PHÓ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI TRẦN QUANG PHƯƠNG: LAN TỎA NHẬN THỨC, CÁCH LÀM SÁNG TẠO, LÀM CHO VIỆC NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH THÀNH NÉT ĐẸP VĂN HÓA TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 là cơ sở để các cơ quan, cá nhân biết và chủ động thực hiện trách nhiệm giải trình
Hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp (Điều 77), Luật Tổ chức Quốc hội (Điều 82), được cụ thể hóa trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều 43) và một số văn bản pháp luật có liên quan.
Để tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, thống nhất các nội dung liên quan đến việc tổ chức hoạt động giải trình tại các cơ quan của Quốc hội, ngày 25/01/2024 Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 về Hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15) được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thực hiện quyền giám sát, đồng thời cũng là cơ sở để các cơ quan, cá nhân biết và chủ động thực hiện trách nhiệm giải trình của mình.
Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 đã xác định cụ thể người được yêu cầu giải trình gồm các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước (khoản 2 Điều 4) cũng như trách nhiệm, quyền của người được yêu cầu giải trình, cơ quan, cá nhân liên quan.
Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh
Theo Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh, các quy định tại Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 cho thấy, thông qua phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có thể đánh giá tính hiệu quả, chất lượng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của người được yêu cầu giải trình, đồng thời đây cũng là cơ hội để người được yêu cầu giải trình chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong quản lý, điều hành khi thực hiện chính sách, pháp luật.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 với các quy định hướng dẫn cụ thể về Tiêu chí lựa chọn vấn đề (Điều 4), Nguồn thông tin lựa chọn vấn đề được giải trình (Điều 5)… góp phần khoanh vùng vấn đề, đưa nội dung phiên giải trình đi vào chiều sâu, nhằm tập trung giải quyết kịp thời các vấn đề cụ thể, có tính thời sự, bức xúc, được nhiều đại biểu Quốc hội, dư luận, cử tri và Nhân dân quan tâm.
Bảo đảm những điều kiện cần thiết để phục vụ hoạt động giám sát, tổ chức giải trình
Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh cho biết, để phục vụ hoạt động giám sát thông qua hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện đầy đủ kế hoạch, nội dung, yêu cầu giải trình; Cung cấp thông tin liên quan đến quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã thực hiện đầy đủ việc gửi văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành đến Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có liên quan chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày ký văn bản; Lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ đã trực tiếp báo cáo, trình bày những vấn đề Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu.
Về phía Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, sau khi nhận được kết luận của Ủy ban Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội về vấn đề giải trình thì có trách nhiệm nghiên cứu, triển khai thực hiện. Trường hợp văn bản quy định chi tiết chưa được ban hành thì các cơ quan, người có thẩm quyền được giao chủ trì soạn thảo văn bản phải xem xét nghiên cứu khẩn trương ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản để bảo đảm luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được tổ chức thi hành đầy đủ trên thực tế. Trong trường hợp cần thiết, tổ chức làm việc với cơ quan, tổ chức có liên quan để báo cáo những khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị hướng giải quyết đối với các nội dung giao quy định chi tiết mà chưa ban hành văn bản quy định chi tiết.
Mới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức Hội nghị triển khai Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 về Hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh nêu rõ, thời gian qua, thực hiện quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã nghiêm túc thực hiện trách nhiệm của chủ thể chịu sự giám sát trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật. Trong đó, Bộ Tư pháp đã phối hợp cung cấp thông tin liên quan đến kết quả kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, nhất là kết quả kiểm tra đối với các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các luật, nghị quyết của Quốc hội khi có yêu cầu của chủ thể giám sát.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng rà soát, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp thực tiễn thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp; tham mưu chuyển kiến nghị, phản ánh về văn bản quy phạm pháp luật có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp thực tiễn thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành khác để kịp thời rà soát, xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo quy định.
Đề cao tinh thần cởi mở, xây dựng, cầu thị trong hoạt động giám sát và giải trình
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh đề nghị cần tiếp tục quán triệt mục đích, mục tiêu của hoạt động giải trình nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành pháp luật, đồng thời gợi mở các giải pháp khắc phục; khuyến khích, đề cao tinh thần cởi mở, xây dựng, cầu thị trong hoạt động giám sát và giải trình.
Tăng cường chất lượng phiên giải trình tại Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội bắt đầu từ giai đoạn lập kế hoạch, thông báo tổ chức phiên giải trình, theo đó, các khâu đặc biệt cần chú ý: Xác định đúng và trúng vấn đề, nội dung giải trình mà cử tri và đại biểu quan tâm, cần được làm rõ, giải quyết kịp thời để bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thông qua các hoạt động giám sát, khảo sát, tiếp xúc cử tri hoặc qua thực tế cuộc sống của các đại biểu chuyên trách để tìm ra nội dung thật sự bức xúc cần giải trình tại phiên họp. Xác định rõ ràng, cụ thể nội dung cần giải trình có tác động rất lớn đến chất lượng báo cáo giải trình của người được yêu cầu giải trình. Xác định đúng người được yêu cầu giải trình, người được yêu cầu tham gia giải trình cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thu thập đầy đủ thông tin nhiều chiều về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước.
Ủy ban Pháp luật tổ chức Phiên giải trình việc thực hiện một số quy định pháp luật về hoạt động công chứng
Khắc phục, cải thiện tình trạng gửi tài liệu chậm, muộn để các đại biểu có thời gian nghiên cứu kỹ, hiểu rõ và nắm chắc vấn đề, từ đó góp phần nâng cao chất lượng các phiên chất vấn, giải trình. Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh cho biết, Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 không quy định thời hạn Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội gửi tài liệu phiên giải trình đến các đại biểu tham dự, bởi thời hạn này còn phụ thuộc vào thời hạn nhận thông báo tổ chức phiên giải trình, thời hạn làm báo cáo và gửi báo cáo về nội dung giải trình của người được yêu cầu giải trình đến Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 về thời hạn thông báo về tổ chức phiên giải trình là quá ngắn "chậm nhất 10 ngày trước ngày tiến hành phiên giải trình", trong khi đó yêu cầu người giải trình phải "có trách nhiệm xây dựng báo cáo theo đề cương và gửi đến Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 05 ngày trước ngày tổ chức phiên giải trình (Điều 12) sẽ khó đảm bảo tính khả thi.
Do đó, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự, Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh đề xuất một số giải pháp cụ thể có thể khắc phục tình trạng này như: Việc thông báo về nội dung và kế hoạch tổ chức phiên giải trình cần thực hiện từ sớm để người được yêu cầu giải trình có đủ thời gian để thu thập thông tin, dữ liệu nhằm xây dựng báo cáo giải trình đầy đủ, chất lượng; Tăng cường trách nhiệm của người được yêu cầu giải trình trong việc gửi báo cáo đúng thời hạn, kịp thời; Tăng cường sự chủ động, tích cực của Tiểu ban, Nhóm nghiên cứu trong việc chuẩn bị tài liệu và gửi tài liệu về phiên giải trình sớm và công khai trên Cổng Thông tin điện tử Quốc hội.
Tăng cường hiệu quả việc điều hòa hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, theo đó, cần xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động giải trình khoa học, bảo đảm phù hợp, tránh trùng lắp về vấn đề yêu cầu giải trình và tránh gây quá tải, làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu giải trình.
Đề cao trách nhiệm đối với cơ quan, người giải trình, phải cụ thể, rõ ràng, đi thẳng vào vấn đề theo yêu cầu đặt ra, nêu rõ việc đã làm được, việc chưa làm được, nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm, tiến độ và biện pháp khắc phục. Đồng thời, chú trọng công tác theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị sau phiên giải trình, quan tâm những yếu tố bảo đảm thi hành kết luận được hiệu quả, khả thi.