PHÓ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI PHÙNG QUỐC HIỂN CHỈ ĐẠO ĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ AN NINH NGUỒN NƯỚC VÀ AN TOÀN HỒ, ĐẬP

17/08/2020

Sáng ngày 17/8, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức Hội nghị giải trình về “An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập”. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển dự và chỉ đạo Hội nghị.

Đến dự Hội nghị có Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học,Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách Nguyễn Đức Hải; Phó Chủ nhiệm nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Vinh Hà; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cùng đại diện Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo một số Ủy ban của Quốc hội,...

Sau khi nghe đại diện lãnh đạo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học-Công nghệ và Môi trường trình bày báo cáo sơ bộ Kết quả khảo sát an ninh nguồn nước và quản lý an toàn hồ, đập; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường giải trình về những vấn đề trên, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đã có phát biểu chỉ đạo định hướng quản lý an ninh nguồn nước và an toàn hồ, đập.


Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển phát biểu chỉ đạo định hướng quản lý an ninh nguồn nước và an toàn hồ, đập.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển hoan nghênh và đánh giá cao cuộc khảo sát và phiên giải trình của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội về chuyên đề an ninh nguồn nước và quản lý an toàn hồ đập. Sau khi nghe báo cáo sơ bộ kết quả khảo sát, nghiên cứu tại 14 tỉnh đại diện cho các vùng, miền của cả nước; giải trình của 2 Bộ trưởng: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường; ý kiến trao đổi của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, đã làm nổi bật lên những vấn đề hết sức quan trọng liên quan đến an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, đời sống và quản lý an toàn hồ đập.

Nguy cơ mất an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập của Việt Nam là hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai

Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, chúng ta đều đi đến thống nhất, an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập là vấn đề rất quan trọng, cấp bách, không chỉ ở Việt Nam mà còn mang tính quốc tế và khu vực. Qua phân tích cho thấy nổi lên các vấn đề sau: Nguy cơ mất an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập của Việt Nam là hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai. Bởi các lý do sau: Việt Nam chúng ta có 3.450 con sông, suối lớn nhỏ, với chiều dài từ 10km trở lên, tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm hiện nay khoảng 830 tỷ m3 nhưng 63% nguồn nước mặt tạo ra bởi các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ. Trong đó có 2 con sông lớn là sông Cửu Long thì 90% lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam, sông Hồng là trên 50%. Do đó có thể nói nguồn nước của Việt Nam chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào lưu vực, các con sông bắt nguồn từ nước ngoài. Chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước như tổng lượng dòng chảy, chế độ dòng chảy, nguồn phù sa, nguồn lợi thủy sản tự nhiên… chưa kể đến việc ứng xử của một số quốc gia ở thượng nguồn làm ảnh hưởng đến nguồn nước chảy vào Việt Nam. Khi cần thì thiếu nước, khi không cần thì lại thừa nước. Thực tế tình trạng xâm ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long có một phần là do nguyên nhân thiếu nước đầu nguồn.

Biến đổi khí hậu với thời tiết cực đoan do hạn hán kéo dài ở nhiều tỉnh nhất là ở Ninh Thuận, Bình Thuận; nước biển dâng, thiếu nước đầu nguồn làm gia tăng tình trạng xâm ngập mặn ở nhiều tỉnh, nhất là Tây Nam Bộ đã gây thiệt hại lớn đến sản xuất, nước ngọt sinh hoạt thiếu nghiêm trọng, ví dụ như tỉnh Bến Tre: năm 2019 còn 2 xã không bị xâm ngập mặn, thì đến năm 2020 có 100% số xã bị xâm ngập mặn, độ mặn đạt trên 10‰ trong nhiều tháng liền, cả tỉnh thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt trầm trọng, người dân phải mua nước ngọt từ 60.000 đến 200.000 đồng/m3 nước ngọt, cả tỉnh bị thiệt hại hàng chục ngàn hecta lúa, cây ăn quả; tổng thiệt hại ước tính khoảng 1.600 tỷ đồng. Nông dân điêu đứng, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất hoặc chỉ sản xuất cầm chừng.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng: Một kịch bản xấu có thể xảy ra đến năm 2050 nước biển dâng cho toàn dải ven biển Việt Nam từ 21 - 25 cm và đến năm 2100 từ 44 - 73 cm. Đó là chưa kể nước dâng do bão, thủy triều ven bờ, do sụt lún đất vì khai thác nước ngầm quá mức, có thể làm cho 10% đồng bằng sông Hồng, 15% đồng bằng sông Cửu Long, 14% Tp. Hồ Chí Minh, 20-30% của diện tích tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hậu Giang, Cà Mau cuối thế kỷ này bị ngập nước, ảnh hưởng đến khoảng 20 triệu người dân và hàng trăm ngàn doanh nghiệp. Thực tế khảo sát tại tỉnh Cà Mau cho thấy, đây là vùng đất thấp, đa phần chỉ cao hơn mặt biển 0,5m, nhưng liên tục bị lún với tốc độ từ 1-2cm/năm, cùng với nước biển dâng 1cm/năm thì chỉ sau 25 năm đa phần diện tích Cà Mau xấp xỉ mặt nước biển. Hiện tại, nhiều đoạn của Quốc lộ 1 hàng năm đều bị ngập do triều cường. Vấn đề kiểm soát mặn, giữ ngọt, ngăn nước biển dâng làm sạt lở bờ biển của suốt giải đất từ Tiền Giang đến Cà Mau, Kiên Giang đang trở lên cấp bách hơn bao giờ hết. Một câu hỏi được đặt ra: chúng ta "thuận thiên", sống chung với ngập lụt, nước biển dâng hay chúng ta ngăn chặn nó, giữ đất bằng hệ thống đê, kè như Hà Lan là một vấn đề cần được trả lời.

Đất nước ta có nhiều vùng, tiểu vùng khí hậu khác nhau, có các mùa khác nhau: phía Bắc có 4 mùa, phía Nam 2 mùa, mùa mưa gió phân bố khác nhau, không đồng đều, nơi thì lũ lụt, nhưng nơi thì hạn hán, thiếu nước. Sự phân phối tự nhiên về nguồn nước là không đồng đều cả về thời gian và không gian, mất cân bằng giữa nhu cầu dùng nước và khả năng dự trữ nước. Nhiều người lầm tưởng Việt Nam là thừa nước ngọt nhưng thực tế theo tiêu chí của quốc tế thì Việt Nam là quốc gia thiếu nước (theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, lượng nước bình quân đầu người của nước ta chỉ đạt 3.840 m3/người/năm, thấp hơn chỉ tiêu 4.000 m3/người/năm của Hội Tài nguyên nước quốc tế, nguy cơ này càng trở lên trầm trọng do biến đổi khí hậu, do tăng dân số và sự phát triển nóng của tăng trưởng kinh tế. Chúng ta đã có nhiều cố gắng để khắc phục. Hiện nay Việt Nam có khoảng gần 7.000 hồ chứa nước thủy lợi với dung tích khoảng 14,5 tỷ m3 để tưới tiêu cho 4,2 triệu hecta đất nông nghiệp và khoảng 6 tỷ m3 nước cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nhưng con số này mới chỉ đáp ứng 37% nhu cầu tưới tiêu, còn 63% vẫn phải trông chờ vào nước tự nhiên và hệ thống bơm từ các con sông, ngòi.

Bên cạnh đó là sự liên thông các hồ đập, điều hòa nước giữa các hồ đập, đưa nước từ nơi thừa đến nơi thiếu nước, khả năng dự trữ nước ở các con sông, ao hồ, kênh rạch đang ở mức độ thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Hiệu quả sử dụng nước đem lại cho tăng trưởng GDP là rất thấp

Một vấn đề rất đáng quan tâm, mặc dù thiếu nước nhưng hiệu quả sử dụng nước của chúng ta đem lại cho tăng trưởng GDP là rất thấp, mỗi m3 nước mới chỉ tạo ra 2,37 đôla GDP, bằng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 đôla GDP. Do sự phát triển của nền kinh tế với tốc độ bình quân 7% trong gần 35 năm đổi mới và tốc độ đô thị hóa rất cao từ 38-40%, dân số tăng nhanh chóng đạt 96 triệu người đã làm gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Việc đắp đập làm thủy lợi, thủy điện, lấp ao hồ, sông suối để phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch, dịch vụ… đã dẫn tới hầu hết các con sông chính ở Việt Nam đều bị ô nhiễm với các mức độ khác nhau, nhất là vùng trung và hạ lưu nơi tập trung đông dân cư, các khu công nghiệp, các làng nghề, tình trạng nhiều con sông, suối bị chết, nguồn nước dự trữ ở ao hồ, kênh rạch bị ô nhiễm nặng nề, nguồn nước ngầm bị sử dụng bừa bãi, thiếu quản lý… đã trở thành thách thức lớn với vấn đề an ninh nguồn nước cả hiện tại và tương lai. Con số sau đây chứng minh cho điều đó: chỉ 12,5% nước thải sinh hoạt của các đô thị loại IV được xử lý, thu gom đạt tiêu chuẩn, số còn lại đều xả ra nguồn nước. Khu vực nội thành Hà Nội mỗi ngày xả ra 500.000 m3, trong đó có 100.000 m3 nước thải ra từ các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viện… nguồn nước này đều được chảy qua sông Nhuệ. Qua khảo sát từ 3 con sông: sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tô Lịch đều ô nhiễm nặng.


Hội nghị giải trình về “An ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và quản lý an toàn hồ, đập”.

Một vấn đề lớn khác cũng được đặt ra đó là an toàn hồ đập. Sự phát triển của hệ thống thủy lợi, thủy điện của chúng ta có lịch sử rất lâu đời, từ thời phong kiến, Pháp thuộc và sau năm 1945 đến nay. Với 86.202 công trình thủy lợi trong đó có 6.998 đập, hồ chứa thủy lợi với dung tích khoảng 14 tỷ m3 nước. Bên cạnh đó là 500 hồ chứa thủy điện đã đi vào vận hành và khoảng 300 dự án thủy điện đang triển khai xây dựng và chuẩn bị đi vào vận hành. Tổng dung tích các hồ chứa thủy điện là 60 tỷ m3 nước, trong đó có các hồ lớn như thủy điện Hòa Bình 9 tỷ m3 nước, Thác Bà m3 nước. Như vậy nếu tính cả hồ, đập thủy điện và thủy lợi đã có và sẽ hình thành trong thời gian tới thì cả nước có khoảng 7.800 hồ, đập lớn nhỏ với dung tích 74 tỷ m3 nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu cực đoan như hiện nay, lũ lụt xảy ra thường xuyên với cường độ cao, tình trạng không ổn định của địa chất, hiện tượng đứt gãy dẫn tới động đất ở một số vùng cùng với 1.730 hồ, đập thủy lợi bị xuống cấp, trong đó có 1.200 cần sửa chữa và 200 hồ hư hỏng nặng cần sửa chữa khẩn cấp thì vấn đề an toàn hồ đập trở nên vô cùng cấp bách, cần được đặc biệt quan tâm chú trọng, ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước, an toàn cho sản xuất và đời sống.

Vấn đề bảo vệ và phát triển rừng ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh nguồn nước. Hiện nay toàn quốc chúng ta có khoảng 14,55 triệu hecta rừng, tỷ lệ che phủ đạt 41,85% (trong đó rừng đặc dụng 2,17 triệu hecta, rừng phòng hộ 4,16 triệu hecta, rừng sản xuất là 7,79 triệu hecta. Như vậy rừng đầu nguồn có khả năng sinh thủy là 6,78 triệu hecta, trong đó rừng giàu khoảng 15%, rừng trung bình khoảng 55%, còn lại là 30% rừng nghèo và nghèo kiệt. Qua khảo sát cho thấy, rừng sản xuất trồng những cây mang mục đích kinh tế, có hiệu quả cao thì khả năng sinh thủy rất kém, tạo ra sự thoái hóa đất, làm giảm mạnh thực bì và độ phì của đất. Đối với mức đầu tư dịch vụ bảo vệ rừng bình quân mới đạt 300.000 đồng/ha/năm, còn rất thấp so với mức thu nhập, chi phí đề người dân, các tổ chức có thể sống và yên tâm bảo vệ rừng (qua khảo sát cũng có nơi đạt 900 nghìn đồng/ha, song chỉ là cá biệt). Đây cũng là nguyên nhân rừng đầu nguồn bị thu hẹp, bị cháy, bị tàn phá, lấn chiếm, làm khả năng sinh thủy tại chỗ bị giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước.

Công tác quy hoạch và quản lý của nhà nước trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến, đổi mới toàn diện và tổ chức thực hiện khá tích cực. Song vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục và xử lý. Cụ thể: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy lợi, Luật Điện lực, Luật Đê điều, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp… đến các nghị định, thông tư liên quan đến công tác an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, đời sống và an toàn hồ đập trong thời gian qua được xây dựng khá đầy đủ, cùng với các Hiệp định, Công ước quốc tế đã tạo ra cơ sở pháp lý cho công tác quản lý đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập. Song cũng cần nhận thấy rằng vẫn còn khoảng trống, bất cập, chưa bao quát hết các vấn đề cần phải quản lý để đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập. Chế tài xử lý các hành vi vi phạm chưa nghiêm. Công tác phân công, phân nhiệm là rõ vai trò, trách nhiệm giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương còn có mặt hạn chế, còn gây chồng chéo và lúng túng trong quá trình điều hành, vận hành và quản lý trong thực tế.

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập, thiếu tầm nhìn; tính liên kết, liên thông mang tính vùng, khu vực còn nhiều hạn chế. Tình trạng "bấc đến đâu, dầu đến đấy", "nước đến chân mới nhảy" vẫn diễn ra ở mức độ khác nhau. Công tác tổ chức thực hiện đảm bảo đúng quy hoạch chưa thật tốt, vẫn còn tình trạng phá vỡ quy hoạch, không bảo vệ được quy hoạch, bị lấn chiếm làm các mục đích khác ảnh hưởng đến bảo vệ lưu vực sông, nguồn nước, dòng chảy, công trình thủy lợi, thủy điện, đê điều vẫn diễn ra. Công tác đầu tư, bố trí nguồn lực còn mất cân đối; bố trí vốn không đủ, thiếu đồng bộ; quá trình chuẩn bị đầu tư, thiết kế, thẩm định của một số dự án chưa tốt; sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương chưa chặt chẽ dẫn tới nhiều công trình, dự án dở dang, chậm đưa vào khai thác ảnh hưởng đến việc cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và đời sống. Công tác vận hành, điều phối, quản lý hệ thống hồ, đập, kênh dẫn cung cấp và tiêu thoát nước cũng còn nhiều nơi chưa tốt: cung cấp nước cho sản xuất, đời sống không kịp thời, xả lũ không báo trước ảnh hưởng đến đời sống nhân dân ở hạ lưu; đặt ra các yêu cầu khác nhau về cung cấp nguồn nước gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quản lý hồ, đập. Vấn đề tài chính để đảm bảo nguồn lực thực hiện an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực thủy lợi, thủy điện, bảo vệ và phát triển rừng, đảm bảo tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước cho công nghiệp, nước sạch cho sinh hoạt là vô cùng lớn. Người dân được hưởng các chính sách của nhà nước trong nhiều năm qua là rất lớn, như: không thu tiền dịch vụ thủy lợi, giá nước cho sản xuất và sinh hoạt thấp hơn giá thành… nhờ các chính sách đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nhà nước mà hiện nay chúng ta có trên 900 hệ thống thủy lợi có quy mô tưới từ 200 hecta trở lên và 122 hệ thống thủy lợi vừa và lớn có quy mô phục vụ trên 2.000 hecta trở lên.

Với tổng số 86.202 công trình thủy lợi, tưới tiêu cho trên 4,2 triệu hecta đất canh tác (trên 11,54 triệu hecta đất sản xuất nông nghiệp trong đó trên 6,3 triệu hecta cần tưới) đáp ứng khoảng 54,1% đất canh tác nông nghiệp, nơi cao nhất là đồng bằng sông Hồng khoảng 98%, nơi thấp nhất là Tây Nguyên khoảng 28%. Đã cơ bản đủ nước sạch cho các đô thị và 88,5% số dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh… Đó là một thành tựu lớn, song lại là một thách thức không nhỏ: nhu cầu nguồn lực trong hiện tại và tương lai lại cần vô cùng lớn để: ngăn mặn, giữ ngọt, ngăn nước biển dâng, chống hạn hán, xây dựng hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cho 45,9% diện tích canh tác còn lại chưa được tưới tiêu; duy tu, bảo dưỡng, duy trì hoạt động cho hơn 86.000 công trình thủy lợi, hàng ngàn công trình cấp nước sạch sinh hoạt và cần tiền ngay để khắc phục, sửa chữa hơn 1.200 công trình hồ, đập bị xuống cấp và mất an toàn. Nguồn lực này lại chủ yếu là ngân sách nhà nước, còn nguồn thu từ người dân, doanh nghiệp là không đáng kể. Ngay cả việc cấp nước sạch ở một số vùng qua khảo sát cho thấy giá thành 1 m3 nước sạch khoảng 11.000 đồng nhưng người dân mới chỉ phải bỏ ra là 6.000 đồng, còn 5.000 đồng nhà nước phải bù bằng khoản đi vay với lãi suất khá cao. Đây là một vấn đề lớn đặt ra tạo ra gánh nặng cho ngân sách, trong điều kiện nợ công của chúng ta còn ở mức cao, các công trình đầu tư hoàn toàn phải đi vay. Việc cho không, bán rẻ cũng là nguyên nhân dẫn tới sử dụng nước ngọt lãng phí và nhiều sản phẩm nông nghiệp không phản ánh đúng chi phí bỏ ra. Đây là cơ chế phi thị trường và nặng về bao cấp, lâu dài sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển, không kêu gọi được các nhà đầu tư ở các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực thủy lợi, một lĩnh vực đang đòi hỏi huy động được nguồn lực của toàn xã hội, trong một quá trình dài, từ thế hệ này sang thế hệ khác mới có thể giải quyết được các vấn đề cấp bách, các vấn đề lâu dài bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, chống xâm ngập mặn, sụt lún và nước biển dâng từ nay cho đến cuối thế kỷ 21.

Phải chủ động được nguồn nước ngọt đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước

Tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển khẳng định: Trước những phân tích trên, chúng ta cần phải đặt ra mục tiêu, phương châm chỉ đạo và các giải pháp gì để có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, xử lý được các vấn đề lâu dài do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm ngập mặn và thiếu nước ngọt cho cả hiện tại và tương lai. Tại Hội nghị giải trình này, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị phải đặt ra mục tiêu đến năm 2045 (tức là 5 kế hoạch 5 năm) khi chúng ta trở thành một nước công nghiệp có trình độ phát triển trung bình thì: phải chủ động được nguồn nước ngọt đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước; đảm bảo chủ động tưới tiêu khoa học, hiện đại cho 100% diện tích canh tác; đủ nước cho công nghiệp và dịch vụ; đáp ứng nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn cho 115 - 120 triệu dân trong tươi lai, cả ở thành thị và nông thôn, nhất là ở nông thôn cũng phải được sử dụng nước tốt như thành thị. Hệ thống thủy lợi phải liên thông theo khu vực, vùng, tỉnh, huyện và điều hòa được từ nơi thừa nước đến nơi thiếu thiếu nước một cách khoa học; chủ động tiêu úng, chống lũ lụt hiệu quả; phải đảm bảo ngăn được xâm ngập mặn, sạt lở bờ biển và nước biển dâng lấn vào đất liền, giữ cho được hình thể của đất nước, không để biển lấn, mà phải lấn biển.

Với mục tiêu lớn đặt ra như vậy, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng cần phải có quan điểm và phương châm chỉ đạo. Theo đó, thứ nhất phải đổi mới tư duy trong hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát đối với an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, chống biến đổi khí hậu, coi đây là mục tiêu, nhiệm vụ tổng hợp, cấp bách, lâu dài, liên tục, thống nhất và xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, từ chính quyền đến doanh nghiệp và người dân trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tại sao nói an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập là nhiệm vụ tổng hợp vì nó phải kết hợp nhiều nhiệm vụ từ bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, giao thông, thủy lợi, thủy điện, kinh tế, tài chính; vì sao phải lâu dài vì không thể có nguồn lực để làm ngay mà cần phải phân kỳ đầu tư. Quan điểm, nhận thức này cần được thể hiện trong Nghị quyết của cấp ủy Đảng các cấp để tạo điểm tựa về chính trị, đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo cơ sở pháp lý cho vấn đề an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập.

Hai là, phải coi nước là hàng hóa đặc biệt, phải thực hiện nguyên tắc thị trường, từng bước tính đúng, tính đủ giá dịch vụ nước sản xuất và sinh hoạt. Thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, đối tác công - tư; phân kỳ đầu tư, có trật tự ưu tiên, cấp bách làm trước, lâu dài làm từng bước, khó làm trước, phải có đột phá để xử lý vấn đề khó.

Ba là, để chủ động nguồn nước không bị phụ thuộc bên ngoài, cần thực hiện phương châm 4 tại chỗ: sinh thủy tại chỗ; giữ nước tại chỗ; bảo vệ tại chỗ; điều hành, vận hành, phân phối tại chỗ. Sinh thủy tại chỗ là nhờ chúng ta khoanh nuôi, bảo vệ, trồng rừng bằng tập đoàn cây bản địa; giữ cho được và mở rộng, nâng cao chất lượng rừng đầu nguồn, là nơi sinh thủy; hạn chế trồng rừng kinh tế đối với các loại cây kém sinh thủy, hủy hoại và bào mòn đất đai. Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ lọc nước biển, nước lợ làm nước ngọt tại chỗ. Giữ nước tại chỗ là phải bảo vệ, giữ được các ao, hồ nhân tạo và tự nhiên; các con sông, kênh, rạch, mương có thể trữ được nước ngọt tại chỗ. Phải tăng cường công tác bảo vệ nguồn nước, ao, hồ, sông, suối chống ô nhiễm tại chỗ; từng địa phương, từng doanh nghiệp, từng người dân phải tự mình có ý thức bảo vệ và có chế tài xử lý đối với các hành động gây ô nhiễm môi trường. Điều hành, vận hành phân phối tại chỗ đảm bảo sử dụng nước an toàn, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, tránh chồng chéo, tránh ỉ lại, phải chủ động xử lý khi có tình huống theo quy chế vận hành.

Bốn là, phải áp dụng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, công nghệ đáp ứng yêu cầu thực tế trên nền tảng của kỹ thuật số, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ bảo vệ môi trường, công nghệ thi công theo phương thức mới… để tổ chức thiết kế, thi công, quản lý và vận hành hệ thống công trình thủy lợi, quản lý nguồn nước, chất lượng nước.

Năm là, tăng cường quan hệ quốc tế với các tổ chức quốc tế, các nước trong khu vực, ký kết và tổ chức thực hiện các hiệp định để bảo vệ môi trường, bảo vệ các lưu vực sông, phối hợp, điều hòa nguồn nước hợp lý, hạn chế ở mức cao nhất sự tác động của con người vào tự nhiên, làm phá hoại môi trường tự nhiên, nhất là đối với lưu vực sông Mê kông, sông Hồng… Cần phải khẳng định rằng, chỉ có tăng cường hợp tác quốc tế chúng ta mới có thể bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập.

Để thực hiện được các mục tiêu, phương châm chỉ đạo trên, chúng ta cần có các giải pháp trên cơ sở các Đường lối, Nghị quyết của Đảng, chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, toàn diện đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ cho quản lý tài nguyên nước, thủy lợi, thủy điện, đê điều, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng nước, nhất là nước phục vụ cho sinh hoạt, cho sản xuất nông nghiệp (cần lưu ý rằng rất nhiều nơi đã sử dụng nước không đảm bảo chất lượng, ô nhiễm nặng để dùng cho tưới tiêu đối với cây trồng); có quy định về hành lang thoát, xả lũ; vấn đề xây dựng các công trình, nhà cửa và cơ sở sản xuất ven sông, ven biển, nhất là những vùng dễ xảy ra lũ lụt và sạt lở đất. Bên cạnh đó phải tập trung rà soát, bổ sung xây dựng và phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch hệ thống thủy lợi quốc gia, hệ thống đê điều quốc gia, nhất là ở lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long và khu vực miền Trung.

Trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược đảm bảo an ninh nguồn nước đến năm 2045 và tầm nhìn đến cuối thế kỷ 21. Bố trí nguồn lực, phân kỳ đầu tư, huy động sức mạnh của quốc gia và sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế để tổ chức thực hiện tốt các chiến lược này. Nâng cao trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, tránh chồng chéo; rà soát lại việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương về quản lý nguồn nước và an toàn hồ đập (lưu ý một số địa phương giao cho cấp xã quản lý một số hồ, đập lớn là không phù hợp với khả năng quản lý của cấp xã). Hoàn chỉnh việc xây dựng hệ thống giám sát tài nguyên nước, giám sát hoạt động khai thác, quy chế vận hành các hồ đập thủy lợi, thủy điện đảm bảo phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và tiêu thoát lũ. Nghiên cứu, đề xuất các phương án thực hiện liên thông giữa các hồ, các công trình thủy lợi ở từng địa phương, tiến tới khu vực, vùng miền và toàn quốc để có thể xây dựng mạng lưới thủy lợi quốc gia trong tương lai, để chủ động phân phối nước, đưa nước từ nơi thừa sang nơi thiếu, chủ động tiêu thoát nước, xả lũ, ngăn mặn, giữ ngọt. Nạo vét, khai thông, xây dựng các ao, hồ, đập, sông, suối, các kênh, rạch để có thể trữ nước ngọt, đồng thời có các cơ chế, chính sách, nguồn lực đầu tư nhằm chống ô nhiễm, bảo vệ nguồn nước. Nghiêm cấm việc san lấp ao hồ, sông suối trái quy hoạch, có chế tài xử lý, nghiêm cấm các hành vi gây ô nhiễm, cản trở dòng chảy, làm hư hại, lấn chiếm khu vực bảo vệ hồ đập, đê điều, phá hoại môi trường tự nhiên. Đi đôi với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức cho người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị đối với vấn đề đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập.

Mặt khác, cần thực hiện một kế hoạch đầu tư dài hạn của ngân sách nhà nước đối với công tác bảo vệ nguồn nước, hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch. Đồng thời thực hiện cơ chế thị trường đối với giá dịch vụ nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước tính đủ theo quy định của Luật Thủy lợi về giá nước phục vụ sản xuất và đời sống, có lộ trình hỗ trợ hợp lý cho nông dân, cho hộ nghèo, hộ yếu thế theo xu thế giảm dần sự bao cấp của nhà nước. Khuyến khích hạch toán kinh tế, sử dụng nước có hiệu quả. Vấn đề sử dụng nước có hiệu quả phải đặt ra một cách quyết liệt, chúng ta cần nhớ rằng, hiệu quả sử dụng nước của chúng ta chỉ bằng 1/10 so với thế giới. Trước tình hình hiện nay, sử dụng nước có hiệu quả sẽ giảm áp lực tình trạng thiếu nước hiện nay. Giải pháp sử dụng hiệu quả cần được tổ chức một cách tổng hợp bằng các biện pháp quản lý, biện pháp kinh tế, biện pháp kỹ thuật, khoa học công nghệ, biện pháp tổ chức lại sản xuất. Cần xây dựng một kịch bản ứng phó xâm ngập mặn, nước biển dâng với phương châm là chặn nước biển dâng, gắn với lấn biển không lùi, giữ cho được hình thể đất nước, các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền, đặc quyền kinh tế, quyền tài phán của Việt Nam (vừa qua nếu chúng ta không tích cực thì nhiều diện tích đất của tỉnh Cà Mau có thể bị biển lấn mất, không còn Mũi Cà Mau). Thực hiện phương châm sống chung với sự biến đổi của môi trường. Do đó, vấn đề quai đê, lấn biển, chống sạt lở bờ biền, ngăn nước biển dâng cần được tính toán và tiến hành ngay từ bây giờ; cần thực hiện liên tục hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Bên cạnh đó cần khẩn trương bố trí nguồn lực và kinh phí để sửa chữa ngay 200 hồ đập ở 33 tỉnh đang bị hư hỏng nặng; có kế hoạch 2 năm tới sửa chữa 1.000 hồ cần sửa chữa, bước đầu bố trí đưa vào kế hoạch 5 năm 2021-2025 những mục tiêu cấp bách, bố trí nguồn lực từ kế hoạch đầu tư công trung hạn nhằm thực hiện ngay các mục tiêu, cơ chế để đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập với một số nhiệm vụ cấp bách, cần thiết. Nghiên cứu nâng mức tiền dịch vụ bảo vệ rừng lên gấp 2 lần so với giai đoạn 2015-2020, đảm bảo mức thấp nhất dịch vụ bảo vệ rừng ở mức 600.000 đồng/ha/năm đến giữa giai đoạn 2021-2025, cuối năm 2025 và giai đoạn sau phải đạt 1 triệu đồng/ha/năm, được phân bổ theo loại rừng: rừng phòng hộ, rừng nghèo kiệt, rừng nghèo, rừng trung bình và rừng giàu, nguồn lực lấy từ ngân sách và từ tăng tiền thu dịch vụ của các công ty thủy điện (với 6,7 triệu hecta x 1 triệu = khoảng 6.700 tỷ đồng, trong khả năng của ngân sách và các công ty thủy điện chi trả).

Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện tốt các hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông năm 1995 giữa Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Hiệp định về quy chế sử dụng nước dọc biên giới giữa Việt Nam, Campuchia, Công ước về luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy năm 1997, Hợp tác Mê Kông - Lan Thương…

Trên tinh thần đó, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cần kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ sớm xây dựng đề án phát triển và đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 trình Quốc hội xem xét sớm nhất. Trên cơ sở đó có thể xây dựng một Chương trình mục tiêu quốc gia về đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập. Đồng thời, bố trí nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 để bước đầu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn đầu của chiến lược dài hạn./.

Bích Lan-Bùi Hùng

Các bài viết khác