ĐẦU TƯ HẠ TẦNG KỸ THUẬT, PHÒNG CHỐNG SUY THOÁI, CẠN KIỆT, Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC

04/05/2023

Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là một trong những dự án Luật quan trọng sẽ được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 sắp tới. Quan tâm đến dự án Luật này, PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương, Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) cùng các chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng cần áp dụng cách tiếp cận toàn diện và hệ thống trong quản lý tài nguyên nước bền vững, đẩy mạnh đầu tư hạ tầng kỹ thuật phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.

LẤY Ý KIẾN LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC (SỬA ĐỔI)

Áp dụng cách tiếp cận toàn diện và hệ thống trong quản lý tài nguyên nước bền vững

Chuẩn bị được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 sắp tới, Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được kỳ vọng sẽ tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để có khả năng vốn hóa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; đồng thời tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước.

Quan tâm đến việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước, PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương, Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) cho rằng, cần áp dụng cách tiếp cận toàn diện và hệ thống trong quản lý tài nguyên nước bền vững. Tham khảo cách tiếp cận được áp dụng ở một số quốc gia phát triển, PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương cho biết, tài nguyên nước đô thị được đặt làm trung tâm, giảm thiểu việc sử dụng nước và tăng cường tái sử dụng nước trong công trình, do đó giảm áp lực lên tài nguyên nước thiên nhiên và giảm thiểu sự xả thải chất ô nhiễm ra ngoài hệ sinh thái đô thị.

Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 sắp tới (Ảnh minh họa)

Theo cách tiếp cận mới thì nước thải sau xử lý là một bộ phận của hệ thống nước và cần được khai thác và tái sử dụng cho các mục đích cấp nước khác nhau. Ngoài ra, các nguồn nước khác như nước mưa hay nước ngầm tầng nông cũng cần được coi là một phần của tài nguyên nước đô thị và cần được tăng cường sử dụng. Ưu điểm của việc khai thác nước mưa hay nước ngầm tầng nông là không tốn kém về chi phí năng lượng như xử lý nước thải. Việc ưu tiên khai thác và sử dụng nguồn nước nào cần phải được đánh giá cụ thể về hiệu quả kinh tế-kỹ thuật và hiệu quả môi trường bao gồm cả tiêu thụ năng lượng. 

PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương cho biết, trước đây, Chính phủ đã thông qua cách tiếp cận quản lý tổng hợp tài nguyên nước làm nền tảng cho quy hoạch, phát triển và quản lý tài nguyên nước. Luật Tài nguyên Nước (2012) đã có quy định về cách tiếp cận quản lý này, Chiến lược Quốc gia về Tài nguyên Nước đến năm 2020 cũng khẳng định “quản lý tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp trên cơ sở lưu vực sông”, tuy nhiên việc triển khai vẫn còn nhiều bất cập.

PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương, Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội)

Bên cạnh đó, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh có liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên lưu vực sông. Nhu cầu khai thác, sử dụng và yêu cầu về bảo vệ, quản lý nguồn nước của các địa phương là khác nhau, đặc biệt là các địa phương ở hạ lưu, phải chịu ảnh hưởng từ các địa phương ở thượng lưu. Do đó cần có cơ chế giám sát định kỳ, bất thường của các cơ quan độc lập hoặc giám sát chéo giữa các địa phương.

Vì vậy, theo PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương cùng các chuyên gia, ngoài việc tổ chức thực hiện quy hoạch, cần quy định rõ nội dung về giám sát thực hiện quy hoạch trong luật về trách nhiệm giám sát, cơ chế giám sát thực hiện quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh. Đồng thời đề nghị trong các văn bản dưới luật hướng dẫn nội dung này cần quy định chi tiết về hoạt động giám sát thực hiện quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh đảm bảo cho quy hoạch được thực hiện phù hợp với lợi ích của các địa phương trên lưu vực sông.

Đầu tư hạ tầng kỹ thuật phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước

PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương cho rằng, công tác bảo vệ tài nguyên nước bao gồm: Xác định yêu cầu bảo vệ tài nguyên nước đối với các hoạt động khai thác, sử dụng nước và các hệ sinh thái thủy sinh; Xác định các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt; đánh giá diễn biến chất lượng nước, phân vùng chất lượng nước; Xác định các công trình, biện pháp phi công trình bảo vệ nguồn nước, phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm hoặc bị suy thoái, cạn kiệt để bảo đảm chức năng của nguồn nước; và xây dựng hệ thống giám sát chất lượng nước, giám sát xả nước thải vào nguồn nước.

Đặc biệt, nguồn nước mặt dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt được quy định là phân vùng bảo vệ môi trường nghiêm ngặt (theo Luật Bảo vệ Môi trường 2020). Vì vậy, hành lang bảo vệ nguồn nước sinh hoạt, khoảng cách an toàn về môi trường đối với nguồn nước sinh hoạt cần được quy định đảm bảo việc bảo vệ nghiêm ngặt theo quy định này. Trong thực tế, rất nhiều đối tượng cần có khoảng cách an toàn về môi trường đối với nguồn nước sinh hoạt liên quan đến việc có thể phát thải các chất phóng xạ, chất độc hại đối với người, sinh vật, truyền nhiễm dịch bệnh hoặc gây ô nhiễm nguồn nước: Cơ sở sản xuất, kho chứa hóa chất; kho chứa, đường ống xăng dầu; nghĩa trang, trang trại chăn nuôi, bãi rác thải, chất thải, bệnh viện, v.v. PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương cùng các chuyên gia kiến nghị cần bổ sung thêm trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức thực hiện quản lý về khoảng cách an toàn về môi trường đối với nguồn nước sinh hoạt.

Nhiều hội thảo chuyên gia đã được tổ chức để đóng góp ý kiến hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Theo nhận định của nhiều chuyên gia, tập trung đầu tư xử lý nước thải và chính sách giảm thiểu ô nhiễm đóng vai trò then chốt cho việc quản lý chất lượng nguồn nước. Sự tăng trưởng dân số và phát triển kinh tế đô thị làm tăng mạnh nhu cầu nước sử dụng, nguồn nước sạch vì vậy trở nên một hàng hóa có giá trị. Sử dụng hiệu quả nước thải sau xử lý sẽ hỗ trợ công tác cấp nước bền vững ở các đô thị. Đặc biệt ở những khu vực khan hiếm nguồn nước và phải sử dụng nguồn cách xa đô thị, dẫn đến chi phí xây dựng hệ thống và chi phí bơm tăng cao. Do đó, nếu áp dụng các công nghệ nước phù hợp có thể xử lý nước đủ sạch để có thể sử dụng cho một số mục đích nào đó sẽ có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế và bảo vệ môi trường.

PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương cho biết, tái sử dụng nước thải sau xử lý là một khái niệm còn khá mới tại Việt Nam, dù với nhiều nước khác thì việc tái sử dụng này đã được áp dụng phổ biến cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau: bao gồm Nông nghiệp, Công nghiệp, Đô thị, Tái sử dụng nước thải sau xử lý để bổ sung nguồn nước ngầm, và Tái sử dụng nước thải sau xử lý cho mục đích tạo cảnh quan, tái tạo hệ sinh thái tự nhiên. Theo các chuyên gia, đây là việc có giá trị, nhưng vấn đề đặt ra làm thế nào để hiện thực hóa và cần sửa đổi quy định như thế nào.

Cùng với đó, nhiều ý kiến các chuyên gia cho rằng cần xây dựng hệ thống thông tin tài nguyên nước quốc gia phục vụ việc giám sát khai thác sử dụng tài nguyên nước, đáp ứng các thách thức quản lý tài nguyên nước ngày càng phức tạp. Theo đó, quản lý tài nguyên nước là một hoạt động dựa trên thông tin và dữ liệu song công tác quản lý hiện nay đang bị hạn chế nhiều do việc thiếu thông tin và cả cách tiếp cận thông tin. Thông tin về ô nhiễm nguồn nước vừa thiếu vừa chưa đủ độ tin cậy trong khi đây là thông tin được đánh giá là quan trọng nhất xét về mặt kinh tế.

Các chuyên gia khuyến nghị, Chính phủ cần quy định rõ tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước nào phải lắp đặt thiết bị quan trắc, các loại thiết bị cần lắp đặt, cách thức kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan quản lý nhà nước để phù hợp với thực tế về trách nhiệm, đặc biệt là việc khai thác tại các hệ thống thủy lợi (giữa đơn vị quản lý hệ thống thủy lợi và đơn vị được cấp phép khai thác).

Ngoài ra, các chuyên gia cũng đề nghị cần xây dựng hệ thống thông tin nước quốc gia với hệ thống giám sát nước hiện đại và các công cụ phân tích nâng cao, tích hợp các dữ liệu thu thập được vào hệ thống một cách minh bạch để các bên liên quan có thể tiếp cận dễ dàng là một bước quan trọng thúc đẩy công tác quản lý tài nguyên nước tốt hơn.

Minh Hùng