KẾT QUẢ GIÁM SÁT THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 437/NQ-UBTVQH14 VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ, KHAI THÁC CÁC CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG BOT

23/04/2021

Tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Kinh tế đã gửi đến Quốc hội báo cáo kết quả giám sát về thực hiện Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).

Ủy ban Kinh tế ghi nhận Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 26/6/2018 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương để triển khai thực hiện Nghị quyết số 437; thực hiện nghiêm quy định không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo, hiện hữu theo hình thức hợp đồng BOT, là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, bất cập thời gian qua đối với hình thức đầu tư này để bảo đảm quyền lựa chọn cho người dân. Chính phủ đã tiến hành tổng kết việc triển khai thực hiện các mô hình đầu tư theo hình thức PPP và trình Quốc hội xem xét, thông qua Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV (tháng 6/2020). Như vậy, pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP trong đó có loại hợp đồng BOT đã được thống nhất, đồng bộ.

Ngoài ra, để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình lập quy hoạch, lựa chọn dự án đầu tư, Chính phủ đã giao Bộ Giao thông vận tải triển khai lập quy hoạch ngành quốc gia theo quy định của Luật Quy hoạch; ban hành quy định việc công khai, minh bạch các thông tin về dự án và các giải pháp xử lý nhằm thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước; xây dựng các Đề án tăng cường kết nối giao thông trong một số khu vực trọng điểm, lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu thông qua hình thức đấu thầu công khai. Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải đã và đang thực hiện quyết toán các dự án đã hoàn thành để xác định phương án tài chính và thời gian thu phí chính thức cho các dự án BOT; chỉ đạo tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư; rà soát tổng thể về vị trí đặt trạm thu phí và ban hành các chính sách miễn giảm giá cho các đối tượng chịu ảnh hưởng giúp bảo đảm an ninh trật tự khu vực; triển khai hệ thống thu phí tự động không dừng tại các trạm thu phí tạo thuận lợi cho các phương tiện khi tham gia giao thông, tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm nguy cơ xảy ra ùn tắc giao thông; thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát nguồn thu tại các trạm thu phí, yêu cầu các nhà đầu tư BOT thực hiện công tác quản lý, bảo trì công trình theo quy định…

Đoàn công tác Ủy ban Kinh tế của Quốc hội kiểm tra tại Trạm thu phí Ninh Xuân, Khánh Hòa

Ủy ban Kinh tế đánh giá, qua hơn 03 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 437, về cơ bản, cả 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp nêu tại Điều 2 của Nghị quyết đã được chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt, từng bước khắc phục được những hạn chế, vướng mắc, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải toả bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn, sự phối, kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thường xuyên, kịp thời hơn; công tác thông tin, tuyên truyền, thực hiện công khai, minh bạch đã góp phần tạo sự đồng thuận của người dân, ổn định trật tự khu vực dự án.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Uỷ ban Kinh tế nhận thấy còn một số nội dung thuộc 4 nhóm nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu tiến độ đề ra.

Trong đó, Chính phủ đã tổng kết việc triển khai thực hiện các mô hình đầu tư theo hình thức PPP, trong đó có hình thức hợp đồng BOT, nhưng đến nay vẫn chưa tổng hợp kết quả kiểm điểm trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân để xảy ra khuyết điểm, vi phạm và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội theo quy định.

Về việc quyết toán các dự án đã hoàn thành để xác định phương án tài chính và thời gian thu phí dịch vụ chính thức, công tác quyết toán toàn bộ dự án của một số dự án vẫn còn chậm, do còn một số vướng mắc liên quan như lãi vay trong thời gian xây dựng chưa tính trong tổng mức đầu tư của dự án BOT, chi phí giải phóng mặt bằng, định mức một số hạng mục... Ngoài ra, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 và lưu lượng xe thực tế thấp hơn so với phương án tài chính… cần phải điều chỉnh hợp đồng các dự án BOT để bảo đảm tính khả thi của các phương án tài chính cho các dự án. Mặt khác cho đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn quyết toán thu, chi, các thông số tài chính dự án và quyết toán dự án. Vì vậy, các dự án vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quyết toán toàn bộ dự án làm cơ sở để điều chỉnh thời gian thu phí.

Về việc rà soát tổng thể vị trí đặt trạm, chính sách miễn giảm giá tại tất cả các trạm thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ và quản lý doanh thu, đến nay các trạm thu phí đều có chính sách miễn giảm cho người dân xung quanh dự án, nhưng theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải hiện nay có 08 trạm thu phí vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do bất cập về vị trí đặt trạm, không được sự đồng thuận của người dân khó có thể xử lý dứt điểm bao gồm: (1) Trạm thu phí Bỉm Sơn thuộc Dự án Quốc lộ 1A đoạn tránh phía Tây thành phố Thanh Hóa; (2) Trạm thu phí Km77+922.5 thuộc Dự án đầu tư xây dựng tuyến Thái Nguyên - Chợ mới và Nâng cấp mở rộng Quốc lộ 3; (3) Trạm thu phí tại Km1747 thuộc đường Hồ Chí Minh qua tỉnh Đắk Lắk; (4) Trạm thu phí La Sơn - Túy Loan; (5)Trạm thu phí T2 thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 91; (6) Trạm thu phí Ninh Xuân thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp tuyến Quốc lộ 26; (7) Trạm thu phí Cai Lậy thuộc Dự án xây dựng tuyến tránh thị xã Cai Lậy; (8) Trạm thu phí thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 10 đoạn từ Cầu La Uyên đến cầu Tân Đệ. Do đó, Bộ Giao thông vận tải kiến nghị cấp có thẩm quyền bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 để hỗ trợ hoặc thanh toán một số dự án BOT này.

Uỷ ban Kinh tế cho rằng, đối với các dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu đã dẫn đến bất cập đó là đặt trạm thu phí ngoài phạm vi dự án hoặc trạm thu phí để thu cho những dự án khác mà người dân không sử dụng... nên không bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các nhà đầu tư BOT và người dân, dẫn đến gây mất an ninh, trật tự; mặc dù đã có chính sách miễn, giảm phí và điều chỉnh vị trí đặt trạm thu phí. Do đó, theo Uỷ ban Kinh tế, việc Bộ Giao thông vận tải đề nghị dùng ngân sách nhà nước để hỗ trợ hoặc mua lại dự án BOT là không hợp lý.

Về việc giám sát doanh thu của các trạm và bảo đảm tính cạnh tranh, công khai, minh bạch trong hoạt động thu phí: Về giám sát doanh thu thu phí, hệ thống quản lý, giám sát, khai thác dữ liệu nói trên mới chỉ được áp dụng cho 06 trạm thu phí (Toàn Mỹ 14, Cầu Yên Lệnh, Hoàng Mai, Pháp Vân – Cầu Giẽ, An Dân, Ninh Lộc) trong tổng số 66 trạm thu phí Tổng cục đường bộ là cơ quan nhà nước thẩm quyền (cả nước có 107 trạm thu phí thuộc thẩm quyền trung ương và địa phương). Về doanh thu thu phí, đa số các dự án không đáp ứng được yêu cầu, doanh thu không đạt so với số thu dự kiến tại hợp đồng dự án, các nhà đầu tư BOT gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng và tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu.

Về việc triển khai đồng bộ thu phí dịch vụ không dừng đối với tất cả các tuyến quốc lộ được đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT trên cả nước, đến nay, việc triển khai các trạm thu phí tự động không dừng (ETC) đã cơ bản hoàn thành với 87 trạm thu phí, trừ 04 trạm do Tổng Công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) quản lý do vướng mắc về nguồn vốn, phải chờ cấp có thẩm quyền quyết định cơ cấu lại các dự án; 08 trạm không đủ điều kiện triển khai; các trạm thu phí do UBND tỉnh Cà Mau quản lý có quy mô nhỏ, lưu lượng xe ô tô không nhiều, chủ yếu là xe mô tô 2 bánh, việc lắp đặt ETC gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo tính khả thi.

Theo Uỷ ban Kinh tế, mặc dù đã được quan tâm chỉ đạo, tiến độ triển khai thu phí tự động không dừng vẫn chậm hơn 02 năm so với yêu cầu Nghị quyết đặt ra. Theo đó, nguyên nhân của việc chậm trễ là do tổ chức thực hiện chưa hợp lý, chưa đúng tinh thần “bảo đảm tính cạnh tranh, công khai, minh bạch trong hoạt động thu phí” quy định tại Nghị quyết số 437, dẫn đến chưa nhận được sự đồng thuận từ phía các nhà đầu tư BOT. Cơ quan Nhà nước đã ban hành một số quy định chưa hợp lý mang tính chất bắt buộc như việc bàn giao trạm thu phí, ký kết hợp đồng giữa cơ quan Nhà nước, nhà đầu tư BOT và nhà cung cấp dịch vụ ETC,… chưa bảo đảm được sự bình đẳng giữa các đối tác tham gia ký kết hợp đồng, tiềm ẩn nguy cơ thiếu minh bạch, làm giảm niềm tin ở các nhà đầu tư. Hơn nữa, nếu không kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư khai thác hệ thống ETC sẽ dẫn đến kéo dài thời gian thu phí của dự án, ảnh hưởng quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người dân. Do đó, nếu không khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định bất cập về thực hiện thu phí ETC hiện hành sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn xã hội vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông sắp tới.

Về việc bảo đảm an ninh trật tự, kiểm tra, bảo đảm chất lượng công trình, giao thông thông suốt và chống thất thoát doanh thu, Uỷ ban Kinh tế nhận thấy, dù chính quyền địa phương đã tuyên truyền, đối thoại trực tiếp với người dân, tình hình an ninh, trật tự tại trạm thu phí Ninh Xuân, tỉnh Khánh Hoà vẫn diễn biến phức tạp, khi nhiều đối tượng không chịu mua vé, cản trở giao thông, chống đối quyết liệt, buộc doanh nghiệp phải xả trạm để cho các phương tiện lưu thông.

Chất lượng các công trình giao thông một số dự án BOT vẫn chưa đáp ứng yêu cầu như Dự án Quốc lộ 1A đoạn tránh phía Tây thành phố Thanh Hóa; Dự án xây dựng Quốc lộ 1 đoạn tránh thành phố Hà Tĩnh; Dự án Quốc lộ  Quốc lộ 1 đoạn thị xã Cai Lậy và tăng cường mặt đường đoạn Km1987+560-Km2014+00;..., xuống cấp nhanh chóng nhưng chưa được bảo trì, sửa chữa kịp thời. Trong đó, một số dự án do phải tạm dừng thu phí hoặc thu phí không bảo đảm phương án tài chính dẫn đến không đáp ứng được kinh phí phục vụ cho công tác bảo trì bảo đảm chất lượng công trình, tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông. Đồng thời, do tính chất phức tạp của nhiều bộ phận công trình, đến nay, cơ quan nước vẫn chưa ban hành quy định đầy đủ về tuổi thọ của tất cả các hạng mục dẫn đến việc xác định thời điểm sửa chữa, thay thế gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, tình trạng phương tiện giao thông thuộc đối tượng chịu phí sử dụng đường bộ đi vào các đường nhánh để tránh trạm thu phí làm thất thoát doanh thu thu phí vẫn chưa được xử lý triệt để.

Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổng kết hoạt động nhiệm kỳ khóa XIV

Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế, để bảo đảm hoàn thành việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 437, Uỷ ban Kinh tế kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ.

Thứ nhất, chỉ đạo tổng hợp kết quả kiểm điểm trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân để xảy ra khuyết điểm, vi phạm, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội theo yêu cầu tại Nghị quyết số 437.

Thứ hai, chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân các tỉnh có dự án BOT phối hợp với các bộ, ngành liên quan, Kiểm toán nhà nước để kịp thời phê duyệt quyết toán toàn bộ các dự án, đồng thời yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiêm túc các nội dung trong hợp đồng đã ký để bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ của các bên theo quy định nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư BOT.

Thứ ba, tập trung xử lý dứt điểm những tồn tại, vướng mắc của các trạm thu phí, kiên quyết xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ áp dụng hệ thống quản lý, giám sát, khai thác dữ liệu cho tất cả các trạm thu phí trên phạm vi cả nước. Chỉ đạo các cấp chính quyền địa phương bảo đảm an ninh, trật tự và tài sản của các nhà đầu tư.

Thứ tư, khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định bất cập liên quan đến dịch vụ thu phí không dừng, bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên tham gia hợp đồng; chỉ đạo thanh tra, kiểm toán, về việc triển khai thực hiện các dự án BOO nhằm bảo đảm minh bạch, hiệu quả, phòng chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm trong quản lý các dự án. Thực hiện nghiêm túc thu phí tự động không dừng, bảo đảm minh bạch, hiệu quả, xây dựng lộ trình, tuyên truyền và có cơ chế, chính sách để các phương tiện thực hiện dán thẻ, sử dụng dịch vụ thu phí không dừng; Chỉ đạo cơ quan thuế phối hợp với Bộ Giao thông vận tải để kết nối hệ thống dữ liệu, giam sát nguồn thu tương ứng với lưu lượng phương tiện giao thông qua các trạm thu phí không dừng để giám sát quá trình thu hồi vốn cũng như nghĩa vụ nộp thuế của các nhà đầu tư.

Thứ năm, chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện kiểm tra, giám sát để yêu cầu các nhà đầu tư BOT kịp thời bảo trì, sửa chữa những dự án xuống cấp nhằm bảo đảm chất lượng cho các dự án BOT./.

Bảo Yến