CÁC NƯỚC CHIA SẺ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM ĐỂ THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH NĂNG LƯỢNG HIỆU QUẢ
Biến đổi khí hậu diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu đã và đang tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống xã hội và phát triển bền vững của hành tinh. Ứng phó với biến đổi khí hậu đã trở thành yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ ưu tiên của nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới.
Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) trình Liên Hợp Quốc năm 2020 với các cam kết cụ thể về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính để thực hiện Thoả thuận Paris. Theo Thỏa thuận này, từ năm 2021 trở đi, tất cả các quốc gia phải có trách nhiệm pháp lý trong giảm phát thải khí nhà kính, thực hiện Báo cáo NDC.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các nhà lãnh đạo thế giới dự Hội nghị COP26 (ảnh: Báo điện tử Chính phủ).
Việc thực hiện ứng phó và hỗ trợ cho ứng phó biến đổi khí hậu của các quốc gia phải được đặt ở vị trí trung tâm, hướng tới thực hiện mục tiêu toàn cầu; được thực hiện một cách minh bạch, chịu sự giám sát, đánh giá của quốc tế. Tại Việt Nam, từ năm 2011 đến nay, nhiều Luật, Chiến lược, chính sách về biến đổi khí hậu đã được ban hành, các chương trình hành động quốc gia, cấp ngành, địa phương cũng từng bước được xây dựng và triển khai thực hiện. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu: Đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có một chương quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngoài ra, các quyết tâm, cam kết mạnh mẽ và những ý kiến đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phát triển các-bon thấp, hướng tới giảm phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 đã trở thành xu thế phát triển tất yếu của nhân loại. Cũng tại Hội nghị COP26, lần đầu tiên, thế giới đưa ra được lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ. Để thực hiện lộ trình này, đòi hỏi tất cả các quốc gia phải nhanh chóng chuyển đổi sang phát triển phát thải thấp. Ứng phó với biến đổi khí hậu đã chuyển sang một giai đoạn mới, đòi hỏi Việt Nam phải tham gia sâu và thực chất vào nỗ lực chung của toàn cầu.
Ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới
Năm 2023, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc sẽ thực hiện giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021”. Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi, mục tiêu của đợt giám sát chuyên đề này là phản ánh khách quan, trung thực việc thực hiện các chính sách, pháp luật về năng lượng trong thời gian qua để từ đó giúp cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể nhìn nhận khách quan được những thuận lợi, khó khăn cũng như thách thức, hạn chế để đưa ra các giải pháp điều chỉnh kịp thời.
Chương trình giám sát cũng góp phần đề xuất hợp tác với các tổ chức quốc tế để thực hiện mục tiêu mà Thủ tướng Chính phủ cam kết tại Hội nghị COP 26 về triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Bên cạnh đó là đề ra các giải pháp trong chuyển dịch năng lượng và biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển năng lượng hiệu quả, công bằng trong thời gian tới.
Ông Phạm Văn Tấn- Phó Cục trưởng Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Tài Nguyên và Môi trường.
Để thực hiện các mục tiêu, cam kế giảm phát thả khí nhà kính, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi Khí hậu (Bộ Tài Nguyên và Môi trường) Phạm Văn Tấn cho rằng, cần thực hiện giảm phát thải khí nhà kính đối với các cơ sở phát thải hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tđ trở lên từ 2022, 2.000 tấn CO2tđ trở lên từ năm 2030; 500 tấn CO2tđ trở lên từ năm 2040; 200 tấn CO2tđ trở lên từ năm 2050, Xây dựng tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính quốc gia và tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các cơ sở từ năm 2026; Xây dựng cơ sở dữ liệu trực tuyến, hệ số phát thải đặc trưng quốc gia, Xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm 30% khí mê tan, thực hiện lộ trình giảm phát thải ròng về “0”, loại trừ chất ODS.
Đối với các giải pháp thể chế chính sách, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi Khí hậu (Bộ Tài Nguyên và Môi trường) Phạm Văn Tấn nêu quan điểm, cần xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, trong đó có Luật Biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó là chú trọng công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng; Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; Huy động nguồn lực tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đề cập về định hướng chiến lược phát triển ngành Điện đạt mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, ông Hoàng Tiến Dũng- Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) khẳng định: Năng lượng tái tạo phát triển mạnh trong những năm gần đây, đưa tỷ trọng các nguồn điện gió và mặt trời chiếm khoảng 25% tổng công suất toàn hệ thống điện, góp phần đa dạng hóa nguồn điện, được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Tuy nhiên, bức tranh phát triển ngành Điện không chỉ có những gam màu sáng, vẫn còn đó rất nhiều khó khăn, thách thức trong việc đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới tiếp tục có nhiều biến động khó lường, tiềm ẩn rủi trong cung cấp năng lượng sơ cấp. Hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng còn thấp, cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ; chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường; các nguồn điện lớn tiếp tục chậm tiến độ, công tác phát triển lưới điện gặp nhiều khó khăn do giải phóng mặt bằng ngày càng phức tạp...
Mặt khác, cơ cấu nguồn điện hiện tại đang phụ thuộc nhiều vào các nguồn điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch (chỉ riêng nhiệt điện than đã chiếm khoảng 45% tổng sản lượng điện hệ thống). Đây là các nguồn điện phát thải nhiều khí CO2. Năm 2020, ngành điện phát thải khoảng 115 triệu tấn, trong đó nhiệt điện than chiếm khoảng 60%, gây tác động lớn tới môi trường.
Ông Hoàng Tiến Dũng- Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương).
Nhằm giảm thiểu những bất cập nêu trên, ông Hoàng Tiến Dũng cho biết, hiện nay, Bộ Công Thương đang khẩn trương triển khai xây dựng Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2050 và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2050. Những đề án này bám sát các chủ trương, định hướng của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, nhằm đảm đảo mục tiêu cung cấp đủ điện cho đất nước với chi phí hợp lý và đáp ứng các yêu cầu về môi trường; phát triển ngành Điện nhanh và bền vững; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới…; góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về phát thải bằng “0” vào năm 2050.
Theo đó, ngành Điện đang thực hiện chuyển dịch năng lượng theo hướng sạch và xanh. Đẩy mạnh phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời...) với giá thành hợp lý gắn với bảo đảm an toàn vận hành và tính kinh tế chung của hệ thống điện. Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo để tiêu thụ tại chỗ, không đấu nối hoặc không bán điện vào lưới điện quốc gia. Ưu tiên phát triển các loại hình điện sinh khối, điện đồng phát, điện sản xuất từ rác, chất thải rắn nhằm tận dụng phụ phẩm nông lâm nghiệp, chế biến gỗ, thúc đẩy trồng rừng và tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, xử lý môi trường. Khai thác tối đa tiềm năng thuỷ điện của đất nước trên cơ sở bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, an ninh nguồn nước. Đẩy mạnh phát triển các loại hình thủy điện tích năng, thủy điện trên các hồ thủy lợi, hồ chứa nước để điều hòa phụ tải, dự phòng công suất, tận dụng nguồn thủy năng.
Ngoài ra, ngành Điện cũng đang nghiên cứu các loại hình năng lượng tái tạo khác như địa nhiệt, sóng biển… Ưu tiên tối đa phát triển các dự án nhiệt điện sử dụng nguồn khí tự nhiên trong nước; Phát triển nguồn điện sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) ở quy mô phù hợp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, sử dụng công nghệ hiện đại, hiệu suất cao. Không phát triển nguồn điện sử dụng LNG mới sau năm 2035. Các nhà máy điện sử dụng LNG định hướng chuyển dần sang sử dụng nhiên liệu hydro. Đến năm 2050, đa số các nhà máy nhiệt điện khí chuyển hoàn toàn sang sử dụng hydro./.