1. Cử tri các tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hải Dương, Ninh Thuận, Quảng Bình, Quảng Trị, Trà Vinh, Thái Bình, Vĩnh Long, Thành phố Hà Nội kiến nghị:
- Trong thời gian qua, Quốc hội đã có cố gắng ban hành nhiều luật để điều chỉnh xã hội bằng pháp luật. Cử tri mong muốn Quốc hội tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng xây dựng pháp luật để các văn bản Luật được ban hành ngắn gọn, dễ hiểu, mang tính khả thi cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn đời sống.
- đề nghị Quốc hội khi xây dựng các điều, khoản trong luật nên có biện pháp chế tài nặng, tăng cường tính nghiêm minh, tính răn đe, xử lý kịp thời đúng mức đối với những hành vi sai phạm (làm hàng giả; chống người thi hành công vụ; mua, bán, sử dụng chất ma túy…).
Trả lời: (Tại Công văn số 2010/UBPL14 ngày 15/01/2019)
1. Trong thời gian qua, Quốc hội đã có cố gắng ban hành nhiều luật để điều chỉnh xã hội bằng pháp luật. Cử tri mong muốn Quốc hội tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng xây dựng pháp luật để các văn bản Luật được ban hành ngắn gọn, dễ hiểu, mang tính khả thi cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn đời sống.
Ủy ban Pháp luật tán thành với ý kiến của cử tri về việc cần tăng cường hơn nữa chất lượng trong hoạt động xây dựng pháp luật, để luật được ban hành đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nguyện vọng của người dân. Trong thời gian qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan, tổ chức có liên quan ngày càng quan tâm hơn đến công tác xây dựng pháp luật với tinh thần trách nhiệm cao. Công tác lập pháp ngày càng được chú trọng, từ khâu đánh giá tác động đối với từng chính sách khi xem xét đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; tổ chức lấy ý kiến đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự tác động của dự thảo văn bản. Chính phủ đã bố trí nhiều thời gian hơn, ưu tiên việc thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh tại các phiên họp của Chính phủ; đồng thời tổ chức một số phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật. Cơ quan thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra ngày càng chủ động hơn trong việc nghiên cứu, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến dự án; phối hợp với Ban soạn thảo để nắm bắt nội dung, cùng trao đổi, xử lý các vấn đề phát sinh, góp phần nâng cao chất lượng chuẩn bị dự án; tổ chức hội nghị chuyên gia hoặc nghe đại diện cơ quan trình, cơ quan soạn thảo, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và các đối tượng có liên quan giải trình, cung cấp thông tin hoặc trình bày ý kiến về những vấn đề liên quan. Việc thảo luận, thông qua dự án tại kỳ họp Quốc hội được thực hiện đúng quy định và với chất lượng cao hơn. Trong thảo luận đã coi trọng các ý kiến tranh luận; việc tổng hợp và tiếp thu, giải trình ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội được làm kỹ và bài bản hơn; tạo điều kiện để cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan trình dự án được báo cáo với Quốc hội ý kiến của mình để Quốc hội có đầy đủ thông tin trước khi thông qua. Công tác chỉnh lý kỹ thuật văn bản ngày càng đi vào nền nếp, nhiều vấn đề đã có quy chuẩn thống nhất thực hiện theo Nghị quyết mới quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nhờ đó, công tác xây dựng pháp luật đã có nhiều chuyển biến theo hướng thực chất hơn, góp phần thiết thực đưa nội dung các văn bản pháp luật mới ban hành đi vào cuộc sống một cách hiệu quả.
2. Cử tri đề nghị Quốc hội khi xây dựng các điều, khoản trong luật nên có biện pháp chế tài nặng, tăng cường tính nghiêm minh, tính răn đe, xử lý kịp thời đúng mức đối với những hành vi sai phạm (làm hàng giả; chống người thi hành công vụ; mua, bán, sử dụng chất ma túy…).
Ủy ban Pháp luật xin trả lời về vấn đề này như sau: mức độ vi phạm của từng hành vi vi phạm mà cử tri nêu ra đã được các cơ quan chức năng xem xét, cân nhắc trong quá trình xây dựng Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự. Tại các phiên thảo luận ở Tổ, tại Hội trường, nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận kỹ các hành vi phạm tội, trên cơ sở đó đưa ra chế tài tương ứng bảo đảm đủ sức răn đe và trừng trị; ngoài hình phạt chính, xử phạt chính còn có hình phạt, xử phạt bổ sung. Bên cạnh đó, tại các hội nghị, hội thảo, rất nhiều ý kiến tham gia của chuyên gia, nhà khoa học đã phân tích đầy đủ các góc độ, khía cạnh mức độ vi phạm từ đó đề nghị các mức xử phạt tương ứng. Trong quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật Hình sự cũng đã tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các Đoàn đại biểu Quốc hội cũng đã tổng hợp và gửi đến các cơ quan có liên quan để chỉnh lý, hoàn thiện trước khi trình Quốc hội xem xét tại nhiều kỳ họp trước khi thông qua. Do đó, các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự là căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm; mọi hậu quả do vi phạm pháp luật gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
3. Cử tri kiến nghị Quốc hội tăng cường công tác giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản quy định chi tiết thi hành luật để thực hiện đồng bộ, đầy đủ, thống nhất, tránh trường hợp chờ nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện luật của Bộ, ngành, khắc phục tình trạng ban hành các văn bản chồng chéo, trái luật hoặc sai quy định. Bên cạnh đó, cử tri cho rằng có những luật tuổi thọ quá ngắn, mới ban hành đã phải điều chỉnh, sửa đổi; có những luật đang trong quá trình lấy ý kiến đã gây phản ứng trong Nhân dân nhưng chưa thấy cơ quan nào phải chịu trách nhiệm về vấn đề này. Đề nghị Quốc hội cần quy rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chấm dứt tình trạng trên.
Về các nội dung này, Ủy ban Pháp luật xin trả lời như sau:
Để bảo đảm văn bản quy định chi tiết được ban hành kịp thời cùng với thời điểm có hiệu lực của Luật, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã thường xuyên giám sát công tác ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật. Tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2018), một trong những nội dung giám sát theo Chương trình giám sát của Quốc hội[1] là xem xét Báo cáo của Chính phủ về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, trong đó có công tác ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Số lượng văn bản quy định chi tiết ban hành chậm, nợ đã giảm dần (năm 2018 số lượng văn bản quy định chi tiết tuy nhiều hơn 56 văn bản so với năm 2017 nhưng tỷ lệ văn bản đã được ban hành tăng từ 88,54% năm 2017 lên 92,1% năm 2018[2]). Mặc dù vậy, số lượng văn bản quy định chi tiết trong các luật được thông qua vẫn còn, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật trên thực tế. Những hạn chế này cần tiếp tục được Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ quan tâm, chỉ đạo sát sao để sớm khắc phục trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tình trạng văn bản có nội dung trái pháp luật, không khả thi, gây bức xúc dư luận đã từng bước được hạn chế. Qua xem xét Báo cáo của Chính phủ[3] cho thấy, từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2018 đã kiểm tra theo thẩm quyền đối với 6.732 văn bản (1.086 văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ; 5.646 văn bản của địa phương); trong đó phát hiện 03/74 văn bản sai sót về hiệu lực hoặc nội dung. Các phản ánh, kiến nghị của dư luận, báo chí, các tổ chức, cá nhân về nội dung của văn bản quy phạm pháp luật đã được cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản nghiên cứu nghiêm túc và có biện pháp xử lý kịp thời.
Về vấn đề xác định trách nhiệm của các chủ thể trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 7 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của từng chủ thể trong mỗi giai đoạn của quá trình xây dựng, ban hành văn bản. Kiến nghị của cử tri, Ủy ban Pháp luật xin được ghi nhận để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và có những biện pháp đúng đắn để khắc phục tình trạng trên.
2. Cử tri các tỉnh Đồng Nai; Hải Dương; Thanh Hóa kiến nghị: Về việc đưa dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ra khỏi Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh tại kỳ họp thứ 6, đề nghị Quốc hội chỉ đạo các cơ quan chuyên môn giải thích thấu đáo, hợp lý và có định hướng tuyên truyền đúng đắn để quần chúng Nhân dân hiểu, không để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc cho đó là kết quả của các cuộc biểu tình phản đối dự án Luật này.
Trả lời: (Tại Công văn số 2014/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Ủy ban Pháp luật xin được ghi nhận ý kiến của cử tri và trả lời như sau: Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến xác đáng của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, ý kiến của cử tri để hoàn thiện dự thảo Luật. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương cũng đã chỉ đạo các cơ quan liên quan chuẩn bị báo cáo, tài liệu, cung cấp đầy đủ thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, quá trình nghiên cứu, xây dựng dự án Luật và việc chưa trình Quốc hội thông qua dự án Luật tại kỳ họp thứ 5, gửi tài liệu này và toàn bộ hồ sơ dự án Luật để các vị đại biểu Quốc hội phối hợp với các địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan phổ biến, giải thích, tuyên truyền trong quá trình tiếp xúc cử tri, vận động quần chúng Nhân dân nhằm bảo đảm các nội dung của dự án Luật được hiểu đầy đủ, đúng đắn, không để các thế lực thù địch bóp méo, xuyên tạc, gây hiểu nhầm, bức xúc trong Nhân dân. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền đã khẩn trương tiến hành điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật của một số đối tượng, cá nhân lợi dụng sự kiện này để kích động, chống phá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
3. Cử tri các tỉnh Đồng Tháp, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội tiếp tục đổi mới hoạt động xây dựng pháp luật nhất là đối với những luật có liên quan mật thiết đến đời sống người dân cần tổ chức lấy ý kiến trong Nhân dân trước khi dự án luật được thông qua nhằm tạo sự đồng thuận khi triển khai thực hiện; cần thực hiện tốt hơn nữa trách nhiệm tiếp thu các ý kiến đóng góp và thẩm tra các dự án luật, bảo đảm các dự án luật trước khi trình Quốc hội phải có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống.
Trả lời: (Tại Công văn số 2017/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Về tổ chức lấy ý kiến người dân: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đưa ra một số quy định nhằm thu hút và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự tác động trực tiếp của văn bản đóng góp ý kiến. Việc lấy ý kiến được coi là thủ tục bắt buộc trong cả giai đoạn đề nghị xây dựng chính sách và giai đoạn soạn thảo văn bản. Thời hạn đăng tải để lấy ý kiến ít nhất 30 ngày với đề nghị xây dựng chính sách[4] và ít nhất 60 ngày với dự án, dự thảo văn bản[5]. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn quy định các hình thức lấy ý kiến đa dạng, phong phú như: đăng tải để lấy ý kiến, lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo đề nghị góp ý kiến, tổ chức hội thảo, tọa đàm hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việc xây dựng các luật trình Quốc hội trong thời gian qua đều được thực hiện việc lấy ý kiến theo quy trình này. Đối với những dự án luật có phạm vi điều chỉnh lớn, liên quan mật thiết tới đời sống người dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân sau khi trình Quốc hội cho ý kiến lần 1. Ví dụ: Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự hay gần đây là Luật Giáo dục (sửa đổi) sau khi được Quốc hội cho ý kiến đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định giao Chính phủ tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và tổng hợp ý kiến báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua nhằm tạo sự đồng thuận cao trong Nhân dân và sớm đi vào đời sống khi triển khai thực hiện.
Việc tiếp thu, giải trình thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan trong mỗi giai đoạn lấy ý kiến. Trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng luật, cơ quan lập đề nghị có trách nhiệm đăng tải trên website; lấy ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức có liên quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, giải trình, tiếp thu các ý kiến góp ý đó. Trong quá trình soạn thảo văn bản, cơ quan chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và cơ quan, tổ chức có liên quan; đăng tải toàn văn dự thảo văn bản và tờ trình trên cổng thông tin điện tử và có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý này. Trong quá trình thẩm tra, chỉnh lý, tiếp thu văn bản, cơ quan chủ trì thẩm tra, chỉnh lý có thể tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thu thập ý kiến đóng góp để nghiên cứu, hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Về công tác thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện các dự án luật, thời gian qua có nhiều cải tiến và chất lượng hơn; việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã tập trung thực hiện tốt hơn nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật. Cơ quan thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra chủ động nghiên cứu, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến dự án; phối hợp với Ban soạn thảo để nắm bắt nội dung, cùng trao đổi, xử lý các vấn đề phát sinh, góp phần nâng cao chất lượng chuẩn bị dự án; tổ chức hội nghị chuyên gia hoặc nghe đại diện cơ quan trình, cơ quan soạn thảo, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và các đối tượng có liên quan giải trình, cung cấp thông tin hoặc trình bày ý kiến về những vấn đề liên quan. Qua đó, báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có chất lượng, tính phản biện cao, có căn cứ pháp luật, cơ sở thực tiễn và khoa học, bảo đảm các dự án luật trước khi trình ra Quốc hội có chất lượng, đáp ứng thực tiễn.
Trong thời gian tới, Ủy ban Pháp luật sẽ tiếp tục tham mưu cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội chỉ đạo, đôn đốc, giám sát các cơ quan liên quan thực hiện tốt các quy định pháp luật và yêu cầu về xây dựng pháp luật như cử tri nêu.
4. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Ngày 25/5/2016, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính, trong đó quy định về tiêu chuẩn, điều kiện phân loại đơn vị hành chính cấp xã có những thay đổi căn bản so với trước đây. Cử tri đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét cho giữ nguyên trạng các xã đã được công nhận là xã đảo trước khi Nghị quyết này có hiệu lực để bảo đảm tính ổn định.
Trả lời: (Tại Công văn số 2015/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Về nội dung này, Ủy ban Pháp luật xin trả lời như sau: Căn cứ Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 về tiêu chuẩn đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính quy định về các tiêu chí và tiêu chuẩn để phân loại các đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị và hải đảo (có hiệu lực kể từ ngày ký). Tại khoản 1 Điều 31 của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 quy định: “Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính quy định tại Chương I của Nghị quyết này không áp dụng cho các đơn vị hành chính được thành lập trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành”. Ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã yêu cầu đối với chính quyền địa phương “từng bước sắp xếp, kiện toàn, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật; khuyến khích sáp nhập, tăng quy mô các đơn vị hành chính các cấp ở những nơi có đủ điều kiện để nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tăng cường các nguồn lực của địa phương”. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII), ngày 24/12/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã, trong đó chỉ đạo “Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã vừa căn cứ theo các tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số; đồng thời, phải chú trọng cân nhắc kỹ các yếu tố đặc thù về lịch sử truyền thống, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, điều kiện địa lý – tự nhiên, cộng đồng dân cư và yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự xã hội”. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương và Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ đang nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp luật để thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên và dân số, không bắt buộc phải sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã có điều kiện, vị trí địa lý tự nhiên biệt lập với các đơn vị hành chính khác ở khu vực hải đảo, cù lao.
5. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Quốc hội tiếp tục tăng cường hoạt động giám sát về việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật của các cơ quan, đơn vị, cán bộ trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao…
Trả lời: (Tại Công văn số 2016/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Ủy ban Pháp luật tán thành với kiến nghị của cử tri cần tiếp tục tăng cường hoạt động giám sát về việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đã quy định cụ thể phạm vi, đối tượng, nội dung và các hình thức giám sát của Quốc hội. Thời gian qua, hoạt động giám sát của Quốc hội đã được tăng cường dưới nhiều hình thức và có nhiều biến chuyển tích cực. Các nội dung giám sát đề cập đến những vấn đề thực sự bức xúc trong đời sống xã hội, được cử tri và dư luận cả nước quan tâm, đồng tình, đánh giá cao; kết quả giám sát đã từng bước tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội. Thông qua giám sát, các chủ thể giám sát có điều kiện đánh giá sự phù hợp của chính sách, pháp luật đã ban hành và công tác tổ chức thi hành pháp luật của các cấp chính quyền để kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, góp phần giúp các cơ quan thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã tăng cường cả “hậu giám sát” đối với các nội dung đã được giám sát. Tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2018), Quốc hội đã giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4. Qua đó làm rõ trách nhiệm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng đã xây dựng, ban hành Chương trình giám sát năm 2019 tập trung vào những vấn đề bức xúc trong từng lĩnh vực nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả, chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Trong thời gian tới, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội sẽ tiếp tục tăng cường hoạt động giám sát, góp phần bảo đảm cho Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
5. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội khi xem xét, thông qua Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Văn Phong và Phú Quốc cần nghiên cứu cẩn trọng, kỹ lưỡng nhằm xây dựng một mô hình phát triển mới với cơ chế, chính sách có tính đột phá để cải thiện môi trường đầu tư; nâng cao sức cạnh tranh; thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và tạo động lực mới đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trả lời: (Tại Công văn số 2011/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Ủy ban Pháp luật xin được ghi nhận ý kiến của cử tri và trả lời như sau: Việc nghiên cứu, thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là chủ trương lớn của Đảng đã được ghi trong văn kiện nhiều kỳ Đại hội, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, được quy định trong Hiến pháp và một số đạo luật được Quốc hội ban hành những năm gần đây; mục tiêu là nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng của các khu vực có lợi thế vượt trội, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư, công nghệ cao, phương thức quản lý mới tiên tiến, hình thành khu vực tăng trưởng cao, tạo thêm nguồn lực và động lực, góp phần thúc đẩy nhanh phát triển và tái cơ cấu kinh tế cho tỉnh, vùng và cả nước. Như vậy, kiến nghị của cử tri cũng là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đặt ra khi xây dựng dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Quan điểm này đã được quán triệt và thể hiện sâu sắc trong quá trình xây dựng dự án Luật và quá trình thảo luận, xem xét dự án Luật tại Quốc hội. Hiện nay, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đang chỉ đạo các cơ quan tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu tối đa các ý kiến xác đáng, hoàn thiện dự thảo Luật, tăng cường tuyên truyền, lấy ý kiến rộng rãi của các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ lão thành, quần chúng nhân dân, bảo đảm đáp ứng yêu cầu xây dựng một mô hình phát triển mới với cơ chế, chính sách có tính đột phá để cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và tạo động lực mới đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
6. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị:Để chuẩn bị cho việc thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đã chủ động tạo quỹ đất sạch, vận động nhân dân ủng hộ chủ trương di dời nhà ở, giải phóng mặt bằng, huy động nguồn lực đầu tư nhiều dự án hạ tầng động lực như: Cảng Hàng không quốc tế Vân Đồn đã chính thức đón chuyến bay đầu tiên vào ngày 11/7/2017 và hoạt động Cảng hàng không trong năm 2018; Đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng, cầu Bạch Đằng đã hoàn thành, chính thức thông xe vào ngày 01/9/2018; dự án Cao tốc Hạ Long - Móng Cái đang được triển khai… Xúc tiến đầu tư, thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đến nghiên cứu tìm hiểu đầu tư tại Vân Đồn… nhằm thực hiện mục tiêu khai thác tiềm năng, lợi thế của Vân Đồn, phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, vùng và quốc gia. Đến nay, việc Quốc hội tạm dừng chưa xem xét thông qua dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư các dự án hạ tầng; ảnh hưởng đến việc thu hút các nhà đầu tư, gây lãng phí và ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với chủ trương xây dựng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt tại Vân Đồn để phát triển kinh tế - xã hội. Qua các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội sau kỳ họp thứ 5 và trước kỳ họp thứ 6, nhiều cử tri phát biểu đề nghị Trung ương tiếp tục xem xét có lộ trình cụ thể thông qua dự án Luật này hoặc có cơ chế, chính sách phù hợp tạo cơ sở pháp lý đủ sức cạnh tranh toàn cầu nhằm thu hút đầu tư phát triển kinh tế Vân Đồn theo chủ trương, mục tiêu đã đề ra, tạo động lực phát triển kinh tế vùng và đất nước.
Trả lời: (Tại Công văn số 2012/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Ủy ban Pháp luật trân trọng và đánh giá cao sự chủ động, tích cực của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Quảng Ninh và các địa phương khác trong việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc thành lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Hiện nay, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đang chỉ đạo các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến xác đáng của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, ý kiến của cử tri để hoàn thiện dự thảo Luật, trình Quốc hội xem xét thông qua vào thời điểm thích hợp khi dự thảo Luật đã được hoàn thiện trên cơ sở đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, bảo đảm quyền và lợi ích của Nhân dân.
Trong thời gian tới, đề nghị tỉnh Quảng Ninh tiếp tục triển khai đầu tư, xây dựng và phát triển khu kinh tế Vân Đồn theo cơ chế, chính sách hiện hành; đồng thời cần phải tận dụng các lợi thế sẵn có từ quá trình chuẩn bị thành lập đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, báo cáo Chính phủ xem xét dành những ưu đãi tối đa trong khuôn khổ pháp luật hiện hành cho Vân Đồn, tạo điều kiện để khu kinh tế này tiếp tục phát triển nhanh, bền vững, tạo động lực phát triển kinh tế vùng và cả nước.
7. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội tiếp tục chỉ đạo việc ban hành mới hoặc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan hướng dẫn thực hiện đối với các cơ quan, đoàn thể sau sáp nhập, hợp nhất (theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XII) đi vào hoạt động thuận lợi, hiệu lực, hiệu quả.
Trả lời: (Tại Công văn số 2013/UBPL14 ngày 15/01/2019)
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 trong đó giao Đảng đoàn Quốc hội một số nhiệm vụ cụ thể. Trên cơ sở đó, Đảng đoàn Quốc hội đã ban hành Kế hoạch số 735-KH/ĐĐQH14 ngày 18/01/2018, phân công các cơ quan có liên quan tổ chức nghiên cứu, xây dựng Đề án về biên chế, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức, ban hành các văn bản quy định về tổ chức và thời hạn thực hiện đảm bảo thực hiện đúng các yêu cầu đã được nêu ra tại Nghị quyết Trung ương.
Để triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan khẩn trương thực hiện. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã chủ động phối hợp với các cơ quan để bảo đảm thực hiện đúng Kế hoạch. Hiện nay, Luật Công an nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua; các dự án luật khác về tổ chức bộ máy như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và được các cơ quan tích cực chuẩn bị để trình Quốc hội xem xét, thông qua. Tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2018), Quốc hội đã giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4, trong đó có nội dung giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 56/2017/QH14. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 04/10/2018 về việc thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Hiện nay, các cơ quan đã và đang tích cực thực hiện việc tổ chức, sắp xếp lại. Đồng thời, Chính phủ cũng đang nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp luật để thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương và Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/12/2018.
Ủy ban Pháp luật xin được ghi nhận kiến nghị của cử tri để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục quan tâm chỉ đạo và giám sát việc thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội.
8. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội tăng cường hơn nữa công tác lấy ý kiến của các cấp, ngành và Nhân dân đối với các dự án Luật liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến chủ thể tác động để có đánh giá sâu và thực tế hơn, đảm bảo tính khả thi trong quá trình ban hành, triển khai luật.
Trả lời: (Tại Công văn số 2149/UBPL14 ngày 14/3/2019)
Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp đối với các dự án luật là việc làm rất cần thiết, quan trọng để bảo đảm chất lượng của văn bản luật. Theo quy định tại các điều 6, 34, 36, 55 và 57 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, người dân, nhất là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản là một thủ tục bắt buộc trong quá trình đề xuất xây dựng và soạn thảo các dự án luật với nhiều hình thức lấy ý kiến khác nhau như: đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội, Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo để lấy ý kiến, lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo đề nghị phản biện, góp ý kiến, tổ chức hội thảo, tọa đàm hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việc xây dựng các dự án luật trình Quốc hội trong thời gian qua đều được thực hiện việc lấy ý kiến theo quy trình này. Đối với những dự án luật có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan trực tiếp tới đời sống người dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn quyết định việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi Nhân dân như: Luật Đất đai (lấy ý kiến năm 2013), Bộ luật Dân sự (lấy ý kiến năm 2015), Bộ luật Hình sự (lấy ý kiến năm 2015) hay gần đây là Luật Giáo dục (sửa đổi) (lấy ý kiến năm 2018) để Nhân dân cùng các cơ quan, tổ chức thảo luận, tham gia ý kiến, giúp các cơ quan có đầy đủ thông tin, cơ sở thực tiễn để chỉnh lý, hoàn thiện các quy định của luật, bảo đảm tính chặt chẽ; đồng thời tạo sự đồng thuận cao trong Nhân dân để luật sau khi được ban hành sớm đi vào đời sống.
Ngoài ra, trong quá trình thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được giao chủ trì thẩm tra, chỉnh lý, các Đoàn đại biểu Quốc hội, cá nhân đại biểu Quốc hội cũng đã tổ chức các cuộc khảo sát thực tế để trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến của người dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan, địa phương; tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thu thập ý kiến đóng góp để chỉnh lý, hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Tuy nhiên, qua xem xét các dự án luật, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã nhận thấy vẫn còn có một số dự án luật trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa thực sự tổ chức tốt, có hiệu quả việc lấy ý kiến Nhân dân, nhất là đối tượng chịu sự tác động của văn bản; việc tiếp thu, giải trình ý kiến tham gia chưa được đầy đủ, chu đáo, thuyết phục. Tiếp thu ý kiến nêu trên của cử tri, trong thời gian tới, Ủy ban Pháp luật tiếp tục tham mưu với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tiếp tục tăng cường chỉ đạo, đôn đốc, nâng cao hiệu quả việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự án Luật.
[1] Nghị quyết số 35/2017/QH14 ngày 12/6/2017 về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2018.
[2] Báo cáo số 409/BC-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp và Nghị quyết số 67/2013/QH13 của Quốc hội về tăng cường công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành năm 2018
[3] Báo cáo số 409/BC-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ
[4] Điều 36 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
[5] Điều 57 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật