XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN CẦN LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ PHÙ HỢP VỚI TỪNG ĐỊA PHƯƠNG

22/12/2023

Hiện công tác quản lý chất thải rắn vẫn là vấn đề đặt ra với nhiều địa phương dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định chặt chẽ hơn. Tại Hội thảo “Kiểm soát chất thải rắn: Chính sách, pháp luật và thực tiễn” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 22/12, nhiều đại biểu nhấn mạnh việc quản lý, xử lý chất thải rắn cần lựa chọn công nghệ phù hợp, nhà đầu tư phù hợp cho từng địa phương với địa bàn cụ thể.

CẦN NHANH CHÓNG HƯỚNG DẪN TRIỂN KHAI LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 2020 VỚI VIỆC PHÂN LOẠI RÁC THẢI TẠI NGUỒN

LỰA CHỌN NHÀ ĐẦU TƯ THAM GIA VÀO XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT TRÊN NĂNG LỰC QUẢN TRỊ, CÔNG NGHỆ VÀ GIÁ XỬ LÝ RÁC

Quản lý, xử lý chất thải rắn phải phù hợp với thực tế từng địa phương

Thời gian qua, công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt nói riêng trong phạm vi cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, như là ban hành, tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt góp phần giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nhất là từ sau khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2019 về phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 01/2019 (Theo Nghị quyết này, Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn; Chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải trên địa bàn).

Toàn cảnh Hội thảo "Kiểm soát chất thải rắn: Chính sách, pháp luật và thực tiễn”

Tại Hội thảo “Kiểm soát chất thải rắn: Chính sách, pháp luật và thực tiễn” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 22/12, nhiều đại biểu cũng chỉ ra thực tế là nhiều địa phương vẫn loay hoay về trong việc lựa chọn công nghệ, nhà đầu tư và quản lý sau đầu tư. Có địa phương lượng chất thải rắn phải xử lý ít nhưng đầu tư quy mô và công nghệ như các thành phố lớn dẫn đến lãng phí và vận hành không hiệu quả.

Theo quan điểm của nhiều đại biểu, việc quản lý, xử lý chất thải rắn cần lựa chọn công nghệ phù hợp, nhà đầu tư phù hợp cho từng địa phương với địa bàn cụ thể. Sự lựa chọn công nghệ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình hình địa phương, loại rác thải, quy mô xử lý, nguồn lực kinh tế và môi trường; không có công nghệ nào được xem là duy nhất, là tối ưu nhất.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Trần Hồng Nguyên

Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Trần Hồng Nguyên, công nghệ là tiêu chí quan trọng nhất để xử lý chất thải rắn hiệu quả. Tuy nhiên, không phải cứ áp dụng công nghệ xử lý tiên tiến, hiện đại nhất của nước ngoài là phù hợp bởi đặc thù chất thải rắn chưa qua phân loại tại Việt Nam rất khác biệt. Cần tùy theo đặc thù của từng địa phương để lựa chọn công nghệ phù hợp nhằm đảm bảo tính bền vững và tạo ra hiệu quả tốt nhất.

Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Quang Huân, đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương

Nhiều địa phương dù lượng chất thải phải xử lý không lớn nhưng suất đầu tư vào công nghệ quá lớn, không phù hợp với tình hình thực tiễn. Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Quang Huân lấy ví dụ thực tế như công nghệ đốt rác thu hồi năng lượng chỉ nên áp dụng cho các địa phương có lượng rác cần đốt trên 500 tấn/ngày, dưới công suất này sẽ trở nên lãng phí và tốn kém. Tuy nhiên, rất nhiều tỉnh đầu tư công nghệ này như các thành phố lớn. Bên cạnh đó, trong quá trình vận chuyển chất thải chưa đồng bộ dẫn đến việc khi áp dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài không đạt được các mục tiêu về kỹ thuật lẫn kinh tế, không hiệu quả. Do vậy, việc quy hoạch, công nghệ xử lý chát thải rắn phải tính đến dư địa cho ứng dụng như công nghệ sinh học.

Đồng tình với nhận định này, Phó Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ Đặng Đình Tùng cũng cho rằng, việc ứng dụng công nghệ xử lý chất thải rắn cần được xem xét, tính toán phù hợp với điều kiện đặc trưng của từng vùng miền, địa phương. Đặc biệt là với chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta có độ ẩm cao, lẫn nhiều tạp chất, phân loại đầu nguồn chưa tốt… Do đó, công nghệ xử lý chất thải rắn phù hợp với Việt Nam phải khắc phục được những nhược điểm trên và có giá thành đầu tư phù hợp.

Theo các đại biểu, tư duy quản lý chất thải rắn có nhiều thay đổi, từ “tiêu hủy” đến “quản lý” rồi “quản lý tổng hợp”, từ “chất thải’ đến “coi chất thải là tài nguyên”, từ nền “kinh tế tuyến tính” sang “nền kinh tế tuần hoàn”. Trong đó các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải được coi là những biện pháp hữu hiệu để giảm khối lượng rác thải phải chôn lấp, từ đó tiết kiệm nguồn tài nguyên quý giá, giảm các nguy cơ về môi trường.

Các đại biểu cho rằng, có rất nhiều quốc gia đã sử dụng chất thải rắn để làm nhiên liệu sản xuất một số ngành với tỷ lệ lên tới 50%. Vấn đề là phải có chính sách, cơ chế tài chính ưu đãi cơ cho các doanh nghiệp, đơn vị đi đầu trong hoạt động thu gom và tái chế chất thải rắn. Sản xuất từ nguyên liệu tái chế thường sẽ đắt hơn từ nguyên liệu nguyên sinh, nguyên liệu thông thường. Những sản phẩm tái chế nếu cạnh tranh với hàng hóa thông thường là vô cùng khó. Vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước cần xác nhận đó là sản phẩm tái chế, dán nhãn xanh và khuyến khích tiêu dùng.

Đại biểu đã đề xuất, Bộ Tài nguyên và Môi trường có quy định cụ thể nhằm hỗ trợ các sản phẩm tái chế có thể cạnh tranh trong thị trường. Khi những sản phẩm này tạo được chỗ đứng thì dừng hỗ trợ, để dành nguồn lực cho những sản phẩm mới khác, khi đưa ra thị trường còn khó tiếp cận.

Từ những dự án thực tiễn đã tham gia, ông Nguyễn Linh Ngọc, Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, rác thải nhựa phân hủy sinh học không thể cạnh tranh được với rác thải nhựa không phân hủy vì giá thành cao, vì vậy phải có giải pháp tài chính, cơ chế chính sách cụ đánh thuế nhựa không phân hủy để bảo vệ môi trường. Đồng thời, cần  đẩy mạnh hợp tác quốc tế và chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia đã thành công trong việc đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng loại các chất thải, phụ phẩm, phế phẩm, xem đây là biện pháp tiết kiệm và bảo vệ môi trường hiệu quả. Chất thải được tái chế không chỉ góp phần giảm nguyên liệu đầu vào mà còn hạn chế phát thải đầu ra.

Quy định pháp luật còn thiếu các cơ chế cụ thể để khuyến khích cho các Nhà khoa học, các doanh nghiệp khối tư nhân yên tâm và có động lực để tham gia đầu tư vào công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Đây cũng là vấn đề Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tổ chức phiên giải trình về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt, bởi đây vẫn là vấn đề nhức nhối nhưng có tầm quan trọng đặc biệt để bảo vệ môi trường bền vững. Do vậy, quản lý chặt chẽ chất thải rắn sinh hoạt, phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường do chất thải rắn sinh hoạt gây ra được các cấp, các ngành và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Dù hiện nay, việc đầu tư hạ tầng thu gom, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển và xử lý rác thải từng bước được cải thiện. Công tác truyền thông nâng cao ý thức của cộng đồng được thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, thu hút sự tham gia của các thành phần trong xã hội. Nhưng Uỷ ban Khoa học công nghệ và Môi trường đánh giá, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn tồn tại những hạn chế, bất cập.

Đây cũng là vấn đề Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tổ chức phiên giải trình về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt, bởi đây vẫn là vấn đề nhức nhối nhưng có tầm quan trọng đặc biệt để bảo vệ môi trường bền vững ngày 20/12/2022

Theo đó, cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương chưa ban hành hoặc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, cụ thể như: Chưa ban hành văn bản hướng dẫn định mức kinh tế kỹ thuật về xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo công nghệ bám sát với thực tiễn, chưa hướng dẫn cụ thể về phương pháp định giá dịch vụ xử lý, chưa rõ danh mục công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt được khuyến khích, cơ chế khuyến khích các dự án đốt rác phát điện chưa được sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tiễn; quy định pháp luật về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cung cấp dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt còn bất cập, thiếu các cơ chế cụ thể để khuyến khích cho các Nhà khoa học, các doanh nghiệp khối tư nhân yên tâm và có động lực để tham gia đầu tư vào công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Tuấn Anh cho rằng, việc xây dựng, phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia theo quy định pháp luật cho thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 còn chậm, trong đó có nội dung định hướng vị trí, quy mô các khu xử lý chất thải rắn cấp vùng, cấp quốc gia, làm ảnh hưởng việc chủ động bố trí, thu hút nguồn lực đầu tư thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật xử lý chất thải. Công tác quy hoạch, thực hiện quy hoạch các khu xử lý chất thải tập trung ở nhiều địa phương gặp khó khăn, vướng mắc, đa số không đáp ứng yêu cầu mục tiêu quy hoạch đặt ra, do không có sự đồng thuận của người dân khu vực quy hoạch và thiếu sự tập trung lãnh đạo, quyết liệt đúng mức của chính quyền địa phương. Việc thực hiện quy định pháp luật đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực vệ sinh môi trường, đặc biệt là đấu thầu cung cấp dịch vụ xử lý rác thải tại một số địa phương gặp khó khăn, vướng mắc…

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Thị Mai Phương thì cho rằng, “Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đưa ra nhiều chính sách mới về quản lý rác thải rắn sinh hoạt và cũng là mô hình phù hợp với các nước có trình độ phát triển”. Để triển khai chính sách trong Luật đòi hỏi Bộ chủ quản phải có hướng dẫn rất cụ thể cho địa phương liên quan đến phân loại rác tại nguồn, các điểm tập kết, trung chuyển…

Cùng quan điểm, đại biểu Nguyễn Chu Hồi, Đoàn ĐBQH Tp.Hải Phòng cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến công tác này chưa đạt kỳ vọng là do chính sách, văn bản hướng dẫn thi hành được xây dựng bởi nhiều Bộ ngành, gây ra chồng chéo trong quá trình vận dụng, không quy được trách nhiệm, khó khắc phục được hạn chế.

Việc phân loại, xử lý chất thải rắn còn khó khăn

Đây cũng là vấn đề các đại biểu Quốc hội đặc ra tại phiên chất vấn tại kỳ họp thứ 6 với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh. Qua báo cáo hiện nay tỷ lệ về thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt rất cao. Tổng hợp từ nguồn báo cáo của 57/63 địa phương, cụ thể ở đô thị tỷ lệ này đạt 96%, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 89%, nông thôn đạt 71%. Tuy nhiên, qua giám sát và thực tế cử tri phản ánh, con số này chưa chuẩn xác, vì hệ thống quy trình phân loại, thu gom, vận chuyển xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa tốt và thiếu các tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật về vấn đề này. Từ đó đại biểu Nguyễn Thị Ngọc Xuân, đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương đề nghị cho biết tiến độ thực hiện các giải pháp để giải quyết vấn đề này?

Trả lời vấn đề chất vấn này, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết, đến năm 2022 tổng lượng rác thải sinh hoạt phát sinh trên toàn quốc khoảng 67.110 tấn/ngày, trong đó ở khu vực đô thị là 36.870 tấn, khu vực nông thôn khoảng 29.455 tấn.

Trong những năm vừa qua, các địa phương đã đẩy mạnh việc thu gom, xử lý rác thải, nhiều nhà máy đốt rác phát triển hoặc là xử lý rác làm vật liệu xây dựng. Hiện cả nước có khoảng 1.326 cơ sở xử lý rác sinh hoạt và 1.207 bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt. Và hiện còn khoảng 65% số rác thải của cả nước cần chôn lấp, còn khoảng 16% tổng số rác thải được các nhà máy chế biến thu hồi và phát triển năng lượng. Do đó, thực tế rác thải sinh hoạt như đại biểu trao đổi là những con số được xử lý bằng hình thức chôn lấp.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, khó khăn hiện nay là trong việc kêu gọi xã hội hóa để xây dựng các nhà máy xử lý rác thải đốt, phát điện. Bên cạnh đó, việc phân loại, xử lý rác tại các nhà máy còn khó khăn. Cụ thể, chúng ta chưa có phân loại rác tại nguồn, làm cũng chưa được triệt để; có một số địa phương không đủ lượng rác để xây dựng các nhà máy xử lý rác thải tập trung…Chính vì vậy, hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện một số giải pháp và ra một số hướng dẫn. Thứ nhất là, ban hành nội dung yêu cầu về kỹ thuật bảo vệ môi trường đối với điểm tập kết trạm trung chuyển chất thải rắn sinh hoạt. Thứ hai là, ban hành yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường đối với phương tiện vận chuyển chất thải, rác sinh hoạt. Thứ ba là, tiêu chí về công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Thứ tư là, giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Thứ năm là, hình thức về số giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng hoặc thể chất, thể tích chất thải. Thứ sáu là, phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng đối với các nhà đầu tư và cung cấp dịch vụ xử lý chất thải. Thứ bảy là, đóng bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt. Bên cạnh đó, vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản hướng dẫn về phân loại rác tại nguồn gồm 3 nguồn chính để cho các địa phương chủ động trong việc phân loại rác tại nguồn.

Trong thời gian tới, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh đề nghị, các địa phương căn cứ vào hướng dẫn của Bộ tập trung tuyên truyền, vận động nhân dân phân loại rác tại nguồn để việc xử lý rác thải được triệt để. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách, quy định các chất thải rắn sinh hoạt trong thời gian tới. Trong đó, ưu tiên của Bộ là cố gắng năm 2024 ban hành bộ định mức kinh tế kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt; tiếp tục rà soát, ban hành các quy chuẩn của quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt… Đây là những nội dung thực hiện theo lộ trình triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Hải Yến

Các bài viết khác