“CỨU” VĂN HÓA DÂN GIAN TRƯỚC “CƠN LỐC HIỆN ĐẠI HÓA”

26/12/2022

Nhìn từ kết quả đánh giá của "Hội thảo Văn hoá 2022" do Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục tổ chức vừa qua, các loại hình nghệ thuật dân gian luôn trong tình trạng nguy cơ mai một rất cao trước "cơn lốc" của hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Các chuyên gia cho rằng, để bảo tồn các giá trị văn hóa dân gian trong thời đại công nghệ 4.0 cần lắm sự quan tâm, đầu tư hơn nữa cho văn hóa!

TẬP TRUNG CÁC NHÓM CHÍNH SÁCH LỚN, BAO TRÙM CHO PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

Văn hóa dân gian là văn hóa gốc của dân tộc

Trăn trở trước nguy cơ mai một

Văn hóa dân gian là văn hóa gốc của dân tộc, sinh ra cùng với đời sống lao động của quần chúng nhân dân. Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã để lại một kho tàng đồ sộ các giá trị văn hóa nghệ thuật phong phú như ca dao, hò vè, các tín ngưỡng dân gian, các lễ hội, các loại hình diễn xướng như múa rối, ca trù, trống quân, hát xẩm… và rất nhiều nghề thủ công truyền thống. 

Đặc thù của văn hóa dân gian là truyền miệng, truyền nghề trực tiếp nên việc bảo tồn và phát huy các giá trị này cũng có những khác biệt đòi hỏi phải có một tầm nhìn chiến lược, lâu dài của Nhà nước, của ngành Văn hóa. GS.TS Từ Thị Loan, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam nhấn mạnh, chúng ta sẽ khó mà thay đổi được gì nếu không có sự cải cách mạnh mẽ về thể chế, cơ chế, chính sách.

GS.TS Từ Thị Loan, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

Tôi nhớ một chuyên gia của UNESCO, Tom Fleming, khi sang hỗ trợ Việt Nam xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đã phát biểu: “Việt Nam không thiếu các tài năng, mà chỉ thiếu các điều kiện để tài năng phát triển”. Bản quyền tác giả cũng là vấn đề nhức nhối cần phải giải quyết sớm. Khi thấy các phố tranh, ngõ tranh của Việt Nam treo đầy tranh “phố Phái”, một nhà sưu tập nước ngoài đã phải thốt lên hài hước: “Khi sống Phái vẽ nhiều bao nhiêu, thì khi chết Phái vẽ nhiều bấy nhiêu!”. Đó là điều chúng ta rất cần trăn trở và suy ngẫm! - GS.TS Từ Thị Loan, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam trăn trở.

7.000 lễ hội chưa khai thác hết tiềm năng

Bên cạnh các loại hình văn hóa, nghệ thuật đương đại, theo GS.TS Từ Thị Loan, văn hóa dân gian cũng hoàn toàn có thể được khai thác như một nguồn lực cho phát triển. Việt Nam là đất nước của hàng nghìn lễ hội, trong đó có hơn 7000 lễ hội dân gian - là nguồn tài nguyên nhân văn to lớn để phục vụ phát triển du lịch văn hóa.

Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam ở An Giang

Đơn cử, lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam ở An Giang mỗi năm thu được hơn 90 tỷ đồng. Số tiền này được Ban Quản lý sử dụng rất hiệu quả để nâng cấp đường sá, giao thông, cơ sở hạ tầng, đóng góp vào ngân sách địa phương, hỗ trợ an sinh xã hội. Lễ hội đến Trần ở Nam Định mỗi năm cũng đóng góp hơn 40 tỷ đồng cho ngân sách thành phố. Ngoài ra, còn rất nhiều lễ hội lớn khác trên cả nước như lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Hương, lễ hội Nguyễn Trung Trực..., ngoài việc góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, cố kết cộng đồng, còn có giá trị kinh tế, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân.

Những làng nghề phát triển tự phát, manh mún…

Chúng ta cũng có hệ thống hàng nghìn làng nghề thủ công truyền thống trải dài khắp cả nước có thể khai thác sự tài khéo của các nghệ nhân dân gian, các sáng tạo dân gian để phục vụ cho phát triển.

Làng nghề đan đó, rọ Thủ Sỹ, Hưng Yên

Tuy nhiên, hiện nay, các làng nghề đang phát triển rất tự phát, manh mún, mạnh ai nấy làm, dẫn chân lên nhau, tự làm khó nhau cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu, dẫn đến phát triển không bền vững, khai thác cạn kiệt vùng nguyên liệu, đặc biệt là gây ô nhiễm môi trường... Do vậy, chúng ta rất cần xây dựng Luật Làng nghề để quản lý và điều tiết thị trường.

Nghệ thuật dân gian loay hoay tìm hướng đi

Đất nước ta cũng sở hữu rất nhiều thể loại dân ca, dân vũ, dân nhạc, các hình thức sân khấu dân gian, các phong tục, tập quán có thể khai thác phát triển du lịch, nhất là du lịch cộng đồng hoặc quảng bá bản sắc văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Đơn cử như múa rối nước đã trở thành một thứ “đặc sản” của văn hóa Việt luôn hấp dẫn du khách năm châu. Trên thế giới có nhiều loại rối khác nhau: rối gậy, rối que, rối dây, rối tay, rối ngón, rối bóng..., nhưng đều là rối cạn, chỉ duy nhất Việt Nam có rối nước.

Múa dân gian trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tạo mới trong đời sống nghệ thuật

Âm nhạc dân gian, mỹ thuật dân gian, múa dân gian... đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tạo mới trong đời sống nghệ thuật, với những thể loại âm nhạc dân gian đương đại, múa dân gian đương đại, các trình diễn kết hợp giữa truyền thống và hiện đại như xiếc tre “Làng tôi”, À ố show, Teh Dah... rất hấp dẫn công chúng trong và ngoài nước. Các nhạc cụ dân tộc của Việt Nam rất độc đáo làm từ các vật liệu gần gũi với thiên nhiên như tre, nứa, gỗ, đá, sừng trâu (đàn bầu, đàn t’rưng, klong pút, sáo, khèn, đàn đá, trống, mõ, phách, tù và...) có âm sắc riêng rất hấp dẫn công chúng nước ngoài.

Các tri thức bản địa, tri thức dân gian vẫn phát huy tác dụng trong lao động sản xuất, lâm, ngư nghiệp, thích nghi với các môi trường sinh thái khác nhau.

Các bài thuốc dân gian, y học dân tộc, dược học cổ truyền vẫn giữ nguyên giá trị, bổ trợ cho các thành tựu của Tây y và y học hiện đại. 

Nhiều món ăn dân dã đã góp phần làm nổi danh nền ẩm thực Việt Nam.  Năm 2019, trang CNN đã đưa ẩm thực Việt Nam vào top 10 nền ẩm thực tốt nhất thế giới, trong đó có nhiều món ăn bình dân, đơn sơ, các loại bánh, chè, “quà quê”, nhưng rất ngon miệng đã trở thành những món ăn đường phố thu hút du khách thế giới đến Việt Nam.

Ẩm thực dân gian Việt Nam

Tuy nhiên, hiện nay, các làn điệu dân ca, dân vũ, diễn xướng dân gian, tri thức bản địa, y học dân tộc, làng nghề thủ công truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một rất cao trong cơn lốc của hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Các nghệ nhân “báu vật nhân văn sống” đang lần lượt ra đi, dẫn đến nguy cơ thất truyền nếu không có đội ngũ kế cận...

Thể chế là vấn đề then chốt

GS.TS Từ Thị Loan, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam chỉ rõ: Thể chế là khâu mấu chốt của mọi mấu chốt”. Chúng ta đã thấy, chỉ cần thay đổi thể chế, cơ chế quản lý, từ một nước nghèo đói, thiếu ăn Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Từ cơ chế kinh tế tập trung, kế hoạch hóa, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, hiệu suất lao động thay đổi hẳn!

Vẫn những con người ấy, công cụ lao động ấy, nguồn lực ấy, nhưng khi sức lao động được giải phóng, năng lực sáng tạo được khơi thông, thì mọi điều đều có thể xảy ra. Cứ nhìn vào chất lượng và hiệu ứng xã hội của các bộ phim đặt hàng theo kiểu “cúng cụ” với các phim hướng tới thị trường, đáp ứng nhu cầu của xã hội, chúng ta sẽ thấy kết quả khác hẳn nhau.

Ngoài ra, con người cũng là yếu tố quyết định. Chúng ta cần có các cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, bồi dưỡng và khuyến khích các tài năng phát lộ và tỏa sáng. Do vậy, chúng ta rất cần có các cơ chế, chính sách kịp thời để bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa dân gian quý giá này.

Cần lắm một “Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa”!

Trong giai đoạn trước, đầu tư cho văn hóa chủ yếu được thực hiện thông qua chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư từ Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa các năm 2014-2015 và Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020 có tính chất “vốn mồi” đã đem lại hiệu quả để thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là đồng bào tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, kinh phí của Chương trình ngày càng hạn hẹp nên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hóa của các địa phương. Sau khi chương trình này kết thúc vào năm 2015, nguồn lực đầu tư cho văn hóa chủ yếu qua kế hoạch đầu tư công trung hạn và nguồn kinh phí sự nghiệp hằng năm, nhưng luôn ở mức thấp.

Trong khi đó, năm 2022, Chương trình bảo tồn, phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2025 và các dự án thành phần về văn hóa thuộc 2 chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, đã được Chính phủ phê duyệt với số kinh phí hạn chế, nhưng đến nay chưa được giao dự toán, cấp vốn thực hiện, hoặc chưa được giải ngân. Những khó khăn về nguồn lực đầu tư, đã ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp phát triển văn hóa, dẫn đến nhiều di sản, di tích văn hóa - lịch sử bị mai một, xuống cấp, hư hỏng nghiêm trọng.

Theo GS.TS Từ Thị Loan, cần tăng mức đầu tư cho văn hóa tối thiểu 2% tổng chi ngân sách hành năm như Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đề ra. Hiện nay chi ngân sách cho toàn ngành văn hóa mới chỉ đạt 1,71% trong khi mục tiêu đặt ra là đảm bảo mức chi đầu tư cho văn hóa ít nhất 1,8% tổng chi ngân sách (bao gồm cả trung ương và địa phương).

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Phan Viết Lượng

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Phan Viết Lượng cho biết, đầu tư cho văn hóa chủ yếu được thực hiện thông qua chương trình mục đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các chiến lược, chương trình đã ban hành, trong đó cần ưu tiên các chính sách, giải pháp xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật; xây dựng môi trường, con người văn hóa và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, cần sớm triển khai xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa theo Nghị quyết số 572/NQ-UBTVQH15 ngày 18/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa

Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cũng nêu rõ, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Đảng ta kiên định và không ngừng phát triển các chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam vừa nhất quán, kiên định, vừa từng bước bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, sâu sắc hơn, góp phần quan trọng trong việc Đảng lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước yêu cầu của cuộc sống, của sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, văn hóa cần phải chuyển động mạnh mẽ để hoàn thành sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần quan trọng đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững. Do đó, công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc vừa là khát vọng nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ chính trị cấp thiết đặt ra hiện nay.

Để phát huy được giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, thời gian tới, Ban Tuyên giáo Trung ương đề nghị Quốc hội sớm ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa; đồng thời, cùng với Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm, đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”./.

Thu Phương