TỜ TRÌNH DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT THÀNH LẬP VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VĂN PHÒNG ĐBQH VÀ HĐND CẤP TỈNH

18/09/2020

Tiếp tục chương trình Phiên họp 48, sáng ngày 18/9/2020, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trình bày Tờ trình Dự thảo Nghị quyết thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh.

Toàn cảnh phiên họp.

Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, căn cứ Luật Tổ chức Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 65/2020/QH14 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021), thực hiện sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập và phối hợp với các cơ quan có liên quan khẩn trương triển khai nghiên cứu, xây dựng và tiếp thu hoàn thiện Tờ trình, dự thảo Nghị quyết thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Về căn cứ chính trị, pháp lý và sự cần thiết của việc ban hành nghị quyết, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;

Trên cơ sở Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản có liên quan quy định về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng Ủy ban nhân dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn nghiên cứu tổng kết, đánh giá hoạt động của 3 mô hình Văn phòng: Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để xây dựng Đề án về việc thí điểm hợp nhất 3 Văn phòng và đã ban hành Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 04/10/2018 về việc thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tại 10 tỉnh, thành phố: Bắc Kạn, Đà Nẵng, Hà Giang, Hà Tĩnh, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Tây Ninh, Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và Tiền Giang. Ngoài ra có thêm 2 tỉnh (Yên Bái và Long An) cũng chủ động đề nghị tham gia thực hiện thí điểm hợp nhất.

Tuy nhiên, sau quá trình thực hiện thí điểm hợp nhất 3 Văn phòng theo Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 04/10/2018 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã tổng kết và báo cáo trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV vừa qua. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội, trong đó có nội dung quy định: chấm dứt việc thực hiện thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 04/10/2018 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để tham mưu, giúp việc, phục vụ chung hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (hoàn thành trước ngày 01 tháng 7 năm 2021).

Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trình bày Dự thảo Nghị quyết thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Để các địa phương có cơ sở sắp xếp lại bộ máy, sớm ổn định tổ chức và kịp thời đảm bảo điều kiện và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân sau khi được thành lập. Việc phân bổ ngân sách cho hoạt động của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2021 sẽ do các địa phương đảm bảo và phải được thực hiện trước ngày 01/01/2021; dự toán phân bổ ngân sách cho các địa phương sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV.

Với căn cứ chính trị, cơ sở pháp lý và sự cần thiết của việc ban hành Nghị quyết như đã trình bày ở phần trên, căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 146 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Văn phòng Quốc hội kính trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết này theo trình tự, thủ tục rút gọn. Theo đó, hồ sơ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết này bao gồm: Tờ trình, dự thảo Nghị quyết và báo cáo thẩm tra.

Tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức, sắp xếp tổ chức bộ máy.

Về quan điểm, mục đích, yêu cầu xây dựng nghị quyết, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, việc xây dựng Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cần quán triệt.

Tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực và hiệu quả và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cụ thể hóa các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội;

Việc thành lập Văn phòng chung trên cơ sở hợp nhất 2 văn phòng: Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cần kế thừa và phát triển những mặt tích cực, ưu điểm của các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Văn phòng trước đây và khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay. Đồng thời, không làm gián đoạn công tác tham mưu, phục vụ hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; vừa phải đảm bảo cho hoạt động phục vụ chung, vừa phải đảm bảo thực hiện chức năng riêng của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

Việc tổ chức Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải đảm bảo tinh gọn, đồng bộ với các tổ chức cơ sở đảng, đoàn thể, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương với cán bộ công chức và người lao động.

Dự thảo Nghị quyết gồm 8 điều, quy định về nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của ăn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng Hội đồng nhân dân

Theo Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc, quy định việc thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng Hội đồng nhân dân ở 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và trên cơ sở tách Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện thí điểm theo quy định tại Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 04/10/2018 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan tương đương cấp Sở, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thường trực Hội đồng nhân dân, Lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có chức năng tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban, các Tổ đại biểu của Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân, cấp tỉnh.

Căn cứ các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương về chức năng, nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu trong quá trình xây dựng các nghị quyết về và cơ quan, tham mưu giúp việc Đoàn Đại biểu Quốc hội trước đây, Văn phòng Quốc hội đang dự thảo nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh gồm có các mảng công việc: nhiệm vụ tham mưu, phục vụ hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội; nhiệm vụ tham mưu, phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, các Tổ đại biểu của Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và nhiệm vụ tham mưu, phục vụ hoạt động chung của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Về cơ cấu, tổ chức của Văn phòng, trên cơ sở quán triệt tinh thần các nghị quyết của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, dự thảo Nghị quyết xây dựng theo hướng: Văn phòng có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lý, đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Cụ thể, về số lượng lãnh đạo Văn phòng: có Chánh Văn phòng và không quá 3 Phó Chánh Văn phòng. Sau khi thống nhất với Lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi đua khen thưởng, kỷ luật Chánh Văn phòng và Phó Chánh Văn phòng.

Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có 3 phòng: Phòng Công tác Quốc hội, Phòng Công tác Hội đồng nhân dân, Phòng Hành chính - Tổ chức - Quản trị.

Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sau khi thống nhất với Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội có thể quyết định thành lập thêm 01 phòng để phụ trách mảng công việc có tính chất tương đối độc lập, thuộc chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng phòng trực thuộc sau khi xin ý kiến của Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội và Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Về số lượng Phó Trưởng phòng, Tổng Thư ký Quốc hội cho biết, phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có ít hơn 10 biên chế công chức, phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh loại I có ít hơn 09 biên chế công chức, phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh loại II và loại III có ít hơn 08 biên chế công chức được bố trí 01 Phó Trưởng phòng;

Phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có từ 10 đến 14 biên chế công chức, phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh loại I có từ 09 đến 14 biên chế công chức, phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh loại II và loại III có từ 08 đến 14 biên chế công chức được bố trí không quá 02 Phó Trưởng phòng;

Phòng thuộc Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 15 biên chế công chức trở lên được bố trí không quá 03 Phó Trưởng phòng.

 Về biên chế: Biên chế của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân nằm trong tổng biên chế hành chính của địa phương, do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Biên chế đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách không thuộc biên chế công chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh mà thuộc biên chế khối lãnh đạo các cơ quan dân cử ở địa phương trong tổng số lượng biên chế cán bộ, công chức của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đó.

Về kinh phí hoạt động, Dự thảo Nghị quyết đang xây dựng theo hướng: Kinh phí hoạt động của Đoàn ĐBQH vẫn do Văn phòng Quốc hội đảm bảo còn kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân và Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân nằm trong kinh phí của địa phương. Chánh Văn phòng là chủ tài khoản của 2 nguồn kinh phí của Trung ương và địa phương.

Dự thảo Nghị quyết đang dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, cùng thời điểm hiệu lực của Luật Tổ chức Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020 để thuận tiện và kịp thời trong việc triển khai, tổ chức thực hiện.

Xin ý kiến Ủy ban Thường vụ về một số vấn đề còn ý kiến khác nhau.

Tổng Thư ký Quốc hội trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số vấn đề cần xin ý kiến, trong đó tập trung vào tên gọi, thẩm quyền thành lập, số lượng và tên gọi các phòng, số lượng biên chế của văn phòng, hiệu lực thi hành và điều kiện chuyển tiếp.

Về tên gọi của dự thảo Nghị quyết, Tổng Thư ký Quốc hội cho biết, hiện nay, có 2 loại ý kiến về vấn đề này.

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị trên cơ sở kế thừa các Nghị quyết trước đây, đề nghị ghi rõ tên của Nghị quyết này là: Nghị quyết về việc thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2020 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở các tỉnh, thành phố, do đó, tên gọi của Nghị quyết này không cần có cụm từ “thành lập” để tránh trùng lặp với quy định của Luật và đề nghị xác định tên gọi của Nghị quyết này là: “Nghị quyết về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh”.

Dự thảo Nghị quyết đang quy định theo phương án 1 bởi vì đây là tên gọi nêu đầy đủ nội hàm của Nghị quyết trong đó có việc xác định cơ quan nào tại địa phương có thẩm quyền thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đồng thời, việc quy định như vậy đã kế thừa Nghị quyết số 545/2007/UBTVQH12 và Nghị quyết số 1097/2015/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước đây.

Đối với thẩm quyền thành lập Văn phòng, loại ý kiến thứ nhất cho rằng trên cơ sở kế thừa quy định của Nghị quyết 545/2007/UBTVQH12, tại Nghị quyết này giao Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sau khi thống nhất với Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng hiện nay, theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định thành lập cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan tương đương cấp sở, vì vậy cũng cần giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định sau khi thống nhất với Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội thành lập để phù hợp với quy định Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Văn phòng Quốc hội đề xuất lựa chọn theo phương án 1 vì Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan tương đương cấp sở chứ không phải là cơ quan cấp sở và không hoàn toàn thuộc địa phương giống như các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp nên việc giao Hội đồng nhân dân thành lập cũng chưa hợp lý. Mặt khác, việc thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cần sớm được triển khai. Ngoài việc chịu sự điều chỉnh theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn chịu sự điều chỉnh theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Văn phòng có nhiệm vụ tham mưu giúp việc Đoàn đại biểu Quốc hội mà Đoàn đại biểu Quốc hội không phải là cấp chính quyền địa phương. Nếu giao cho Hội đồng nhân dân quyết định việc thành lập Văn phòng là không hợp lý và chưa hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, Văn phòng Quốc hội đề xuất giao Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định thành lập Văn phòng sau khi thống nhất với Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội.

Về số lượng và tên gọi các phòng, hiện cũng có 2 loại ý kiến về vấn đề này. Cụ thể, loại ý kiến thứ nhất: đề nghị quy định rõ Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có 3 phòng: Phòng Công tác Quốc hội, Phòng Công tác Hội đồng nhân dân, Phòng Hành chính - Tổ chức - Quản trị và 01 phòng do Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sau khi thống nhất với Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội quyết định.

Loại ý kiến thứ hai dedeef nghị số lượng phòng, tên gọi cụ thể của từng phòng và số lượng Phó Trưởng phòng do địa phương quyết định căn cứ vào quy định của Chính phủ về tiêu chí số lượng biên chế tối thiểu để thành lập phòng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương.

Dự thảo đang quy định theo phương án 1 để vừa đảm bảo hoạt động của các cơ quan và tạo ra sự linh hoạt cần thiết cho chính quyền địa phương quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Mặt khác, Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020 cũng quy định giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể.

Đối với quy định về biên chế của Văn phòng, trong quá trình tham gia ý kiến góp ý về biên chế của Văn phòng, một số địa phương đề nghị không cần phải quy định: Biên chế của Văn phòng Đoàn sau khi hợp nhất không vượt quá số lượng biên chế của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng Hội đồng nhân dân được cấp có thẩm quyền giao trước khi hợp nhất mà nên để cho địa phương có sự chủ động sắp xếp, điều chỉnh nếu tăng biên chế ở cơ quan này thì có thể giảm biên chế ở cơ quan khác do tổng số lượng biên chế của địa phương đã được xác định cụ thể.

Tuy nhiên, để đảm bảo chặt chẽ việc thực hiện tinh giản biên chế theo yêu cầu của Trung ương, Văn phòng Quốc hội đã chuyển nội dung này xuống điều khoản chuyển tiếp của Nghị quyết, tạo thuận lợi cho các địa phương thực hiện thống nhất./.

Lan Hương - Minh Hùng