Toàn cảnh Hội nghị
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, thời gian qua, hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội ngày càng được quan tâm triển khai thực hiện. Việc tổ chức phiên giải trình đã góp phần làm rõ những vấn đề bất cập, bức xúc được cử tri và xã hội quan tâm, giải quyết kịp thời những vấn đề “nóng”, mang tính thời sự, đáp ứng kịp thời nguyện vọng của cử tri và Nhân dân; đồng thời tạo chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, các Bộ, ngành trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, do chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan khi tiến hành tổ chức phiên giải trình nên việc tổ chức còn gặp những khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất trong thực hiện việc quyết định lựa chọn vấn đề giải trình, việc xây dựng, ban hành kế hoạch tổ chức phiên giải trình, kết luận vấn đề được giải trình và theo dõi, đôn đốc, đánh giá việc thực hiện kết luận vấn đề được giải trình...
Xuất phát từ thực tế nêu trên, để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những bất cập, hạn chế đã và đang gặp phải, nhất là về trình tự, thủ tục, bảo đảm yêu cầu “đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động giải trình ở Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường báo cáo một số nội dung chính của Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15
Rõ tiêu chí lựa chọn vấn đề giải trình
Báo cáo một số nội dung chính của Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường nêu rõ, Nghị quyết gồm 4 chương, 20 Điều, hướng dẫn các vấn đề liên quan đến hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội bao gồm: nguyên tắc, phạm vi giải trình; tiêu chí lựa chọn vấn đề được giải trình, người được yêu cầu giải trình, người được yêu cầu tham gia giải trình; nguồn thông tin lựa chọn vấn đề được giải trình; trách nhiệm, quyền của người được yêu cầu giải trình, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; trình tự, thủ tục tổ chức hoạt động giải trình; thực hiện kết luận vấn đề được giải trình; theo dõi, đôn đốc, báo cáo việc thực hiện kết luận vấn đề được giải trình của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
Để cụ thể hóa các quy định của pháp luật, tạo sự thống nhất, đồng bộ trong công tác này của các cơ quan của Quốc hội, Điều 4 của Nghị quyết hướng dẫn vấn đề giải trình được lựa chọn theo một trong các tiêu chí sau:
Một là, Vấn đề cụ thể, vụ việc xảy ra có tính thời sự, bức xúc, nổi lên trong thực tiễn đời sống xã hội; vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội, thành viên Hội đồng Dân tộc, thành viên Ủy ban của Quốc hội, dư luận, cử tri và Nhân dân quan tâm, đòi hỏi phải được làm rõ, giải quyết kịp thời để bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
Hai là, Vấn đề xảy ra vi phạm pháp luật hoặc có nhiều hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục;
Ba là, Vấn đề đã ghi trong các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn, giám sát chuyên đề hoặc kết luận vấn đề được giải trình, kiến nghị giám sát chuyên đề của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội nhưng thực hiện chưa hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Người được yêu cầu giải trình là thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước. Việc lựa chọn người được yêu cầu giải trình đối với phiên giải trình cụ thể phải là người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trực tiếp hoặc có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết đối với vấn đề được giải trình.
Người được yêu cầu tham gia giải trình là đại diện lãnh đạo Bộ, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc cá nhân khác có liên quan đến thẩm quyền quản lý nhà nước hoặc có chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm giải quyết đối với vấn đề được giải trình.
Kết luận vấn đề được giải trình được thông qua tại phiên giải trình
Theo Nghị quyết, việc tổ chức hoạt động giải trình thuộc 02 trường hợp: Theo chương trình giám sát hằng năm của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và Do yêu cầu đột xuất của thực tiễn.
Các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham dự Hội nghị
Để góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, làm rõ trách nhiệm của người giải trình, cơ quan, cá nhân liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nguyên nhân, tính chất của vấn đề giải trình để có giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập, tạo sự chuyển biến trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, kịp thời bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, theo đó Điều 16 Nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể về việc thông qua kết luận và gửi kết luận vấn đề giải trình. Theo đó, kết luận vấn đề được giải trình được thông qua tại phiên giải trình. Kết luận vấn đề được giải trình được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội chủ trì tổ chức phiên giải trình biểu quyết tán thành. Kết luận vấn đề được giải trình phải có kiến nghị, yêu cầu cụ thể, rõ ràng, thời gian thực hiện, trách nhiệm thực hiện kết luận, trách nhiệm báo cáo việc thực hiện kết luận của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Kết luận vấn đề được giải trình được gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội, người được yêu cầu giải trình và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp phải bảo đảm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, đời sống riêng tư, bí mật kinh doanh được pháp luật bảo vệ.
Để tăng cường theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận sau phiên giải trình, Điều 17 của Nghị quyết hướng dẫn trách nhiệm của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội chủ động theo dõi, kịp thời đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện kết luận vấn đề được giải trình; xem xét, đánh giá báo cáo việc thực hiện kết luận và báo cáo kết quả thực hiện đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Việc theo dõi thực hiện kết luận vấn đề được giải trình được tổng hợp vào báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
Đưa nội dung phiên giải trình đi vào chiều sâu, tập trung giải quyết kịp thời các vấn đề cụ thể, có tính thời sự
Trình bày tham luận tại hội nghị, đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ…đều khẳng định việc tổ chức phiên giải trình tại Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có ý nghĩa quan trọng nhằm làm rõ những vấn đề, vụ việc cụ thể có tính thời sự, bức xúc, nổi lên trong thực tiễn đời sống xã hội, từ đó tăng cường trách nhiệm giải quyết của cơ quan tổ chức, cá nhân liên quan, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.
Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành Hội nghị
Các đại biểu cho rằng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội là cơ sở quan trọng để thực hiện hoạt động giải trình một cách đồng bộ, thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Do đó, việc tổ chức Hội nghị triển khai Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với hoạt động này là rất cần thiết.
Các ý kiến tại Hội nghị cho rằng, thông qua phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có thể đánh giá tính hiệu quả, chất lượng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của người được yêu cầu giải trình, đồng thời đây cũng là cơ hội để người được yêu cầu giải trình chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong quản lý, điều hành khi thực hiện chính sách, pháp luật. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 với các quy định hướng dẫn cụ thể về Tiêu chí lựa chọn vấn đề (Điều 4), Nguồn thông tin lựa chọn vấn đề được giải trình (Điều 5)… góp phần khoanh vùng vấn đề, đưa nội dung phiên giải trình đi vào chiều sâu, nhằm tập trung giải quyết kịp thời các vấn đề cụ thể, có tính thời sự, bức xúc, được nhiều đại biểu Quốc hội, dư luận, cử tri và Nhân dân quan tâm.
Các đại biểu nêu rõ, các quy định của Nghị quyết 969/NQ-UBTVQH15 là hợp lý, khoa học, dễ áp dụng, sẽ tạo ra nền nếp và hiệu quả cao hơn cho hoạt động giải trình của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban. Đặc biệt, với các hoạt động giải trình cần có sự phối hợp của hai hay nhiều cơ quan của Quốc hội, Nghị quyết 969/NQ-UBTVQH15 là căn cứ để các cơ quan thực hiện các quy trình, thủ tục phối hợp cần thiết.
Các đại biểu, khách mời tham dự Hội nghị
Nhấn mạnh điểm mới của Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH là việc kết luận vấn đề được giải trình và biểu quyết thông qua kết luận tại phiên giải trình. Đây là một nội dung quan trọng, cần được quán triệt và triển khai hiệu quả trong thời gian tới. Để kết luận giải trình được biểu quyết thông qua tại phiên giải trình đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, thậm chí phải dự tính trước các tình huống, dự thảo kết quả của phiên giải trình. Trong quá trình diễn ra phiên giải trình, đòi hỏi phải liên tục hoàn thiện kết luận theo diễn biến của phiên giải trình để có thể kịp thời thông qua ngay trong phiên giải trình. Đây là thách thức đối với cả cơ quan tổ chức giải trình, các đại biểu Quốc hội và đội ngũ tham mưu, phục vụ.
Các ý kiến cũng nhấn mạnh việc theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận vấn đề được giải trình cũng là một thách thức lớn. Nhiệm vụ này đòi hỏi sự phân bổ nguồn lực hợp lý để theo dõi sát sao hoạt động của cơ quan giải trình trong việc thực hiện kết luận giải trình; đồng thời, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị và từng cá nhân phải đa dạng hóa nguồn thông tin để nắm bắt kịp thời tình hình./.