng tư nhân gặp khó khăn về chuyên môn, nghiệp vụ và thiếu đội ngũ làm công tác bảo tàng chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, việc cấp giấy phép hoạt động của bảo tàng ngoài công lập tại khoản 2 Điều 64 vẫn còn chung chung. Đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa đề nghị Ban soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu quy định cụ thể, rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân mở bảo tàng đồng thời tạo sự thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong việc quản lý.
8h43: Đại biểu Huỳnh Thị Phúc - Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm quản lý, bảo quản, trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật
Góp ý tại phiên họp, đại biểu Huỳnh Thị Phúc cho biết, Điều 88 của dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định về xã hội hóa trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm khuyến khích mở rộng việc tổ chức, cá nhân được tham gia và không hạn chế nguồn lực xã hội trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện công việc liên quan đến lĩnh vực lịch sử cùng với các tổ chức, cá nhân như các hội trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, khoa học công nghệ như dự thảo đã quy định tại khoản 1, Điều 88 đủ điều kiện tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Vì vậy, ngoài Hội Khoa học và công nghệ thì Hội Khoa học lịch sử từ Trung ương đến địa phương đã và đang tham gia tích cực các hoạt động nghiên cứu, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng như khi tiến hành các công việc giám định di vật, cổ vật. Tại Điều 39 dự thảo có quy định yêu cầu chuyên môn khi giám định có liên quan đến lịch sử niên đại của di vật, cổ vật, cho nên cần xem xét bổ sung nội dung này.
Về công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa không chỉ là những nhóm nhiệm vụ tu bổ, phục hồi, chống nguy cơ xuống cấp di sản mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ, giải pháp phát huy tốt nhất giá trị di sản, đồng thời thực hiện đầy đủ và trách nhiệm các biện pháp được cam kết về bảo vệ di sản văn hóa. Nghiên cứu dự thảo Điều 63 về nhiệm vụ của bảo tàng, Điều 41, 44, 48 về quản lý, bảo vệ, bảo quản, trưng bày di vật, cổ vật và thực trạng nhiều hiện vật sau khi được khai quật, thu thập chưa thực sự được bảo vệ; bảo quản, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trong môi trường, phù hợp với các yêu cầu về quản lý, trưng bày hiện vật, đại biểu Huỳnh Thị Phúc cho rằng, cần quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về điều kiện, trách nhiệm quản lý, bảo vệ, bảo quản, trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật.
8h49: Đại biểu Dương Văn Phước - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam: Rà soát Điều 3 để giải thích từ ngữ một cách hợp lý hơn
Phát biểu tại Hội trường, đại biểu Dương Văn Phước cơ bản thống nhất với Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Tuy nhiên đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo rà soát Điều 3 để giải thích từ ngữ một cách hợp lý hơn.
Cụ thể đại biểu chỉ ra rằng, việc giải thích từ ngữ về “phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh” là hoạt động nhằm phục dựng lại di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã bị hủy hoại trên cơ sở các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đó. Hay khái niệm sửa chữa thường xuyên di tích là hoạt động sửa chữa, thay thế nhỏ các bộ phận, thành phần kiến trúc không phải là yếu tố gốc của di tích nhằm ngăn chặn hoặc khắc phục tình trạng xuống cấp hàng ngày của di tích... Theo đại biểu các cụm từ này đã thể hiện được nội dung ý nghĩa của vấn đề, không cần giải thích thêm. Trong khi đó có những khái niệm chưa được giải thích trong dự thảo Luật lần này để thống nhất cách hiểu, thuận lợi trong việc triển khai thực hiện.
Về các hành vi quy định cấm tại Điều 8, đại biểu đề nghị cần xem xét lại nhiều nội dung của điều luật này để đảm bảo tính bao quát, tránh mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định trong dự thảo Luật và các luật có liên quan vì nhiều quy định của điều luật này chưa thật sự thuyết phục.
8h56: Đại biểu Nguyễn Văn Cảnh - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định: Đề nghị xem xét thêm giá trị thẩm mỹ và giá trị kiến trúc là các yếu tố cấu thành di tích
Đại biểu Nguyễn Văn Cảnh cho biết, quy định tại Điều 3 về giải thích từ ngữ, tại khoản 26 có quy định: Yếu tố gốc cấu thành di tích là yếu tố tạo nên giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện đặc trưng của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh”. Theo đại biểu, đây là một nội dung rất quan trọng để làm căn cứ cho việc tôn tạo, tu bổ, phục hồi di tích, di dời, thay đổi thống kê hiện vật trong di tích…
Vì vậy, đại biểu đề nghị dự thảo Luật cần làm rõ cơ quan chuyên môn nào có khả năng đánh giá về các yếu tố cấu thành di tích. Tại Luật Di sản văn hóa 2001 có quy định yếu tố gốc cấu thành di tích bao gồm giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học thẩm mỹ. “Như vậy Luật Di sản văn hóa 2001 có thêm yếu tố thẩm mỹ và theo tôi, các di tích có cả giá trị về mặt kiến trúc. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét thêm giá trị thẩm mỹ và giá trị kiến trúc trong các yếu tố cấu thành di tích”, đại biểu nói.
Ngoài ra, đại biểu cho biết, khoản a Điều 7 quy định ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, di sản tư liệu đã được đưa vào danh sách của UNESCO. Chúng ta đã có nhiều di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận như: Múa rối nước, nhã nhạc cung đình Huế, ca trù… Vì vậy, đại biểu đề nghị dự thảo Luật có quy định cụ thể về việc ưu tiên bố trí ngân sách để làm căn cứ tạo điều kiện cho hoạt động của các loại hình nghệ thuật trên.
9h01: Đại biểu Tráng A Dương - Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang: Bổ sung quy định cụ thể về chính sách bảo vệ di sản của đồng bào dân tộc thiểu số
Góp ý về chính sách của nhà nước đối với di sản, đại biểu Tráng A Dương cho biết, dự thảo luật quy định nội dung về chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu mang tính định hướng chính sách. Đại biểu cho rằng, quy định như vậy sẽ rất khó khi triển khai trong thực tiễn, vì vậy đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn các nội dung chính sách, cũng như cách thức tổ chức thực hiện liên quan đến quản lý, bảo vệ di sản của đồng bào dân tộc thiểu số trong dự thảo luật.
Tại Điều 8 dự thảo luật quy định 13 hành vi nghiêm cấm, đại biểu cho rằng, bên cạnh các hành vi cấm được quy định tại dự thảo luật, có thể còn có các hành vi khác mà dự thảo luật chưa quy định. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung thêm một quy định tại Điều 8: “Các hành vi khác gây thiệt hại ảnh hưởng đến hoạt động di sản văn hóa”.
Tại Điều 28 của dự thảo luật, dại biểu đề nghị xem xét bổ sung quy định khoảng cách tối thiểu của các công trình xây dựng có khả năng ảnh hưởng đến di tích để có cơ sở thẩm định, đánh giá các hoạt động công trình xây dựng.
Dự thảo luật cũng quy định đầy đủ công việc quản lý bảo vệ khu vực 1 và 2 của di tích, tuy nhiên thực tiễn cho thấy hiện nay có khá nhiều di tích có giáp ranh giữa các hai địa phương với nhau. Do vậy, cơ quan soạn thảo cần bổ sung quy định quản lý đối với các di tích nằm giáp ranh giới giữa hai địa phương…
Đại biểu cũng đề nghị cơ quan soạn thảo phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ, ngành liên quan thống nhất việc lập một quy hoạch di tích đối với trường hợp di tích có khu vực bảo vệ một phần hoặc toàn bộ di tích của khu vực quốc gia rừng đặc dụng, bảo tồn khu biển để đảm bảo thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành.
9h05: Đại biểu Âu Thị Mai - Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang: Xem xét quy định các loại hình cũng như khái niệm về di sản văn hóa phi vật thể để đảm bảo thống nhất với các quy định hiện hành
Thống nhất cao với sự cần thiết ban hành Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), đại biểu Âu Thị Mai nhận thấy, dự thảo Luật đã kế thừa, sửa đổi nhiều quy định của Luật hiện hành và bổ sung nhiều quy định mới để khắc phục những bất cập trong thực tiễn, ngoài ra dự thảo Luật đã lựa chọn luật hóa một số quy định trong các văn bản dưới luật, làm tăng tính khả thi của Luật.
Về các loại hình di sản văn hóa phi vật thể (Điều 9), đại biểu cho rằng, dự thảo Luật quy định các di sản văn hóa phi vật thể được hình thành, trao truyền trong quá trình lịch sử và thích ứng của cộng đồng chủ thể với môi trường tự nhiên, xã hội bao gồm 06 loại hình. Trong khi xuyên suốt từ Thông tư số 04 ngày 30/6/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến Nghị định số 39 ngày 16/4/2024 của Chính phủ quy định về biện pháp quản lý bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong danh sách của UNESCO ghi danh và danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đều quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể được thực hiện đối với 07 loại hình di sản.
Do đó, đại biểu Âu Thị Mai đề nghị Ban soạn thảo xem xét quy định các loại hình cũng như khái niệm về di sản văn hóa phi vật thể trong dự thảo Luật đảm bảo phù hợp, thống nhất với các quy định hiện hành.
Về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể (Điều 10), đại biểu Âu Thị Mai đề nghị Ban soạn thảo cần nêu rõ cơ sở và sự phù hợp của mốc thời gian kiểm kê như dự thảo Luật. Vì theo đại biểu, với quy định mốc thời gian như vậy, trường hợp khi Luật có hiệu lực, từ năm 2025 các địa phương sẽ kiểm kê, đến năm 2030 lại tiếp tục kiểm kê, vậy Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch sẽ tổng kiểm kê vào thời điểm nào, có đủ nhân lực để thực hiện kiểm kê hay không hay vẫn chỉ giao cho các địa phương thực hiện kiểm kê để báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch?
Liên quan đến chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể (Điều 13), để đảm bảo tính khả thi của Luật, đại biểu Âu Thị Mai đề nghị Ban soạn thảo cần xem xét quy định cụ thể các tiêu chí, tiêu chuẩn được hỗ trợ các chính sách đãi ngộ của nhà nước, tránh trường hợp áp dụng tùy nghi. Đồng thời rà soát nội dung điểm b, điểm c, Khoản 1 Điều 13 để tránh trùng lặp.
9h12: Đại biểu Lưu Bá Mạc - Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn: Bổ sung quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của công viên địa chất
Góp ý về dự thảo Luật, đại biểu Lưu Bá Mạc đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung quy định có liên quan đến việc quản lý, phát triển, bảo vệ và phát huy giá trị của loại hình công viên địa chất, gắn phát triển du lịch bền vững. Theo đại biểu, hiện nay, loại hình này đã và đang trong quá trình phát triển theo xu hướng chung của các nước trên thế giới. Trong đó đều có liên quan đến việc kết hợp phát huy giá trị của di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh và di sản địa chất.
Bên cạnh đó, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn ngày 6/6 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà cũng nêu rõ việc phải phát huy giá trị công viên địa chất thông qua xem xét các hình thức để phát triển du lịch khám phá và nghiên cứu, coi đây như một sản phẩm du lịch đặc biệt. Hơn nữa, đề xuất những cơ chế để huy động sự tham gia của người dân, đào tạo cho người dân và xây dựng, hình thành các sản phẩm du lịch mang tính chất độc đáo cho nhiều đối tượng tham gia.
Đến nay, cơ chế, chính sách cũng như khung khổ pháp lý, vẫn đang thiếu. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung một cách phù hợp đối với vấn đề này, góp phần phát triển du lịch khám phá và nghiên cứu, thúc đẩy sự phát triển của mạng lưới công viên địa chất Việt Nam, tạo nguồn thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các cộng đồng địa phương. Đại biểu cũng đề nghị cân nhắc đồng bộ quy định giữa dự thảo Luật Di sản văn hoá và dự thảo Luật Địa chất, khoáng sản đối với trường hợp Công viên địa chất là sự kết hợp hài hoà, tích hợp giữa hai yếu tố di sản địa chất và di sản văn hoá.
9h16: Đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện - Đoàn ĐBQH tỉnh Điện Biên: Cần có chiến lược “hồi hương cổ vật”
Đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện bày tỏ sự nhất trí với dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), với nội dung Tờ trình 119 của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội. Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật, đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện có một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, Đại biểu nhất trí với việc đưa khái niệm “di sản tư liệu” vào dự thảo Luật và ủng hộ việc tách “di sản tư liệu” thành một loại hình di sản mới, đáp ứng việc nhận diện, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu ở Việt Nam hiện nay, đồng thời mở ra hướng phát triển trong tương lai, phù hợp với các chương trình của UNESCO. Qua đó thể hiện vai trò, trách nhiệm và sự đóng góp, sự cam kết của Việt Nam trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của di sản tư liệu cũng như hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản Việt Nam với cộng đồng trong nước và quốc tế.
Thứ hai, về quyền sở hữu và các quyền liên quan đến di sản văn hóa; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên liên quan trong quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa ở các lĩnh vực di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, hoạt động của bảo tàng và di sản tư liệu. Theo đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện, trong dự thảo Luật lần này quy định Nhà nước bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu di sản văn hóa, của người đại diện. Đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện đề nghị Ban soạn thảo cần có các quy định cụ thể cho các trường hợp di sản văn hóa tôn giáo, di tích văn hóa là cơ sở tôn giáo của các tổ chức tôn giáo do các tổ chức tôn giáo trực tiếp quản lý, sử dụng và là đại diện cho chủ sở hữu nhằm giải quyết các bất cập chồng chéo lâu nay trong công tác quản lý di tích giữa các tổ chức tôn giáo và các ban quản lý di tích.
Thứ ba, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được đánh giá là có nhiều điểm mới về di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia phù hợp với thực tiễn hiện nay hướng tới phát triển công nghiệp văn hóa và phù hợp với công ước của UNESCO.
Theo đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện, việc đăng ký di vật, cổ vật được quy định tại Điều 39 dự thảo Luật này, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đăng ký di vật, cổ vật thuộc sở hữu của mình với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch địa phương. Theo đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện, quy định này rất cần thiết, qua đó dễ dàng quản lý, nhận diện, hình thành bộ dữ liệu di sản, ngăn ngừa vấn nạn đánh cắp di vật, cổ vật. Tuy nhiên, đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện đề nghị Ban soạn thảo cần quy định rõ hơn mối quan hệ ràng buộc, chặt chẽ giữa việc đăng ký di vật, cổ vật với quyền, lợi ích của chủ sở hữu khi tham gia vào thị trường trao đổi, mua bán, trưng bày các di vật đã được đăng ký.
Đồng thời, đại biểu Thượng tọa Thích Đức Thiện đề nghị Chính phủ cần có chiến lược “hồi hương cổ vật”, đưa các di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài về nước. Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng cần tính đến việc quy định về miễn các loại thuế, phí liên quan cho các di vật, cổ vật được đưa về nước không vì mục đích trao đổi buôn bán, kinh doanh nhằm thu hút nguồn lực cho việc “hồi hương cổ vật”.
9h22: Đại biểu Tô Ái Vang - Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng: Ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư phát triển để khuyến khích cho những nỗ lực vượt bậc của các thành phố đã được vinh danh
Điều 87 tuyên truyền, quảng bá hình ảnh di sản văn hóa về Giải thưởng mạng lưới các thành phố học tập toàn cầu được UNESCO vinh danh là thành viên với 294 thành phố của các quốc gia trên thế giới. Trong đó, Việt Nam có 5 thành phố là thành viên gồm: Thành phố Hồ Chí Minh; thành phố Cao Lãng; thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp; thành phố Vinh, Nghệ An và thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Về Giải thưởng Mạng lưới các thành phố sáng tạo được UNESCO vinh danh là thành viên với 350 thành phố từ hơn 100 quốc gia trên thế giới có sự phát triển trên sự sáng tạo ở 7 lĩnh vực. Trong số 10 thành phố ở Đông Nam Á là thành viên thì Việt Nam chúng ta có 3 thành phố, đó là thành phố Hà Nội là thành phố sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế được công nhận vào năm 2019. Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam là thành phố sáng tạo trong lĩnh vực thủ công về nghệ thuật dân gian được công nhận vào năm 2023. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là thành phố sáng tạo trong lĩnh vực âm nhạc được công nhận vào năm 2023.
Chính phủ đã ban hành Chương trình bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025. Vì thế, đại biểu Tô Ái Vang có hai kiến nghị đến Chính phủ. Một là, ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư phát triển để khuyến khích cho những nỗ lực vượt bậc của các thành phố đã được vinh danh là thành viên của mạng lưới học tập sáng tạo, thành phố học tập toàn cầu; thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập và phong trào thi đua “Cả nước xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời” với mô hình trường học hạnh phúc. Đặc biệt, xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích người học. Đây được xem là cơ sở rất quan trọng để xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
Hai là, cần có cơ chế, chính sách quảng bá hình ảnh sáng tạo, qua đó lan tỏa tinh thần, bản sắc của thành phố sáng tạo trong tiến trình phát triển để tạo thêm động lực đến các thành phố khác trong cả nước. Phấn đấu đạt các tiêu chí của UNESCO tiếp tục được vinh danh, góp phần xây dựng hình ảnh địa phương, đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, quảng bá đến bạn bè quốc tế.
9h50: Đại biểu Sùng A Lềnh - Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai: Làm rõ hơn cơ sở thực tiễn, pháp lý và mục tiêu của Quỹ bảo tồn di sản văn hóa
Qua nghiên cứu dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, đại biểu Sùng A Lềnh cơ bản nhất trí với nhiều nội dung dự thảo Luật. Về mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài về nước, đại biểu cho biết, khoản 5 Điều 49 quy định: "5. Trường hợp di vật, cổ vật được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định, đề xuất phương án thu hồi, mua ở nước ngoài về nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định phương án thu hồi hoặc dùng ngân sách Nhà nước mua, đưa về Việt Nam và di vật, cổ vật được tổ chức, cá nhân mua, đưa về Việt Nam nhằm mục đích lưu giữ, trưng bày không vì mục đích lợi nhuận hoặc hiến tặng cho nhà nước thì được hưởng chế độ ưu đãi về thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và các loại thuế, phí liên quan khác”.
Trong khi đó, theo quy định tại Điều 47 của Hiến pháp, vấn đề về thuế phải quy định trong luật, hiện nay thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và các loại thuế khác đang được điều chỉnh trong các luật chuyên ngành. Theo đại biểu, quy định nêu trên của dự thảo Luật chưa rõ. Do đó, cần làm rõ nội hàm chính sách của quy định nêu trên để có quy định cụ thể bảo đảm tính khả thi...
Liên quan đến Quỹ bảo tồn di sản văn hóa, khoản 1 Điều 90 của dự thảo Luật quy định: “1. Quỹ bảo tồn di sản văn hóa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để hỗ trợ kinh phí cho một số hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa chưa được ngân sách nhà nước đầu tư, hỗ trợ hoặc đầu tư chưa đủ…”. Bên cạnh đó, tại khoản 3 và khoản 5 Điều 90 quy định: “Quỹ bảo tồn di sản văn hóa có tư cách pháp nhân; có con dấu riêng. Quỹ bảo tồn di sản văn hóa ở Trung ương do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định thành lập; Quỹ bảo tồn di sản văn hóa ở địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập”.
Trong khi Luật ngân sách nhà nước năm 2015 và Điều 12 Nghị định 163/2016 hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước không quy định về tư cách pháp nhân của quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Do vậy, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát, làm rõ hơn về cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý và mục tiêu của Quỹ để đảm bảo tính khả thi, thống nhất với Luật Ngân sách nhà nước và các quy định khác có liên quan.
9h55: Đại biểu Lê Văn Khảm - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương: Làm rõ nội hàm của phát huy giá trị di sản
Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Lê Văn Khảm cơ bản thống nhất với Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Đại biểu đánh giá nội dung của dự thảo Luật đã thể hiện đầy đủ các chính sách trong sửa đổi Luật lần này.
Liên quan đến nội dung phát huy giá trị của di sản, đại biểu cho rằng đây là một nội dụng rất quan trọng và xuyên suốt trong dự thảo Luật với trên 120 lần sửa dụng thuật ngữ “phát huy giá trị di sản”. Đại biểu phân tích, phát huy giá trị di sản có nghĩa là làm tăng cường, nâng tầm, làm sâu sắc thêm giá trị văn hóa khoa học của di sản; đồng thời với việc tạo ra các giá trị về kinh tế, nguồn thu về tài chính tạo cơ hội lao động, việc làm, thu nhập cho cộng đồng chủ thể di sản.
Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa thể hiện cụ thể nội dung, nội hàm, thiếu các quy phạm pháp luật và quy phạm kỹ thuật liên quan đến vấn đề này. Vì vậy cần thiết phải có các quy định cụ thể về phát huy giá trị di sản như: Phát huy như thế nào? Mức độ khai thác giá trị đến đâu là hợp lý để nâng tầm giá trị văn hóa, khoa học và lịch sử của di sản?
10h02: Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh - Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình: Bổ sung các quy định liên quan đến số hóa di sản văn hóa
Góp ý về lĩnh vực di sản, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh cho biết, dự thảo mới quy định chung về quản lý di sản văn hóa, chưa đề cập và luật hóa các quy định về quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới tại Việt Nam. Đại biểu đồng tình với ý kiến đề nghị sửa tên dự án luật thành Luật Di sản và luật hóa trong dự thảo luật các quy định về quản lý và đầu tư đối với di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
Về quy định chính sách của nhà nước về di sản văn hóa tại Điều 7, dự thảo luật kế thừa nhiều chính sách của Luật Di sản văn hóa hiện hành; đồng thời sửa đổi bổ sung nhiều quy định như: hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, cơ chế đầu tư bố trí ngân sách cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, chính sách xã hội hóa, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Tuy nhiên, để thể chế hóa đầy đủ hơn các chủ trương của Đảng, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát nghiên cứu bổ sung trong Điều 7 dự thảo luật các nội dung liên quan đến chủ trương, chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số về văn hóa, số hóa di sản văn hóa, hợp tác công tư về phát triển văn hóa, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho các hoạt động bảo vệ bảo tồn phát huy giá trị và sáng tạo nên các di sản văn hóa mới.
Trong đó chú ý các chủ trương đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 33 cần được tiếp tục thể chế hóa sâu sắc hơn như huy động sức mạnh của toàn xã hội, nhằm bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế xã hội; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa.
Về quy định một số nội dung liên quan đến công tác quản lý di sản văn hóa trong dự thảo luật, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu xem xét một số vấn đề hiện đang có những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn. Trong đó, về quy định dự án đầu tư xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di sản, Điều 27 dự thảo luật quy định việc chấp thuận chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án đầu tư, xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công và pháp luật khác có liên quan. Theo quy định của dự thảo luật, thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư dự án mới, hoặc điều chỉnh chủ trương dự án chuyển tiếp trong vùng lõi, vùng đệm của di sản văn hóa thế giới bao gồm cả những dự án có quy mô nhỏ mang tính chất phục vụ, bảo đảm an sinh xã hội, phát huy các giá trị di sản, cũng như phát triển kinh tế xã hội của địa phương đều thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Đại biểu cho rằng, nội dung quy định này khi triển khai thực hiện trong thực tiễn sẽ khó khăn vì phần lớn các dự án đầu tư có quy mô nhỏ, nguồn vốn thấp; việc quy định Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ làm tăng thủ tục hành chính và kéo dài thủ tục pháp lý.
Đối với việc xây dựng, sửa chữa nhà ở riêng lẻ tại các khu vực dân cư tập trung tại vùng lõi và vùng đệm của di sản, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo quy định theo hướng tăng cường phân cấp trong việc quản lý di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt và di sản thế giới nằm trong địa bàn địa phương, bộ, ngành trung ương. Chính phủ chỉ thẩm định, phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo quản, tu bổ di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt và di sản thế giới; phần nội dung thẩm định phê duyệt chủ trương đầu tư các dự án tu bổ phù hợp với quy hoạch thì nên phân cấp lại cho địa phương.
10h08: Đại biểu Nguyễn Duy Minh - Đoàn ĐBQH TP. Đà Nẵng: Xem xét sửa tên gọi của luật là Luật Di sản văn hóa và danh lam thắng cảnh
Thống nhất việc sửa đổi toàn diện Luật Di sản văn hóa, đại biểu Nguyễn Duy Minh góp ý về tên gọi của dự thảo Luật. Đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo xem xét sửa tên Luật Di sản văn hóa thành Luật Di sản văn hóa và danh lam thắng cảnh để đảm bảo bao quát, đầy đủ và rõ hơn các đối tượng và phạm vi áp dụng của Luật, bảo đảm phân định phù hợp trong tổ chức quản lý và khai thác.
Đại biểu cho rằng, việc sửa tên gọi của dự thảo Luật để đảm bảo bao gồm cả danh lam thắng cảnh và phù hợp với nguyên tắc và tên gọi của UNESCO.
Về vấn đề bảo tồn, quản lý và khai thác đối với các di tích văn hóa lịch sử, danh lam thắng cảnh, đại biểu Nguyễn Duy Minh nhận thấy, nội dung này chưa được quy định rõ trong dự thảo Luật. Thực tiễn thời gian qua đây là vướng mắc, khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến các di tích, danh lam thắng cảnh trong công tác quản lý, bảo vệ, trùng tu tôn tạo. Do đó, đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung để giải quyết các vướng mắc tồn tại này trong thực tế.
Bên cạnh công tác bảo tồn, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, đại biểu Nguyễn Duy Minh cho rằng, việc phát huy các giá trị di sản văn hóa như thế nào cho thật sự hiệu quả, nhất là việc khắc phục những vướng mắc, khó khăn trong thời gian qua. Vì vậy, theo đại biểu, vấn đề khai thác và phát huy giá trị di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh một cách có hiệu quả cần được quan tâm và quy định cụ thể trong luật.
10h12: Đại biểu Trần Văn Thức - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa: Thống nhất sự cần thiết thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Trần Văn Thức bày tỏ thống nhất sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Di sản văn hóa đã được Quốc hội ban hành năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Góp ý nội dung cụ thể của dự thảo Luật, về Giải thích từ ngữ (Điều), đại biểu Trần Văn Thức đề nghị bổ sung quy định về giải thích từ ngữ đối với cụm từ “địa điểm khảo cổ”. Đại biểu nêu rõ, dự thảo Luật đang sử dụng 12 lần cụm từ này nhưng chưa có giải thích ngữ nghĩa.
Đại biểu Trần Văn Thức cũng đề nghị rà soát để sửa đổi, bổ sung đối với các nội dung quy định tại điều 39 về giám định, điều kiện thực hiện giám định di vật, cổ vật và đăng ký di vật, cổ vật.
Về Quỹ bảo tồn di sản văn hóa (Điều 90), đại biểu thống nhất sự cần thiết thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Đây là một giải pháp hữu hiệu để huy động nguồn lực đầu tư cho bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Bên cạnh đó, đại biểu Trần Văn Thức cũng đề nghị rà soát, thiết kế lại khoảng 4, Điều 90 về Nguyên tắc thành lập Quỹ. Theo đó, thay đổi từ “Nguyên tắc thành lập Quỹ” thành “Nguyên tắc hoạt động Quỹ bảo tồn di sản văn hóa”. Đồng thời bổ sung các nguyên tắc hoạt động của Quỹ cho phù hợp.
10h19: Đại biểu Trần Thị Vân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh: Bổ sung một số nội dung đối với quy định về các chính sách hỗ trợ nghệ nhân
Đóng góp ý kiến hoàn thiện dự thảo Luật Di sản Văn hóa (sửa đổi), đại biểu Trần Thị Vân quan tâm đến các chính sách hỗ trợ nghệ nhân được quy định tại Điều 13 của dự thảo Luật lần này.
Theo đại biểu Trần Thị Vân, nghệ nhân được ví như báu vật nhân văn sống, sợi dây níu giữ các yếu tố văn hóa dân gian và là người giữ lửa cho di sản. Tuy nhiên Luật Di sản văn hóa (2001) chưa quy định chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, đến năm 2009, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa quy định tại Điều 26, trợ cấp sinh hoạt hàng tháng và ưu đãi đối với nghệ nhân đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu có thu nhập thấp và hoàn cảnh khó khăn. Đến năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định 109/2015/NĐ-CP về hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Nhưng theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Di sản Văn hóa, từ khi Luật được ban hành đến nay chỉ có 20/1881 nghệ nhân được phong tặng danh hiệu được hưởng chế độ này.
Đồng thời, đại biểu Trần Thị Vân đề nghị bổ sung thêm “nghệ nhân dân gian” vào đối tượng được hưởng chính sách cùng nghệ nhân Nhân dân và nghệ nhân ưu tú vào dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi).
Cuối cùng, liên quan đến chế độ hỗ trợ mai táng đối với nghệ nhân khi qua đời, đại biểu Trần Thị Vân cho rằng việc ban hành chế độ này là cần thiết nhằm ghi nhận, công lao, đóng góp, cống hiến của các nghệ nhân đối với các di sản văn hóa.
10h25: Đại biểu Trần Thị Thu Đông - Đoàn ĐBQH tỉnh Bạc Liêu: Xác định rõ các tiêu chí xếp hạng đúng với các loại di tích
Đề cập nội dung về chính sách của Nhà nước về di sản văn hóa, đại biểu Trần Thị Thu Đông cho rằng, hiện chính sách của nhà nước về di sản văn hóa được quy định ở Điều 7 dự Luật. Tuy nhiên, còn nhiều chính sách nằm tản mạn ở các nội dung của các Điều: 5, 13, 79, 80, 81, 82, 88… Do đó, nếu không thể tổng hợp các chính sách vào một điều luật thì nên để tên Điều 7 là chính sách chung của nhà nước về di sản văn hóa để sang các chương chi tiết, chúng ta có những chính sách cụ thể như: Chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể; chính sách nguồn nhân lực, tài chính; chính sách hỗ trợ xã hội hóa trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Về cấp độ, tiêu chí xếp hạng và hình thức xếp hạng di tích tại Điều 23: Do phân loại di tích theo loại hình và dự luật cũng đưa ra tiêu chí nhận diện loại hình di tích và xếp hạng dựa trên tiêu chí này. Về cơ bản, dự luật vẫn kế thừa việc xếp hạng di tích được xếp hạng trong phạm vi quốc gia thành: Di tích cấp tỉnh, Di tích quốc gia, Di tích quốc gia đặc biệt. Bên cạnh đó, dự án Luật còn có thêm quy định về cấp độ, tiêu chí và hình thức công nhận di sản thế giới của UNESCO. Đại biểu Trần Thị Thu Đông cơ bản tán thành cách xếp hạng di tích này. Tuy nhiên, việc xếp hạng theo tiêu chí xếp hạng như dự luật hiện nay sẽ khó khăn trong công tác xếp hạng đặc biệt là với loại hình di tích là: Di tích kiến trúc, nghệ thuật, di tích khảo cổ hoặc di tích hỗn hợp do tiêu chí để xếp hạng với những loại di tích này không có sự rõ ràng để xác định và xếp hạng cho đúng là di tích cấp tỉnh, quốc gia hay quốc gia đặc biệt.
Do đó, nếu vẫn giữ cách quy định xếp hạng trong dự luật hiện nay thì đại biểu Trần Thị Thu Đông kiến nghị Ban soạn thảo xác định rõ các tiêu chí xếp hạng đúng với các loại di tích kể trên. Hoặc bổ sung giao Chính phủ hoặc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định tiêu chuẩn cụ thể cho các tiêu chí để xếp hạng.
10h31: Đại biểu Mai Văn Hải - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa: Đẩy mạnh phân cấp, giảm bớt thủ tục hành chính trong xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích
Đại biểu Mai Văn Hải cơ bản thống nhất với Tờ trình của Chính phủ và các nội dung trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục. Quan tâm đến dự án đầu tư xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích được quy định tại Điều 27, đại biểu cho rằng, việc bảo vệ và phát huy giá trị các di tích là rất quan trọng. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng các công trình trong khu vực bảo vệ di tích, đại biểu Mai Văn Hải đề nghị, dự thảo Luật cần quy định đẩy mạnh việc phân cấp, giảm bớt các thủ tục hành chính theo hướng chỉ nên quy định việc lấy ý kiến các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa đối với các dự án đầu tư xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ I, trước khi cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư. Còn khu vực bảo vệ II nên giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định và không phải xin ý kiến. “Việc xây dựng các công trình kinh tế- xã hội ở khu vực bảo vệ II cũng nên giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định”, đại biểu đề nghị.
Đồng thời, đối với di tích cấp tỉnh, đại biểu cho rằng, cũng nên phân cấp giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định mà không phải xin ý kiến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Khoản 2 Điều này quy định: “Việc thực hiện quy trình dự án sửa chữa, cải tạo, xây dựng lại nhà ở riêng lẻ trên cơ sở hiện trạng công trình đã có trong khu vực bảo vệ di tích thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng và chỉ được triển khai thực hiện sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch”. Theo đại biểu, nên quy định việc sửa chữa, cải tạo, xây dựng nhà ở trong khu vực bảo vệ I thì cần phải xin ý kiến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, còn lại thì nên giao Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan cấp phép xây dựng quyết định việc cho phép tu sửa xây dựng nhà ở để thuận tiện cho người dân và không làm ảnh hưởng đến di tích.
10h36: Đại biểu Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm - Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội: Xã hội hóa trong bảo vệ và phát huy giá trị các di tích văn hóa
Đưa ra ý kiến tại phiên thảo luận, đại biểu Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm đánh giá dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã được nghiên cứu khoa học, nghiêm túc, nhiều đổi mới sát thực tiễn hơn so với Luật hiện hành. Đại biểu chỉ rõ, dự Luật có đề cập đến nhiều chính sách về phát triển văn hóa nói chung và nhiều chính sách về giá trị văn hóa tôn giáo, di tích lịch sử văn hóa nói riêng.
Đề cập đến vấn đề di tích lịch sử văn hóa tôn giáo, đại biểu cho biết, Điều 24 Hiến pháp 2013 đã xác định Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Hiện cả nước đã có nhiều tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận. Đảng và Nhà nước rất quan tâm và đã ban hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 cùng nhiều văn bản pháp luật có liên quan nhằm tạo điều kiện để các tôn giáo được bình đẳng trước pháp luật.
Trong dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) lần này cũng có đề cập đến các quy định về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử, di vật, cổ vật, di sản tư liệu nói riêng. Riêng về di tích lịch sử văn hóa tôn giáo đang chứa đựng không chỉ giá trị di sản vật thể mà còn có cả giá trị phi vật thể cùng hòa đồng tích hợp. Đại biểu mong muốn được xem xét cụ thể hóa về tiêu chí nhận diện di tích hỗn hợp và xã hội hóa trong bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
10h41: Đại biểu Nguyễn Quốc Luận - Đoàn ĐBQH tỉnh Yên Bái: Phân định rõ nội hàm của Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
Góp ý về quy định Sở hữu di sản văn hóa, đại biểu Nguyễn Quốc Luận cho biết, khoản 2, khoản 3 Điều 4 quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với di sản văn hóa có sự mâu thuẫn về sở hữu toàn dân và không tách bạch được với sở hữu chung hoặc sở hữu riêng, cụ thể tại khoản 3 quy định: “Mọi di sản văn hóa ở trong lòng đất... đều thuộc sở hữu toàn dân”, tuy nhiên, khoản 2 quy định: “Di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân bao gồm hiện vật thuộc Bảo tàng công lập; các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; di sản tư liệu thuộc các cơ quan, tổ chức, đơn vị công lập; di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và di sản tư liệu không thuộc sở hữu chung hoặc sở hữu riêng”.
Nhằm hạn chế rủi ro từ việc phát sinh tranh chấp về sở hữu di sản văn hóa, đại biểu kiến nghị cơ quan soạn thảo xem xét kết cấu lại nội dung theo hướng (khoản 2 quy định về Sở hữu toàn dân), (khoản 3 quy định về sở hữu chung hoặc riêng). Đồng thời, quy định cụ thể về thẩm quyền, tiêu chí xác định các hình thức sở hữu đối với di sản văn hoá; bổ sung vào điều 3 giải thích từ ngữ về Sở hữu di sản văn hoá.
Về nội dung kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và danh mục di sản văn hóa phi vật thể, khoản 1 Điều 10 quy định: “hoạt động kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể được tiến hành thường xuyên, liên tục, hàng năm”. Theo đại biểu, việc quy định kiểm kê phải được tiến hành hằng năm là chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, tạo ra quy định, yêu cầu không cần thiết gây lãng phí về thời gian, nhân lực cho việc kiểm kê. Trong năm tiếp theo nếu có di sản mới, vừa được phát hiện, công nhận thì sẽ thực hiện việc bổ sung, cập nhập vào danh mục di sản và không cần thiết phải kiểm kê lại những di sản của năm liền kề trước đó.
Góp ý quy định về dự án đầu tư, xây dựng công trình nằm ngoài khu vực bảo vệ có khả năng tác động tiêu cực đến di tích, cảnh quan văn hóa của di tích, đại biểu cho biết, khoản 2 Điều 28 quy định: Việc triển khai dự án đầu tư, xây dựng công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a,b,c,d có khả năng tác động tiêu cực đến yếu tố gốc cấu thành di tích, cảnh quan văn hóa của di tích. Trong khi đó, tại khoản 3 của điều này quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở Trung ương và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm xác định các trường hợp triển khai dự án đầu tư, xây dựng công trình có khả năng tác động tiêu cực đến yếu tố gốc cấu thành di tích, cảnh quan văn hóa của di tích quy định tại khoản 2 điều này”.
Đại biểu cho rằng, quy định này khó khả thi trong thực tiễn triển khai thực hiện, bởi theo quy định tại khoản 2 sẽ có những dự án được triển khai mang tính chuyên môn rất sâu, yêu cầu đến kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ thuật nghề nghiệp cao mới có thể xác định được yếu tố tác động tiêu cực đến di tích. Do đó nếu giao cho Bộ và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện sẽ vô tình gây khó, có thể tạo ra các vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Đồng thời quy định việc triển khai dự án “nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích” là quy định chưa bảo đảm tính rõ ràng, chi tiết, việc không quy định rõ phạm vi ranh giới và diện tích để điều chỉnh việc xây dựng công trình sẽ gây sự tùy nghi, chủ quan trong quá trình thực hiện xác định phạm vi tác động.
Đối với quy định về Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích tại Điều 33, qua nghiên cứu, đại biểu Nguyễn Quốc Luận nhận thấy, điều luật hiện mới chỉ đề cập đến trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan chủ trì lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch mà chưa xác định nội hàm của quy hoạch. Đây là một nội dung cần được quan tâm đặc biệt bởi trong thực tế triển khai thực hiện còn tồn tại nhiều bất cập. Cần phải phân định rõ nội hàm của Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, nhất là đối với những quy hoạch có hoạt động xây dựng bởi hiện đã có quy hoạch xây dựng.
Đại biểu đề xuất nên lồng ghép quy hoạch này trong đồ án quy hoạch xây dựng trong trường hợp để thực hiện quy hoạch đó cần có hoạt động xây dựng. Nếu chỉ có quy hoạch về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thì chưa thể triển khai các công trình, vẫn cần phải có quy hoạch xây dựng. Còn đối với trường hợp trong đồ án quy hoạch không phát sinh hoạt động xây dựng, có thể thực hiện theo hướng quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Quy định theo hướng trên sẽ hạn chế sự lãng phí về thời gian, nguồn lực đồng thời tránh phát sinh thêm các thủ tục, tạo thuận lợi cho quá trình lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện.
10h48: Đại biểu Đào Chí Nghĩa - Đoàn ĐBQH Tp. Cần Thơ: Rà soát để giải thích các khái niệm, thuật ngữ đảm bảo tính cụ thể, tránh quy định chung chung
Cơ bản thống nhất với các nội dung của Tờ trình và Báo cáo thẩm tra của dự án Luật, đại biểu Đào Chí Nghĩa nhận thấy, các quy định trong dự án Luật đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo tồn, phát triển văn hóa và bảo đảm các quyền thụ hưởng văn hóa của con người trong tình hình mới.
Tán thành với tên gọi và đối tượng áp dụng của dự thảo Luật, đại biểu Đào Chí Nghĩa cho biết, dự thảo đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, bổ sung di sản tư liệu và bổ sung đối tượng áp dụng rộng rãi trong cộng đồng; bổ sung các quy định về đầu tư, xây dựng, cải tạo công trình trong và ngoài bảo vệ khu vực di tích; về các điều kiện đảm bảo trong hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa… Đại biểu cho rằng, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh này cơ bản đã bao quát các nội dung mà Luật hướng đến, tuy nhiên chưa có sự cân bằng trong các quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di sản, bảo đảm quyền thụ hưởng đối với di sản văn hóa của công dân, các quy định về quản lý nghiệp vụ còn quy định chung chung, chưa rõ, còn ủy quyền nhiều cho Chính phủ và các bộ ngành quy định chi tiết.
Do đó, đại biểu Đào Chí Nghĩa đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát dự thảo Luật để giải thích các khái niệm, thuật ngữ pháp lý đảm bảo tính cụ thể, chi tiết, áp dụng được ngay và có tính quy phạm cao, tránh quy định chung chung, mang tính chất khẩu hiệu.
Ví dụ như các khái niệm được giải thích từ ngữ tại Điều 3 về di tích lịch sử văn hóa, về bảo vật quốc gia, hiện vật, bảo tàng… cần được rà soát, chỉnh lý lại để đảm bảo tính pháp lý, chính xác và thống nhất trong cách hiểu; bổ sung giải thích các thuật ngữ như sưu tập, hiện vật có hình thức độc đáo, mẫu vật tự nhiên… Bên cạnh đó, một số nội dung chính sách còn chung chung, chưa có tính quy phạm như hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, viện trợ, tài trợ. Một số nội dung quan trọng lại ủy quyền cho Chính phủ và các bộ ngành quy định chi tiết như tại Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17…
Do đó, đại biểu Đào Chí Nghĩa đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát để quy định cụ thể ngay trong Luật các vấn đề liên quan đến quyền của chủ thể trong hoạt động di sản văn hóa, các nội dung quy định đã rõ, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, hạn chế tối đa việc giao Chính phủ và các bộ ngành quy định chi tiết để thuận lợi cho việc áp dụng khi Luật được ban hành.
10h55: Đại biểu Nguyễn Thị Sửu - Đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên Huế: Làm rõ việc sửa đổi các hình thức sở hữu di sản văn hóa
Góp ý dự thảo Luật về Sở hữu di sản văn hóa (Điều 4), đại biểu Nguyễn Thị Sửu thống nhất với báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội và cho rằng, so với Luật Di sản văn hóa hiện hành, dự thảo Luật chuyển từ quy định “Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu nhà nước” thành “Nhà nước đại diện chủ sở hữu di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân” (khoản 1 Điều 4).
Tuy nhiên, Tờ trình của Chính phủ chưa đề cập lý do sửa đổi các hình thức sở hữu di sản văn hóa, chưa xác định thẩm quyền, tiêu chí công nhận loại hình sở hữu. Đại biểu đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo giải trình nội dung này; đồng thời quy định cụ thể thẩm quyền, tiêu chí xác định các hình thức sở hữu đối với di sản văn hóa; nguyên tắc quản lý, bảo vệ, phát huy di sản văn hóa...
Về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và danh mục di sản văn hóa phi vật thể (Điều 10), đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề nghị có quy định riêng đối với những di sản văn hóa phi vật thể liên quan đến nhiều tỉnh thành.
Về Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể (Chương II của dự thảo Luật), đại biểu cho rằng các nội dung của chương này còn nhiều chồng lấn, trùng lặp nội dung. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, sắp xếp lại theo trình tự cho phù hợp.
Về Nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa, lưu giữ và truyền dạy tiếng nói, chữ viết của cộng đồng các dân tộc, đề nghị Chính phủ có bổ sung đánh giá kết quả việc truyền dạy tiếng nói, chữ viết của cộng đồng các dân tộc để có chính sách phù hợp trong dự thảo Luật.
11h02: Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Kạn: Làm rõ quy định về chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với nghệ nhân người dân tộc thiểu số
Trên cơ sở nghiên cứu dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), đại biểu Hồ Thị Kim Ngân có một số ý kiến đóng góp như sau:
Thứ nhất, chính sách của Nhà nước về di sản văn hóa được quy định tại khoản 6 Điều 7, tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với các nghệ nhân có tài năng xuất sắc, nghệ nhân nắm giữ và có công lao bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là nghệ nhân người dân tộc thiểu số ít người, sinh sống tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù trong việc phổ biến hình thức sinh hoạt truyền thống, đào tạo, truyền dạy người kế cận.
Theo đại biểu Hồ Thị Kim Ngân, quy định này được đặt ra nhưng chỉ mang tính nguyên tắc, chưa thể hiện và quy định rõ chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với nghệ nhân người dân tộc thiểu số nói chung và chế độ đãi ngộ có khác gì so với các nghệ nhân khác hay không?
Thứ hai, việc quy định nghệ nhân là người dân tộc thiểu số ít người được đặc biệt quan tâm. Theo đại biểu Hồ Thị Kim Ngân, quy định này chưa được đầy đủ và toàn diện, chưa tạo ra động lực và khuyến khích đối với các nghệ nhân người dân tộc thiểu số.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển mạnh mẽ của đất nước, các giá trị văn hóa truyền thống bị tác động bởi những giá trị văn hóa mới, các nghệ nhân dân tộc dân tộc thiểu số được coi là hạt nhân trong việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc, là sợi dây níu giữ các yếu tố bản địa đặc trưng và sắc thái văn hóa riêng không bị hòa tan. Thách thức lớn nhất mà hầu hết các di sản văn hóa phi vật thể đều phải đối diện là giới trẻ chưa tìm thấy sự say mê để theo học do sự ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa mới, vì thế thế hệ các nghệ nhân cao tuổi ngày một già yếu nhưng chưa tìm được người kế cận. Do đó, để giải quyết tốt mối quan hệ hài hòa giữa bảo tồn và phát triển văn hóa, đại biểu Hồ Thị Kim Ngân đề nghị cần có những cơ chế đặc thù đãi ngộ, động viên, tôn vinh đội ngũ nghệ nhân người dân tộc thiểu số nói chung kịp thời, qua đó phát huy mọi khả năng đóng góp của công tác bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống.
Thứ ba, liên quan đến Điều 13 của dự thảo Luật này quy định về chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể. Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân đề nghị cần quy định rõ đối tượng là nghệ nhân, đối tượng là chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể, từ đó thiết kế thật rõ quyền lợi của 02 chủ thể trên.
11h09: Đại biểu Trần Văn Tiến - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc: Chính quyền địa phương các cấp phải có phương án di dời dân để trả lại đất cho di tích
Đề cập về chính sách của Nhà nước về di sản văn hóa (Điều 7), đại biểu Trần Văn Tiến cho rằng, các chính sách Nhà nước về di sản văn hóa quy định nhiều. Tuy nhiên, chính sách nhà nước về di sản văn hóa vật thể rất hạn chế. Dự thảo Luật đề cập tới di tích quốc gia đặc biệt, di tích xuống cấp nghiêm trọng, bảo vật quốc gia. Còn di tích lịch sử - văn hóa quốc gia, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật quy định tại khoản 1, Điều 3 thì Nhà nước không có chính sách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản này nên đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu.
Về dự án đầu tư, xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ (Điều 27):
Tại khoản 2 quy định: “Việc thực hiện quy trình dự án sửa chữa, cải tạo, xây dựng nhà ở riêng lẻ trên cơ sở hiện trạng công trình đã có tại di tích trong khu vực bảo vệ của di tích phải thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng và chỉ được triển khai thực hiện sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch”.
Theo đại biểu Trần Văn Tiến, quy định như vậy là không phù hợp, bởi hiện tại nhiều khu di tích lịch sử văn hóa đang bị các hộ dân lấn, chiếm và nếu chỉ cần sự ý kiến đồng ý bằng văn bản của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì được xây dựng. Quy định như vậy sẽ ngày càng nhiều khu di tích bị lấn, chiếm. Vì vậy, đại biểu Trần Văn Tiến đề nghị những nhà ở riêng lẻ thuộc khu vực bảo vệ I thì cấm không được xây mới, chỉ được cải tạo chống xuống cấp và chính quyền địa phương các cấp phải có phương án di dời dân để trả lại đất cho di tích.
11h15: Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu
Báo cáo với Quốc hội về một số vấn đề chung của dự thảo luật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cho biết, với vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ đã chủ động làm việc với các bộ, ngành, địa phương, nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành và chuẩn bị đầy đủ, công phu, tuân thủ đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cơ quan soạn thảo cũng ý thức đây là luật chuyên ngành, khó, liên quan đến di tích, di sản – lĩnh vực văn hóa quan trọng. Qua rà soát, nội dung này liên quan đến 23 luật đang có hiệu lực. Vấn đề đặt ra trong quá trình sửa luật là không chồng lấn, không giao thoa, vấn đề đã rõ, quy định ở các luật khác phải được tiếp tục thực hiện. Quan điểm sửa đổi luật là những vấn đề nào đã chín, đã rõ thì đưa vào luật. Cơ quan soạn thảo cũng tiếp thu tối đa ý kiến đại biểu Quốc hội tại Phiên họp để tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật.
Giải trình về phạm vi điều chỉnh và các vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm, trong đó có ý kiến đề nghị bổ sung di sản địa chất, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nêu rõ, trong quá trình sửa đổi luật, cơ quan soạn thảo đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét sửa đổi; Chính phủ cũng đang giao Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi Luật Địa chất khoáng sản, để đảm bảo sự thống nhất.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cũng tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội góp ý về giải thích từ ngữ để biên tập theo hướng dễ hiểu, dễ tiếp cận và cô đọng nhất.
Về quy định liên quan đến bảo tàng, Bộ trưởng khẳng định, theo luật hiện hành quy định bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh và bảo tàng tư nhân. Tuy nhiên, trong lần sửa đổi này, hướng tiếp cận mở rộng hơn, theo đó cho phép có bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập; đồng thời đa dạng hóa các mô hình bảo tàng để cung cấp dịch vụ và phục vụ tốt hơn việc hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Liên quan đến bảo tàng số, cơ quan soạn thảo đã bổ sung quy định trưng bày trên không gian mạng, khi có đủ “độ chín” sẽ có bảo tàng số.
Đối với ý kiến đại biểu liên quan đến chính sách đối với nghệ nhân, Bộ trưởng cho biết, nghệ nhân giữ vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích và di sản. Vì vậy, khắc phục những bất cập của luật hiện hành, cơ quan soạn thảo đề nghị Quốc hội thông qua chính sách cụ thể cho nghệ nhân, không chỉ dừng lại nghệ nhân có hoàn cảnh khó khăn, mà tất cả các nghệ nhân khi được vinh danh, được công nhận đều được hưởng các chính sách Nhà nước đã ban hành, gồm cả sinh hoạt phí hàng tháng. Ngoài ra, tùy theo nguồn lực của địa phương, hội đồng nhân dân quyết định chính sách riêng để giúp nghệ nhân có điều kiện để truyền dạy tốt hơn.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cũng giải trình một số vấn đề đại biểu nêu liên quan đến Quỹ bảo tồn di sản văn hóa; phân cấp trong việc quản lý di tích; việc xây dựng, sửa chữa nhà ở riêng lẻ tại các khu vực dân cư tập trung tại vùng lõi và vùng đệm của di sản…
11h27: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh kết luận nội dung thảo luận
Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, các ý kiến phát biểu của các đại biểu Quốc hội đều tâm huyết, chất lượng, thẳng thắn, ngắn gọn, sát thực tiễn, đi thẳng vào vấn đề, tiếp cận dự án với nhiều nội dung phong phú, sâu sắc, trên tinh thần xây dựng và trách nhiệm cao. Đây là dự án luật sửa đổi cho ý kiến lần đầu, qua thảo luận sáng nay và thảo luận ở tổ, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội đánh giá cao Chính phủ và cơ quan chủ trì thẩm tra đã chuẩn bị hồ sơ dự án luật công phu, kỹ lưỡng, lắng nghe ý kiến của các cơ quan liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các đối tượng chịu sự tác động của luật, cơ bản thống nhất quan điểm sửa đổi luật này một cách toàn diện, nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, khắc phục những khó khăn, vướng mắc, giải quyết các vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, nhiều đại biểu nhấn mạnh, yêu cầu cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các nội dung để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của dự thảo Luật với các luật có liên quan, các quy định trong dự thảo Luật về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản; vấn đề phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ, phát huy di sản; mối quan hệ giữa 3 nội dung này trong dự án Luật. Nhiều ý kiến phát biểu về các nội dung như: chính sách của Nhà nước về di sản văn hóa, sở hữu di sản văn hóa, khu vực bảo vệ của di tích, hợp tác công – tư trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản, sự cần thiết của Quỹ bảo tồn và phát huy di sản…
Sau Kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến phát biểu tại hội trường và các ý kiến thảo luận tại tổ để xây dựng Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến các đại biểu Quốc hội, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.