ĐẢM BẢO QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC THỐNG NHẤT, TOÀN DIỆN VÀ PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN

25/02/2023

Tham gia đóng góp ý kiến về dự án Tài nguyên nước (sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 tới đây, nhiều đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng cần sửa đổi, bổ sung quy định về thuế, phí về tài nguyên nước, đảm bảo quản lý tài nguyên nước thống nhất, toàn diện và phù hợp với thực tiễn.

LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC (SỬA ĐỔI): CẦN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỒNG BỘ ĐỂ NÂNG CAO TÍNH CHỦ ĐỘNG VỀ NGUỒN NƯỚC

Đảm bảo quản lý tài nguyên nước thống nhất, toàn diện và phù hợp với thực tiễn

Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013 đến nay. Qua gần 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, trong điều kiện biến đổi khí hậu, hơn 60% lượng nước được hình thành ở bên ngoài lãnh thổ, chất lượng tài nguyên nước suy giảm đặt ra nhiều thách thức lớn. Nhiều chủ trương mới về quản lý tài nguyên và yêu cầu thực tiễn về bảo vệ phục hồi để bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia. Thực tế đó đòi hỏi pháp luật về tài nguyên nước và một số Luật liên quan đến quản lý, bảo vệ tài nguyên nước cần thiết phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện.

Hội nghị về sửa đổi Luật Tài nguyên nước

Luật Tài nguyên nước sửa đổi sẽ chú trọng vào việc hoàn thiện khung pháp lý, khắc phục những hạn chế và vướng mắc đang tồn tại của Luật Tài nguyên nước 2012 và tích hợp một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý và bảo vệ nguồn nước. Những điểm mới trong việc xây dựng Luật Tài nguyên nước sửa đổi bao gồm đảm bảo an ninh nguồn nước. coi Tài nguyên nước là tài sản cộng và quản trị trên nền tảng công nghệ số, coi sản phẩm nước là hàng hóa và cần phát triển kinh tế nước, góp phần vào việc quản lý Tài nguyên nước một cách thống nhất, toàn diện và phù hợp với thực tiễn.

Dự thảo Luật đã bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước. 

Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy...); đồng thời giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các luật.

Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà

Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) cũng bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; đẩy mạnh xã hội hoá theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước; quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước. 

Đồng thời, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về đối tượng và nội dung về thu trữ nước mưa và việc sử dụng nước mưa tại các khu vực thường xuyên hạn hán thiếu nước và vùng thường xuyên ngập lụt; quy định cơ chế, chính sách trong việc thu trữ nước mưa; Bổ sung, cập nhật quy định theo hướng kiểm soát toàn diện các hoạt động có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn nước, đến ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ chứa, ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái ven sông,…

Bổ sung quy định về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, ngưỡng khai thác nước dưới đất; quy định nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ đảm bảo giám sát khai thác, sử dụng nước của công trình... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông. 

Bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,…tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.

Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thuế, phí về tài nguyên nước

Cho ý kiến về dự án Luật này, nhiều chuyên gia cho rằng, dự thảo Luật cần sửa đổi, bổ sung quy định về thuế, phí về tài nguyên nước để phản ánh đúng, đủ giá trị của tài nguyên nước làm nguyên tắc định hướng khi sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thuế, phí. Cụ thể, quy định giá tính thuế tài nguyên nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế, giá và phải căn cứ các yếu tố: mục đích sử dụng, mức độ khan hiểm, mức độ căng thẳng của tài nguyên nước, điều kiện khai thác và đặc điểm kinh tế, xã hội trong khu vực. Đồng thời, quy định dẫn chiếu “Việc ban hành, tổ chức thực hiện thuế, phí về tài nguyên nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế, phí” để bảo đảm tính đồng bộ hệ thống pháp luật.

một số chuyên gia kiến nghị bổ sung các công cụ kinh tế mới như chi trả các dịch vụ liên quan đến tài nguyên nước để thể chế hoá chủ trương phát triển kinh tế nước, xem nước là hàng hóa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường, xã hội hoá trong lĩnh vực tài nguyên nước có sự tham gia điều tiết, quản lý của nhà nước.

Tham gia đóng góp ý kiến, đại diện các doanh nghiệp cho rằng, cơ quan soạn thảo cần điều chỉnh quy định theo hướng: Mọi tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên nước hợp pháp đều được ghi nhận quyền, bất kể có nộp tiền hay không nộp tiền cấp quyền, bất kể thuộc diện được cấp phép hay diện được miễn đăng ký, cấp phép. Quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước của các nhân, tổ chức là quyền tài sản theo pháp luật dân sự, theo đó bao gồm đầy đủ các quyền như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, chuyển nhượng, sử dụng làm tài sản bảo đảm và các quyền tài sản khác.

Đại biểu Nguyễn Phương Tuấn, Đoàn ĐBQH tỉnh Kiên Giang

Chia sẻ quan điểm về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Phương Tuấn, Đoàn ĐBQH tỉnh Kiên Giang cho rằng, về công tác quy hoạch, điều tra cơ bản, cần xây dựng tầm nhìn, kịch bản phát triển, giải quyết các tác động cực đoan về hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt, ủng, ô nhiễm, suy thoái nguồn nước, bảo vệ môi trường nước; giải pháp dài hạn cho vùng Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và các vùng có nguy cơ cao về an ninh nguồn nước.

Đối với vấn đề an toàn đập, hồ chứa nước, đại biểu đề nghị cần rà soát, đánh giá lại công năng, nhiệm vụ, quy trình vận hành của đập, hồ chứa nước so với thiết kế ban đầu để có giải pháp nâng cấp năng lực trữ nước, ứng phó với mưa lũ cực đoan, vận hành theo thời gian thực và hướng tới phục vụ đa mục tiêu. Nâng cao hiệu quả sử dụng dung tích hồ chứa, kể cả sử dụng phần dung tích chống lũ công trình, dung tích chết trong việc tham gia điều tiết cắt, giảm lũ và cấp nước cho hạ du trong điều kiện xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Hoàn thiện hệ thống quản lý, khai thác đập, hồ chứa về chất lượng nguồn nhân lực và trang thiết bị, ứng dụng khoa học, công nghệ, hiện đại hóa công tác quản lý, vận hành.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Ngô Tự Nam

Cùng quan tâm đến dự án Luật này, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Ngô Tự Nam nhấn mạnh, vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt đã và đang là vấn đề cần phải có các cơ chế, chính sách đồng bộ để giải quyết, nâng cao tính chủ động về nguồn nước và bảo đảm an toàn cấp nước cho sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu của nhân dân ở mức cao nhất trong mọi tình huống.

Theo nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, tuy nội hàm và trách nhiệm quản lý để đảm bảo an ninh tài nguyên nước được quy định trong nhiều văn bản như: Luật tài nguyên nước; Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Thủy lợi; Luật Đê điều; Luật Quy hoạch; Luật Thủy sản; Luật Đầu tư; Luật Phí và lệ phí; Luật Đất đai..., nhưng một số chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo đảm nguồn nước ăn uống và sinh hoạt của nhân dân còn thiếu và chưa cụ thể. Pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm về an ninh tài nguyên nước, còn thiếu khung pháp lý được xây dựng theo cách tiếp cận quản lý tổng hợp, đa ngành. Trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhưng bảo đảm an ninh tài nguyên nước lại được giao cho nhiều bộ, ngành, địa phương, do vậy tạo nên sự chồng chéo trong quá trình tổ chức thực hiện.

Hồ Hương