ĐBQH NGUYỄN THỊ QUYÊN THANH: CẦN NGHIÊN CỨU THEO CƠ CHẾ GIAO TỔNG KẾ HOẠCH VỐN SỰ NGHIỆP CHO ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA

30/10/2023

Góp ý những giải pháp để đẩy nhanh việc thực hiện 3 chương trình mục tiêu Quốc gia, trong đó giải ngân hiệu quả nguồn vốn sự nghiệp, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh, đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long đề nghị Quốc hội xem xét, nghiên cứu theo cơ chế giao tổng kế hoạch vốn sự nghiệp cho địa phương, tạo chủ động để địa phương thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG NGÀY 30/10: THẢO LUẬN VIỆC TRIỂN KHAI CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA

ĐBQH PHẠM THỊ KIỀU: CHẬM BAN HÀNH VĂN BẢN HƯỚNG DẪN KHIẾN NHIỀU CHƯƠNG TRÌNH CHƯƠNG THỂ THỰC HIỆN

Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025  được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 24/2021/QH15, có tổng vốn tối thiểu là 75.000 tỷ đồng. Chương trình gồm 7 dự án với 11 tiểu dự án, được thực hiện trên địa bàn cả nước (có 48 tỉnh sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).  Kết quả giải ngân đạt thấp, từ năm 2022 đến 6/2023 giải ngân khoảng 18,9% so với kế hoạch trung hạn, trong đó vốn đầu tư phát triển: 19,5%; vốn sự nghiệp 12,3%. Giải ngân vốn sự nghiệp là vấn đề rất đáng quan tâm, năm 2022 giải ngân đạt 5,2%, năm 2023 (đến 30/6) giải ngân được 3,9% kế hoạch năm. Do đó, Chương trình khó có thể hoàn thành mục tiêu giải ngân đến hết năm 2025. Vì vậy, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh kiến nghị Quốc, đề nghị Quốc hội xem xét, nghiên cứu theo cơ chế giao tổng kế hoạch vốn sự nghiệp cho địa phương thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, còn dự toán chi tiết đến từng dự án, nguồn vốn theo từng dự án, lĩnh vực cụ thể thì để các địa phương chủ động triển khai.

Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh, đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long

Phóng viên: Thưa đại biểu, hiện vấn đề giải ngân vốn sự nghiệp đang gặp rất nhiều vướng mắc, theo bà đâu là giải pháp để tháo gỡ hạn chế này?

ĐBQH Nguyễn Thị Quyên Thanh: Tôi đánh giá cao ý nghĩa quan trọng của việc triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trong những năm qua. Chương trình đã tạo cơ hội và điều kiện để người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tạo việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động, góp phần phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, vướn mắc hiện nay là công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn và giao kế hoạch theo cơ chế kế hoạch từng năm nên chưa đảm bảo được sự chủ động cho các địa phương. Mục tiêu nội dung của một số chương trình còn trùng lặp với nhiệm vụ chi thường xuyên, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình theo dõi, đánh giá các chương trình chưa chặt chẽ. Từ thực tiễn quản lý ở địa phương, tôi đề nghị Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện và kế hoạch giải ngân vốn đầu tư phát triển của chương trình đến hết năm 2025, tức là đến hết giai đoạn thực hiện các chương trình do một số khó khăn, vướng mắc như đã được nêu trong kết quả của Đoàn giám sát. Giao Chính phủ rà soát, xác định rõ số vốn cần kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân của từng dự án, trên cơ sở đó báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Với những vướng mắc thực tế tại địa phương chúng tôi, tôi đề nghị Quốc hội nghiên cứu cơ chế giao tổng kế hoạch vốn sự nghiệp cho địa phương thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, còn dự toán chi tiết đến từng dự án, nguồn vốn theo từng dự án, lĩnh vực cụ thể thì để các địa phương chủ động triển khai. Đồng thời, cho phép được điều chỉnh kế hoạch vốn hàng năm giữa các dự án, tiểu dự án cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn và khả năng giải ngân, điều chỉnh nguồn vốn từ các dự án thực hiện chưa hiệu quả hoặc không có địa bàn, không có đối tượng thụ hưởng sang thực hiện các dự án khác có nhu cầu vốn nhiều hơn, đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và địa bàn thụ hưởng của dự án theo quy định. Đây cũng là đề xuất của rất nhiều địa phương trong các cuộc làm việc với Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang trong việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc của địa phương về việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

Phóng viên: Thưa đại biểu, theo đánh gía chương trình tín dụng chính sách xã hội do NHCSXH triển khai đã góp phần thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, nhưng vẫn còn hạn chế so với nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Chính phủ cũng đã kiến nghị Quốc hội tạo điều kiện cho NHCSXH huy động nguồn vốn có kỳ hạn dài, ổn định, đáp ứng nhu cầu đầu tư tín dụng cho CTMTQG. Quan điểm của đại biểu về vấn đề này như thế nào?

ĐBQH Nguyễn Thị Quyên Thanh: Từ thực tế lãnh đạo tại địa phương, tôi thấy rằng, chính sách tín dụng ưu đãi do Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện là một cấu phần quan trọng trong các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước một cách thuận lợi và nhanh chóng. Các chương trình tín dụng được tổ chức thực hiện có hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Do đó, tôi tán thành với đề nghị của Chính phủ, đề xuất Quốc hội xem xét tăng nguồn vốn tín dụng chính sách trong giai đoạn 2024-2025 để tiếp tục thực hiện các chương trình, trong đó ưu tiên tập trung tăng nguồn vốn đầu tư cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn chương trình vay vốn ưu đãi về thực hiện chính sách nhà ở xã hội. Xem xét cho phép kéo dài thời gian hộ gia đình được thụ hưởng chính sách tín dụng cho vay đối với hộ mới thoát nghèo kể từ khi ra danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo lên tối đa là 5 năm để người dân có điều kiện tiếp cận nguồn vốn chính sách tín dụng phát triển kinh tế, thoát nghèo bền vững. Đồng thời, cho phép các xã thuộc khu vực 3, khu vực 2 khi đạt chuẩn nông thôn mới tiếp tục được thụ hưởng chính sách tín dụng đối với vùng khó khăn trong khoảng thời gian 3 năm.

Bên cạnh đó, xem xét điều chỉnh chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn nhằm thực hiện thành công các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng tăng định mức và mở rộng đối tượng vay, như nâng mức cho vay đối với các chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn phù hợp với nhu cầu đầu tư và diễn biến giá cả thị trường. Bổ sung đối tượng vay vốn tín dụng chính sách để sản xuất kinh doanh đối với hộ làm nông nghiệp có mức sống trung bình, tạo điều kiện cho các đối tượng này có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách để sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và vươn lên thoát nghèo.

Phóng viên: Thưa đại biểu, chương trình đến nay đã đạt và vượt nhiều  chỉ tiêu đề ra, xong trên thực tế nguy cơ tái nghèo vẫn cao? Từ góc độ địa phương, bà kiến nghị giải pháp gì?

ĐBQH Nguyễn Thị Quyên Thanh:  Không thể phủ nhận, chương trình mục tiêu quốc gia đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện. Tuy nhiên, theo Kết luận 65 của Bộ Chính trị so với sự phát triển chung của cả nước và từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội phát triển chậm, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao. Vì vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung tiêu chí chương trình dự án theo tinh thần Kết luận 65 của Bộ Chính trị, nghiên cứu, khai thác tiềm năng, phát huy thế mạnh của địa phương phù hợp với văn hóa, tập quán từng dân tộc nhằm hỗ trợ tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, góp phần phát triển đồng bộ, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Theo tôi, việc xây dựng nông thôn mới bền vững cần gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, truyền thống, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, bảo vệ cảnh quan không gian và môi trường, xây dựng khu dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn bền vững. Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 801 ngày 7/7/2022 phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Tuy nhiên, quyết định này chưa được triển khai quyết liệt. Vì vậy, địa phương cũng gặp không ít khó khăn trong việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề, chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, người có công bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa nghề truyền thống, một số làng nghề được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia có nguy cơ mai một, thất truyền. Vì vậy, đề nghị các bộ, ngành sớm nghiên cứu, sớm triển khai và hướng dẫn các địa phương thực hiện Quyết định 801 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó cần chú trọng việc rà soát các nội dung chính sách bảo tồn, phát triển nghề và làng nghề trong thời gian tới.

Phóng viên: Xin cảm ơn đại biểu.

Hải Yến