GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ MỘT SỐ NỘI DUNG LỚN CỦA LUẬT CĂN CƯỚC CÔNG DÂN (SỬA ĐỔI)

28/08/2023

Tại Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách lần thứ 4, sáng 28/8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo Luật Căn cước công dân (sửa đổi).

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 28/8: KHAI MẠC HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI HOẠT ĐỘNG CHUYÊN TRÁCH LẦN THỨ 4, NHIỆM KỲ KHOÁ XV

Toàn cảnh Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách lần thứ 4

Nhất trí với tên gọi của Luật là Luật Căn cước 

Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo Luật Căn cước công dân (sửa đổi), về tên gọi, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới nêu rõ, hiện còn 02 loại ý kiến về tên gọi của dự thảo Luật như sau:

Loại ý kiến thứ nhất đồng ý đổi tên luật thành Luật Căn cước và cho rằng, việc sử dụng tên gọi này thể hiện bao quát, đầy đủ các chính sách được đề xuất khi đề nghị bổ sung dự án Luật vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh , phù hợp với phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; thể hiện đúng bản chất của công tác quản lý căn cước; không tác động đến vấn đề quốc tịch cũng như địa vị pháp lý của công dân; không tác động đến các luật khác.

Tuy nhiên, hạn chế của tên gọi này là tác động đến tâm lý một bộ phận người dân, lo ngại sẽ phải thay đổi thẻ căn cước công dân, thay đổi các thủ tục hành chính sử dụng thẻ căn cước công dân, không bảo đảm sự ổn định của chính sách; tác động đến đại đa số công dân Việt Nam hiện đang được cấp và sử dụng thẻ căn cước công dân.

Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ tên luật là Luật Căn cước công dân, và cho rằng, tên gọi này đã sử dụng ổn định, góp phần giữ ổn định các quy định của pháp luật hiện hành, các loại giấy tờ, thủ tục hành chính, dân sự; phù hợp với tên gọi trong Nghị quyết số 33/2023/UBTVQH15 ngày 17/3/2023 của UBTVQH. Tên gọi Luật Căn cước công dân gắn với tên gọi thẻ căn cước công dân thể hiện địa vị pháp lý là công dân Việt Nam với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam.

Tuy nhiên, hạn chế của tên gọi này là thể hiện không đầy đủ chính sách sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật này, chưa phù hợp, bao quát đầy đủ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới 

Thường trực UBQPAN nhất trí với loại ý kiến thứ nhất. Tuy nhiên, đây là nội dung còn có ý kiến khác nhau, đề nghị các ĐBQH tiếp tục cho ý kiến về tên gọi của Luật.

Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật đối với căn cước điện tử, một số ý kiến băn khoăn về sự cần thiết cấp và quản lý căn cước điện tử; đề nghị làm rõ cơ sở thực tiễn để kiểm chứng hiệu quả áp dụng quy định căn cước điện tử trong dự thảo Luật.

Thường trực UBQPAN cho rằng, để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng Chính phủ điện tử, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, thì việc bổ sung điều chỉnh đối với căn cước điện tử, danh tính điện tử, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong hệ thống định danh và xác thực điện tử là cần thiết. Trên cơ sở đánh giá thực trạng hạ tầng viễn thông, internet và thực tế triển khai cấp và kích hoạt tài khoản định danh điện tử thời gian qua cho thấy, việc luật hóa để nâng cao giá trị pháp lý của căn cước điện tử là phù hợp với yêu cầu thực tiễn và có tính khả thi. Vì vậy, Thường trực UBQPAN đề nghị cho giữ các quy định về căn cước điện tử như dự thảo Luật Chính phủ trình.

Đề cập về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam (Điều 7), tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Thường trực UBQPAN đã chuyển Điều này về Chương III (Điều 30), đổi tên Chương III thành “Thẻ căn cước, giấy chứng nhận căn cước” và bổ sung, chỉnh lý Điều 5, chỉnh sửa toàn diện Điều 30 như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý nhằm quy định cụ thể, rõ hơn về người gốc Việt Nam; điều kiện cấp giấy chứng nhận căn cước, việc cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận căn cước; thông tin được thu thập, cập nhật, lưu trữ và việc khai thác, sử dụng thông tin về người gốc Việt Nam; việc quản lý người gốc Việt Nam; bổ sung đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam.

Đảm bảo thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ, bảo mật cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư

Liên quan đến thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (Điều 10) và thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước (Điều 16), Thường trực UBQPAN nhận thấy, qua đánh giá và nghiên cứu kỹ lưỡng, tại Điều 10 dự thảo Luật Chính phủ trình chỉ quy định cập nhật các thông tin trong thực tế quản lý đã rõ, được sử dụng thường xuyên để phục vụ công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết thủ tục hành chính, trực tiếp phục vụ cho việc ứng dụng tiện ích của thẻ căn cước, căn cước điện tử, kết nối, chia sẻ, chứng thực dữ liệu công dân…

Các đại biểu tham dự Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách lần thứ 4

Trong các trường thông tin quy định tại Điều này có 04 trường thông tin để tạo lập số định danh cá nhân, phục vụ công tác quản lý dân cư. Các trường thông tin còn lại nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước, bảo đảm quyền lợi của công dân, thuộc 04 nhóm thông tin sau: (1) Các thông tin về hộ tịch và cư trú: nhằm xác định thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính, xác định địa vị pháp lý của người dân…; (2) Thông tin về nhóm máu: nhằm phục vụ công tác cấp cứu, xây dựng nguồn máu dự phòng trong khám, chữa bệnh…; (3) Các thông tin về số điện thoại, địa chỉ thư điện tử: để phục vụ liên lạc giữa cơ quan nhà nước với người dân và thực hiện xác thực khi tạo lập, sử dụng căn cước điện tử hoặc thực hiện giao dịch với cơ quan nhà nước…; (4) Nhóm thông tin khác theo quy định của Chính phủ để dự phòng, bảo đảm thích ứng với công tác chuyển đổi số trong từng thời kỳ, bảo đảm tính khả thi khi triển khai thực hiện.

Tại Điều 11 và Điều 17 của dự thảo Luật Chính phủ trình đã quy định cụ thể việc thu thập, cập nhật thông tin của công dân từ tàng thư căn cước và các cơ sở dữ liệu hiện có, chỉ thu thập thông tin từ công dân trong một số trường hợp chưa có thông tin trong các cơ sở dữ liệu và trên cơ sở công dân tự nguyện cung cấp; việc thu thập, cập nhật thông tin về ADN, giọng nói chỉ áp dụng đối với những người có tiền án, tiền sự, thông qua hoạt động tố tụng hoặc hoạt động xử lý vi phạm hành chính, không thu thập trực tiếp từ người dân. Đối với các trường thông tin khác là những thông tin không bắt buộc, được thu thập qua quá trình tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính nhằm phục vụ chính lợi ích của người dân.

Để có căn cứ thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ, bảo mật cơ sở dữ liệu, Thường trực UBQPAN tiếp thu ý kiến ĐBQH, chỉnh lý khoản 4 Điều 10 dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý. Ngoài ra, Thường trực UBQPAN kiến nghị Quốc hội yêu cầu Chính phủ tiếp tục quan tâm đầu tư, tăng cường năng lực về chuyên môn và kỹ thuật, bảo đảm Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được bảo vệ an toàn ở mức tối đa. Đồng thời đã rà soát, chỉnh lý quy định tại Điều này và Điều 10, Điều 16 dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý nhằm quy định cụ thể việc phân loại trường thông tin bắt buộc cập nhật, trường thông tin thu thập từ người dân trên tinh thần tự nguyện và quy định rõ việc cơ quan quản lý căn cước có trách nhiệm phối hợp với cơ quan liên quan và người dân kiểm tra, thu thập, cập nhật những thông tin còn thiếu, có thay đổi hoặc sai sót để bảo đảm tính chính xác của thông tin và thống nhất trong các cơ sở dữ liệu.

Việc đổi tên thẻ căn cước như dự thảo Luật Chính phủ trình là phù hợp

Về nội dung thể hiện trên thẻ căn cước (Điều 19), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, tên gọi của thẻ căn cước hiện còn 02 loại ý kiến: Loại ý kiến thứ nhất đồng ý với tên thẻ căn cước như dự thảo Luật Chính phủ trình; Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên tên thẻ căn cước công dân như Luật hiện hành.

Thường trực UBQPAN cho rằng việc đổi tên thẻ căn cước như dự thảo Luật Chính phủ trình là phù hợp; không phát sinh thủ tục, không phát sinh chi ngân sách nhà nước, chi phí của xã hội. Tuy nhiên, đây là nội dung các vị ĐBQH còn nhiều ý kiến khác nhau, Thường trực UBQPAN đề nghị ĐBQH cho ý kiến để lựa chọn quyết định về tên gọi của thẻ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung Hội nghị

Liên quan đến thông tin trên thẻ căn cước, Thường trực UBQPAN nêu rõ, việc thay đổi thông tin thể hiện trên thẻ căn cước đã được đánh giá cụ thể trong quá trình xây dựng Luật, tương thích với các quy định của pháp luật có liên quan. Dự thảo Luật bỏ vân tay trên bề mặt thẻ (được lưu trữ trong bộ phận lưu trữ) để bảo đảm tính bảo mật trong quá trình sử dụng thẻ; bỏ thông tin “quê quán”, sửa đổi “số thẻ căn cước công dân” thành “số định danh cá nhân”, “căn cước công dân” thành “thẻ căn cước”, “nơi thường trú” thành “nơi cư trú”, bổ sung “nơi đăng ký khai sinh”... để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân; các thông tin căn cước của người dân cơ bản sẽ được lưu trữ, khai thác, sử dụng thông qua chíp điện tử trên thẻ căn cước; việc tích hợp cả QR code và chíp điện tử trên thẻ căn cước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng thông tin công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự.

Bên cạnh đó, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Thường trực UBQPAN đã nghiên cứu, chỉnh sửa một số trường thông tin tại khoản 1 Điều 18 như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý bảo đảm phù hợp và khả thi.

Về người được cấp thẻ căn cước (Điều 20 dự thảo Luật Chính phủ trình), Thường trực UBQPAN đã rà soát, chỉnh lý, bổ sung quy định tại Điều 5 và Điều 23 dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý để quy định cụ thể hơn về yêu cầu, điều kiện, trình tự, thủ tục cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi và trách nhiệm của cha, mẹ hoặc người giám hộ trong việc sử dụng, quản lý thẻ căn cước của người dưới 14 tuổi.

Đề cập về tích hợp thông tin vào thẻ căn cước (Điều 23), Thường trực UBQPAN cho rằng, quy định như dự thảo Luật về việc tích hợp một số loại thông tin vào thẻ căn cước là phù hợp. Đồng thời đã rà soát, nghiên cứu, chỉnh lý, bổ sung các quy định tại Điều này và các điều khoản có liên quan trong dự thảo Luật để bảo đảm thông tin tích hợp vào thẻ căn cước được chính xác, kịp thời, an toàn và hiệu quả trong khai thác và sử dụng.

Liên quan đến việc cấp, quản lý căn cước điện tử (Chương IV), Thường trực UBQPAN đã nghiên cứu, chỉnh lý khái niệm về căn cước điện tử tại khoản 15 Điều 3, chỉnh lý lại quy định tại khoản 2, bổ sung 03 khoản tại Điều 31 dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý nhằm quy định cụ thể hơn về thông tin trong căn cước điện tử, thẩm quyền cấp căn cước điện tử và giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp căn cước điện tử./.

Bích Ngọc

Các bài viết khác