VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP IV 1971 - 1976

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC QUỐC HỘI
(Bài nói của đồng chí Trường Chinh với các đảng viên đại biểu Quốc hội, trong thời gian chuẩn bị khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IV, ngày 04-6-1971)

 

Thưa các đồng chí thân mến,

Quốc hội khóa IV sắp họp kỳ thứ nhất. Hôm nay, Trung ương Đảng triệu tập các đồng chí đảng viên đại biểu Quốc hội về sớm để chuẩn bị cho kỳ họp sắp tới của Quốc hội ta. Nhân dịp này, tôi xin trình bày với các đồng chí một số vấn đề về công tác Quốc hội, để chúng ta thống nhất nhận định. Điều đó sẽ giúp cho chúng ta, những người đảng viên đại biểu Quốc hội, làm tốt nhiệm vụ của mình.

Bài nói của tôi gồm có bốn phần:

I- Vị trí và vai trò của Quốc hội trong chế độ ta.

II- Nhiệm vụ và quyền hạn của người đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

III- Đảng ta lãnh đạo Quốc hội như thế nào?

IV- Làm thế nào cho các kỳ họp của Quốc hội ta đạt kết quả tốt?

I- VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI TRONG CHẾ ĐỘ TA

a) Quốc hội ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do Đảng ta lãnh đạo

Điều 4 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nêu rõ:

"Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".

Điều 43 của Hiến pháp lại nói:

"Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà".

Quốc hội là cơ quan đứng đầu trong bộ máy nhà nước để thi hành chuyên chính dân chủ nhân dân, thực chất là chuyên chính vô sản. Quốc hội là cơ quan thể hiện tập trung ý chí của nhân dân, đồng thời tiêu biểu cho sự nhất trí về chính trị và tinh thần của toàn dân. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, do Quốc hội bầu ra để sử dụng những quyền hạn do Quốc hội giao cho và đã được ghi rõ trong Hiến pháp.

Quyền hạn của Quốc hội gồm 17 điểm được nêu trong Điều 50 và quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gồm 18 điểm được nêu trong Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng nhất của nước nhà. Quốc hội bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bầu Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có quyền bãi miễn các chức vị nói trên. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Nó quyết định và sửa đổi Hiến pháp và pháp luật; phê chuẩn những pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyết định kế hoạch kinh tế của Nhà nước, xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước; ấn định các thứ thuế[1]; quyết định đại xá; quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình, v.v.. Quốc hội làm những nhiệm vụ đó cũng chính là thi hành quyền giám sát tối cao trong bộ máy nhà nước.

Quốc hội cử ra Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để phụ trách công việc hàng ngày của Quốc hội theo đúng quyền hạn mà Hiến pháp đã quy định. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền ra pháp lệnh và giải thích pháp luật; giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, pháp luật và pháp lệnh; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và giải tán các Hội đồng nhân dân nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài (trừ trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định); Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định đặc xá, quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước, quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao, v.v.. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn một số nhân viên cao cấp của Nhà nước, v.v..

Nói một cách cô đọng, những nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được thể hiện chủ yếu trong bốn vấn đề lớn: bầu ra các cơ quan và chức vị cầm quyền cao nhất trong bộ máy nhà nước, quyết định kế hoạch kinh tế nhà nước, lập pháp và giám sát. Bốn vấn đề trên đây thể hiện quyền lực cao nhất của nhân dân tập trung vào Quốc hội.

Cần nhớ rằng: Quốc hội thi hành quyền lập pháp tức là biến những chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành ra pháp luật của Nhà nước để cho toàn dân thi hành. Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Chế độ dân chủ tư sản chủ trương ba quyền phân lập: quyền lập pháp do nghị viện nắm, quyền hành pháp do Chính phủ nắm và quyền tư pháp do tòa án nắm. Các cơ quan đó đều phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản thống trị, áp bức và bóc lột nhân dân lao động, còn nhân dân lao động thì không có thực quyền gì. Chính phủ và tòa án tư sản không phụ thuộc vào nghị viện, mặc dù nghị viện do giai cấp tư sản nắm.

Ta theo chế độ tập quyền và tổ chức nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Bốn quyền: lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát đều tập trung vào cơ quan cao nhất của Nhà nước do nhân dân bầu ra, tức là Quốc hội. Đồng thời, ta có sự phân công, phân nhiệm rành mạch giữa Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Một điều rất quan trọng cần phải nhấn mạnh là các cơ quan nhà nước nói trên đều do Đảng ta lãnh đạo, đều phải chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, cùng có chung một mục đích là hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, đưa xã hội Việt Nam đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Các cơ quan nói trên không thể đối lập nhau, trái lại nhất trí với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta nói: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do Đảng ta lãnh đạo.

b) Quốc hội ta là cơ quan đại diện chân chính của nhân dân, do nhân dân ta trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân

Quốc hội ta là cơ quan đại diện chân chính của nhân dân ta, do nhân dân ta bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội đều là những phần tử ưu tú của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những nhân sĩ dân chủ, tiến bộ tán thành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và tự giác, tự nguyện đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thành phần đại biểu Quốc hội như thế nói lên tính chất Mặt trận rộng rãi của Quốc hội ta, lấy liên minh công nông làm cơ sở, do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Công nhân và nông dân chiếm tuyệt đại đa số trong nhân dân ta. Cho nên để bảo đảm tính chất nhân dân của Quốc hội, thành phần số đông đại biểu Quốc hội phải là công nông.

Đại biểu Quốc hội cũng như tất cả những người làm công tác trong các cơ quan khác của Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Đại biểu Quốc hội có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ, nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Được quy định rõ trong Hiến pháp, những điều trên đây nói lên tính chất nhân dân của Quốc hội ta và tính chất hơn hẳn của chế độ ta.

Có người không hiểu rõ tính chất nhân dân, tính chất đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân của Quốc hội ta, cho nên khi chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội thì chỉ muốn giới thiệu những đảng viên, những cán bộ lãnh đạo của Đảng, những người có trình độ chính trị và văn hóa cao, quên mất chính sách đại đoàn kết của Đảng, tính chất Mặt trận và tính chất nhân dân của chính quyền ta.

c) Quốc hội ta là một bộ phận của Nhà nước ta do giai cấp công nhân lãnh đạo

Giai cấp công nhân nước ta thông qua Đảng của mình, Đảng Lao động Việt Nam, mà lãnh đạo Nhà nước. Ở chế độ ta, vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước là một nguyên tắc tuyệt đối đã được Hiến pháp công nhận. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng thì Nhà nước ta mới thực hiện được nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng thì công tác Quốc hội mới thu được kết quả tốt. Vì vậy, chúng ta phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.

Có người hiểu sự lãnh đạo của Đảng một cách giản đơn, cho rằng việc gì cũng đã có chủ trương, chính sách của Đảng rồi, thì họp Quốc hội chỉ là hình thức. Do đó, không tích cực làm đúng vai trò đại biểu Quốc hội, không góp phần phát huy tác dụng của Quốc hội.

Nhưng mặt khác, có người lầm tưởng rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì có thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Cho nên, trong công tác Quốc hội, đã tách rời nhiệm vụ đại biểu Quốc hội với nhiệm vụ đảng viên, không thấy rõ nhiệm vụ đảng viên đại biểu Quốc hội là phải góp phần lãnh đạo Quốc hội, làm cho công tác Quốc hội đạt kết quả tốt.

Đảng lãnh đạo Quốc hội có nghĩa là phải biến những chủ trương, chính sách lớn của Đảng có quan hệ đến các vấn đề quốc kế, dân sinh thành ra pháp luật của Nhà nước và ý chí của toàn dân, thông qua công tác Quốc hội mà phát huy đến cao độ tác dụng tích cực của những chủ trương, chính sách đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Muốn thế, người đảng viên đại biểu Quốc hội phải thật sự nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, tích cực tuyên truyền, giải thích chủ trương, chính sách đó trong Quốc hội và trong nhân dân, tích cực làm nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.

II- NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu Quốc hội nước ta đã được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội ngày 14-7-1960. Những quy định đó nhằm bảo đảm cho đại biểu Quốc hội thật sự là đại biểu của nhân dân, Quốc hội thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra, thay mặt nhân dân để sử dụng quyền lực tập trung của Nhà nước. Đại biểu Quốc hội vừa có nhiệm vụ đối với Nhà nước, vừa có nhiệm vụ đối với các cử tri.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp của Quốc hội, đóng góp phần tích cực của mình vào sự thành công của các kỳ họp đó. Đây là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của đại biểu Quốc hội, bởi vì trong các kỳ họp của mình, Quốc hội giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của nước nhà, sử dụng quyền bầu cử và bãi miễn các cơ quan cao cấp của Nhà nước, quyết định những vấn đề trọng đại về quốc kế, dân sinh, sử dụng quyền lập pháp và quyền giám sát đối với các cơ quan nói trên.

Trong các kỳ họp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội phản ánh cho Quốc hội ý chí và nguyện vọng của nhân dân và tình hình về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của các địa phương. Cho nên, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội là phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhân dân, gắn liền hoạt động của mình với sản xuất, chiến đấu, công tác, học tập và sinh hoạt xã hội của quần chúng. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân là nhiệm vụ không thể thiếu được của các đại biểu Quốc hội. Chính nhờ đại biểu Quốc hội giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, cho nên mới phản ánh được ý chí và nguyện vọng của nhân dân một cách trung thực, đầy đủ, làm cho những nghị quyết của Quốc hội được quần chúng nhân dân đông đảo tán thành và tự nguyện ra sức phấn đấu để thực hiện.

Các đại biểu Quốc hội có nghĩa vụ trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, nghiêm chỉnh tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Bằng những hành động gương mẫu của mình, các đại biểu Quốc hội thiết thực bảo vệ chế độ và động viên nhân dân thi hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hồ Chủ tịch nói:

"Những người được cử vào Quốc hội sẽ luôn luôn cố gắng là những người đầy tớ trung thành của đồng bào, những đại biểu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội"[2].

Để làm tròn nhiệm vụ của mình, đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, quyền tham gia hội nghị Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình đã được bầu, quyền không bị bắt giam và truy tố nếu không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, nếu không có sự đồng ý của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Đại biểu Quốc hội cũng được Nhà nước cung cấp những khoản phụ cấp và những phương tiện vật chất cần thiết theo yêu cầu công tác của mình.

Quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ là một trong những hình thức giám sát của Quốc hội đối với cơ quan chấp hành của Quốc hội. Khi thấy có vấn đề cần chất vấn Hội đồng Chính phủ hoặc một cơ quan nào đó thuộc Hội đồng Chính phủ thì đại biểu Quốc hội ghi rõ lời chất vấn gửi đến Đoàn Chủ tịch kỳ họp và trong thời gian Quốc hội không họp thì gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, để Đoàn Chủ tịch hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nghiên cứu và chuyển cho cơ quan bị chất vấn. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thời hạn 5 ngày; trong trường hợp cần phải điều tra thì thời hạn trả lời là một tháng. Nếu đại biểu chất vấn không đồng ý về sự trả lời, thì có thể yêu cầu thảo luận trước Quốc hội.

Quyền của đại biểu Quốc hội tham gia hội nghị Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình được bầu là một biện pháp thuận lợi để cho đại biểu Quốc hội đi sát địa phương, có thể nắm được dễ dàng những ý nguyện của quần chúng và tình hình ở địa phương.

Quyền đại biểu Quốc hội không bị bắt giam và truy tố nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không phải là một đặc quyền của cá nhân đại biểu, vì trong chế độ ta không ai có thể có một thứ đặc quyền, đặc lợi nào. Quyền bất khả xâm phạm của đại biểu Quốc hội nhằm bảo đảm sự hoạt động của Quốc hội, tránh cho đại biểu Quốc hội mọi áp lực, mọi ảnh hưởng không chính đáng trong khi làm nhiệm vụ người đại biểu. Nếu vì phạm pháp quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết định.

Trong khi sử dụng quyền hạn của mình, đại biểu Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước Quốc hội. Nếu đại biểu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì cử tri có thể chiếu theo quy định của pháp luật mà bãi miễn đại biểu Quốc hội, mặc dù chưa hết nhiệm kỳ. Quốc hội cũng có thể xét định về những trường hợp đại biểu Quốc hội không xứng đáng là đại biểu Quốc hội nữa. Yêu cầu của nhân dân đối với Quốc hội rất cao, cho nên nếu đại biểu Quốc hội nào phạm pháp, bị Tòa án kết án tù, thì người đó đương nhiên mất quyền đại biểu.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, các đại biểu Quốc hội không chịu trách nhiệm trước cử tri, cử tri không có quyền bãi miễn các đại biểu Quốc hội. Khi ra ứng cử, các đại biểu của giai cấp tư sản thường hứa hẹn rất nhiều với cử tri, nhưng khi đã trúng cử rồi thì họ không quan tâm mảy may đến lợi ích của nhân dân, thậm chí còn phản bội lại lợi ích của nhân dân, đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của nhân dân để phục vụ cho lợi ích của giai cấp bóc lột.

Quốc hội ở các nước tư bản chủ nghĩa thường gồm những đại biểu của các giai cấp, các tập đoàn mà quyền lợi mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc. Sự mâu thuẫn đó được bộc lộ ra trong Quốc hội bằng sự tranh giành, cãi cọ nhau kịch liệt, thậm chí có khi đấm eas nhau nữa là khác.

Quốc hội ta gồm những đại biểu của các tầng lớp nhân dân mà quyền lợi căn bản là nhất trí. Những đại biểu đó họp Quốc hội để nói lên ý chí và nguyện vọng của nhân dân, để góp phần xây dựng những chủ trương, chính sách lớn mang lại lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc. Do đó, ở Quốc hội ta không có tình trạng tranh giành, đánh lộn nhau. Có lúc thảo luận sôi nổi một vấn đề hoặc phê phán nghiêm khắc một sự việc, thì đó không phải là vì mâu thuẫn căn bản, mà là để làm sáng tỏ thêm vấn đề, để bổ sung những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho được đầy đủ hơn, hoặc để khắc phục hiện tượng thi hành không đúng những chủ trương, chính sách đó.

Có người nói: trong các kỳ họp của Quốc hội ta, không thấy cãi cọ gay go, mà chỉ thấy thuận một chiều, thế là không dân chủ. Nói như vậy là vì chưa hiểu thực chất của vấn đề hoặc vì cố ý xuyên tạc sự thật.

Lại có người nghĩ rằng đại biểu Quốc hội đi họp là phải mang tất cả ý kiến và nguyện vọng của nhân dân ra nói ở Quốc hội. Điều đó về nguyên tắc vẫn đúng, nhưng trong thực tế thì như vậy không nhất định đã là tốt và cần thiết. Người đại biểu Quốc hội có thể thường xuyên tiếp xúc với bất cứ một cơ quan hay là một nhân viên nhà nước nào, có thể tự mình liên hệ hoặc thông qua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để liên hệ, tiếp xúc. Khi họp Quốc hội thì giải quyết các vấn đề quan trọng, các chủ trương, chính sách lớn và chính những cái đó đã biểu hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và lợi ích của quần chúng nhân dân. Đại biểu Quốc hội phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân qua sự thảo luận các vấn đề đó. Đại biểu Quốc hội cũng có thể phê bình, chất vấn các cơ quan hay là nhân viên nhà nước, nhưng nếu phê bình, chất vấn một cách thiếu cân nhắc, thiếu lựa chọn, thì không hợp với tính chất và yêu cầu của Quốc hội ta.

Vì vậy, trong kỳ họp người đại biểu Quốc hội phải làm đúng chương trình nghị sự của kỳ họp, theo đúng nội quy sinh hoạt của Quốc hội, nắm những vấn đề chính để góp phần làm cho kỳ họp thành công tốt đẹp. Giữa hai kỳ họp, cần ra sức làm tốt công tác ở cương vị mình; phải làm đúng và tuyên truyền giải thích cho quần chúng làm đúng những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, với phong trào quần chúng để tìm hiểu nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, cũng phải liên hệ với các cơ quan của Đảng, Mặt trận và Nhà nước để xem xét việc thực hiện chủ trương, chính sách và kế hoạch, đề đạt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân với các cơ quan và các người phụ trách. Khi cần thiết thì phản ánh với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

III- ĐẢNG TA LÃNH ĐẠO QUỐC HỘI NHƯ THẾ NÀO?

1. Như trên đã nói, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do Đảng lãnh đạo. Việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là một vấn đề nguyên tắc.

Muốn cho Quốc hội hoạt động đúng chức năng của mình như Hiến pháp đã quy định thì nhất thiết phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Quốc hội.

Những quyết định, những hoạt động của Quốc hội có quan hệ rất lớn và rất mật thiết với đời sống của nhân dân. Nếu không bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, thì những sai lầm, thiếu sót của Quốc hội sẽ tác hại đến Nhà nước và đến toàn dân.

Việc Đảng lãnh đạo Quốc hội không phải chỉ là việc riêng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Đảng đoàn Quốc hội, mà còn là việc chung của tất cả các đồng chí đảng viên đại biểu Quốc hội và trong một chừng nào đó còn là nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng ở khu, tỉnh, thành phố.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội nhằm mục tiêu gì? Nhằm những mục tiêu dưới đây:

a) Bảo đảm cho hoạt động của Quốc hội, các quyết định của Quốc hội thể hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, góp phần tích cực đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.

b) Phát huy tác dụng của Quốc hội là cơ quan dân cử cao nhất để thể hiện cho được quyền làm chủ của nhân dân ta đối với Nhà nước ta.

c) Tăng cường quyền lực của Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, để trừng trị những hành động phản cách mạng, đồng thời động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.

Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội gồm có:

a) Đảng đề ra đường lối, chủ trương, kế hoạch xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa để Quốc hội thảo luận và biểu quyết. Tất cả những chủ trương, chính sách lớn của Đảng để cho toàn dân thi hành cần được đưa ra Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để biến thành luật pháp (luật và pháp lệnh) của Nhà nước. Quốc hội không thể biểu quyết trái đường lối của Đảng. Điều quan trọng là Đảng đưa vấn đề gì ra Quốc hội và đưa ra thế nào để Quốc hội thông suốt, góp phần xây dựng và biểu quyết cho tốt.

b) Lãnh đạo cụ thể các kỳ họp của Quốc hội là làm cho mỗi kỳ họp có tác dụng thiết thực, đồng thời là một dịp biểu hiện sự nhất trí giữa Đảng và nhân dân mà Quốc hội là đại diện, và sự nhất trí trong nội bộ Quốc hội.

c) Lãnh đạo cụ thể các hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội giữa hai kỳ họp, bảo đảm cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm việc đúng chức năng và nhiệm vụ của mình và các đại biểu Quốc hội làm tốt vai trò đại biểu của nhân dân.

Phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.

Đảng lãnh đạo Quốc hội bằng Đảng đoàn và nói rộng ra là thông qua toàn thể các đại biểu là đảng viên.

a) Trung ương thành lập Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị. Đảng đoàn Quốc hội giúp Trung ương lãnh đạo và chỉ đạo cụ thể công tác Quốc hội.

b) Tất cả các đồng chí đảng viên đại biểu Quốc hội đều tham gia lãnh đạo Quốc hội trong quá trình Quốc hội họp, đặc biệt các đại biểu là đảng viên được bầu vào Đoàn Chủ tịch.

c) Các cấp ủy giúp cho các đại biểu Quốc hội ở địa phương hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng, hướng dẫn và ủng hộ các đại biểu Quốc hội hoạt động, tạo điều kiện cho các đại biểu đó phát huy vai trò và tác dụng của mình.

2. Các đảng viên trong Quốc hội tham gia lãnh đạo Quốc hội như thế nào?

Trước hết, các đảng viên đại biểu Quốc hội phải nhận thức đầy đủ rằng mình do Đảng giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội để bênh vực và phấn đấu nhằm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng trong Quốc hội.

Người đảng viên đại biểu Quốc hội phải phát huy cho được tác dụng nòng cốt, gương mẫu của mình trong khi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội. Đó là cách lãnh đạo tốt nhất. Với tinh thần trách nhiệm của người đảng viên đối với Đảng, họ phải tham gia đầy đủ các cuộc họp của Quốc hội. Quốc hội họp là để bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của nước nhà. Khi Quốc hội họp thì người đại biểu Quốc hội không thể coi nhiệm vụ chính trị nào khác quan trọng hơn việc họp Quốc hội (tất nhiên cũng có một số trường hợp khẩn cấp cần cân nhắc, nhưng đó là trường hợp đặc biệt và ngoại lệ). Phải tích cực tham gia các cuộc thảo luận, tích cực góp ý kiến và kinh nghiệm của mình, đồng thời lắng nghe ý kiến của những đại biểu ngoài Đảng, giúp Quốc hội quyết định cho đúng và Chính phủ chấp hành cho tốt.

Trong các kỳ họp Quốc hội, người đảng viên mang ý kiến và nguyện vọng của quần chúng, mang thực tế của đơn vị, của địa phương mình làm sáng tỏ thêm đường lối, chính sách của Đảng, bổ sung cho đường lối, chính sách đó, bênh vực đường lối, chính sách đó trước Quốc hội, làm cho Quốc hội đi đến thống nhất ý kiến với Đảng một cách có ý thức và tự nguyện. Trong Quốc hội, người đảng viên đại biểu có quyền phê phán những việc sai lầm của các cơ quan nhà nước, nhưng phải trên cơ sở thống nhất với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đảng viên còn có nhiệm vụ bồi bổ cho các chủ trương, chính sách của Đảng đưa ra Quốc hội, làm cho các chủ trương, chính sách đó được hoàn thiện hơn.

Mặt khác, người đảng viên đại biểu Quốc hội tuyệt đối không thể lấy lý do rằng đại biểu Quốc hội là đại biểu cho nhân dân mà có quyền phát biểu những điều trái với chủ trương, chính sách của Đảng. Quyền lợi của Đảng và quyền lợi của nhân dân là nhất trí. Người đảng viên đại biểu Quốc hội đứng trên lập trường Đảng, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng mà hoạt động trong Quốc hội tức là phục vụ quyền lợi của nhân dân. Những đảng viên đại biểu Quốc hội không được hành động trái với chủ trương, chính sách của Đảng, như thế có phải là hạn chế quyền tự do dân chủ của đảng viên không? Tuyệt đối không. Nếu đảng viên có điều gì không nhất trí với Đảng, thì có quyền phát biểu trong hội nghị Đảng, phát biểu với Đảng đoàn Quốc hội, với Trung ương Đảng. Trong Quốc hội, đảng viên của Đảng phải thống nhất ý kiến với Đảng, đó là nguyên tắc dân chủ tập trung.

Khi được cử vào một Uỷ ban nào đó của Quốc hội thì người đảng viên đại biểu Quốc hội phải tích cực tham gia hoạt động của Uỷ ban, có mặt tại các kỳ họp của Uỷ ban và tích cực góp phần xây dựng công tác của Uỷ ban.

Giữa hai kỳ họp của Quốc hội, người đại biểu Quốc hội là đảng viên hoặc ngoài Đảng đều phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Đảng viên ta làm công tác Quốc hội cần khắc phục hoặc đề phòng hai khuynh hướng tư tưởng sai lầm dưới đây:

Một là, coi nhẹ Quốc hội và công tác Quốc hội, cho rằng mọi việc đã có Đảng lãnh đạo; họp Quốc hội, làm công tác Quốc hội chỉ là hình thức mà thôi.

Hai là, coi Quốc hội là cơ quan đứng trên Đảng, không bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Quốc hội; hơn nữa đối lập Quốc hội với Đảng, lợi dụng Quốc hội để chọi lại Đảng.

IV- LÀM THẾ NÀO CHO CÁC KỲ HỌP CỦA QUỐC HỘI TA
ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ TỐT?

Quốc hội làm việc chủ yếu bằng hội nghị. Quyền lực của Quốc hội thể hiện bằng những quyết nghị của các kỳ họp Quốc hội. Tại các kỳ họp, Quốc hội thảo luận và thông qua các đạo luật để toàn dân thi hành, Quốc hội quyết định kế hoạch nhà nước, ngân sách nhà nước và các vấn đề quan trọng khác về quốc kế, dân sinh do Hội đồng Chính phủ đề nghị. Cũng tại các kỳ họp, Quốc hội thực hiện chức năng giám sát Chính phủ bằng cách nghe Chính phủ báo cáo công tác, thảo luận và có thái độ đối với các báo cáo đó. Đường lối của Đảng được đưa ra nhân dân thế nào? Đảng ta và nhân dân ta có nhất trí hay không? Nội bộ nhân dân ta có nhất trí hay không? Công tác của Chính phủ đem lại lợi ích gì cho nhân dân, có được nhân dân tán thành hay không? Đảng ta tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân như thế nào? Tất cả những vấn đề đó đều được thể hiện qua các kỳ họp của Quốc hội.

Cho nên, các đồng chí ta cần nhận thức đúng tầm quan trọng của các kỳ họp của Quốc hội để xác định thái độ nghiêm chỉnh tham gia các kỳ họp đó, làm tròn trách nhiệm Đảng giao cho.

Hiến pháp quy định Quốc hội mỗi năm họp hai kỳ[3]. Nội dung các kỳ họp của Quốc hội như sau:

Thường trong kỳ họp thứ nhất, Quốc hội thảo luận và thông qua kế hoạch và ngân sách nhà nước trong năm; trong kỳ họp thứ hai, Quốc hội thông qua quyết toán ngân sách của năm trước.

Khi cần thì Chính phủ làm báo cáo chính trị, nói về tình hình và nhiệm vụ của Nhà nước và nhân dân ta. Thực chất báo cáo chính trị của Chính phủ trước Quốc hội là một văn kiện công khai hóa đường lối, chủ trương của Đảng.

Ít nhất mỗi năm một lần Quốc hội nghe báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong tất cả các kỳ họp của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều phải báo cáo với Quốc hội công việc của mình giữa hai kỳ họp.

Trước kia, trong kỳ họp nào Quốc hội cũng nghe Uỷ ban Thống nhất của Chính phủ báo cáo về tình hình đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, vì đây là một vấn đề mà toàn dân ta đều quan tâm. Mấy năm gần đây, Quốc hội thường nghe báo cáo về đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao.

Về việc thông qua các đạo luật, khi nào Chính phủ hoặc những cơ quan khác của Nhà nước, những đại biểu Quốc hội (nghĩa là những tổ chức hoặc cá nhân có quyền đề ra sáng kiến pháp luật) trình các dự án luật, thì Quốc hội sẽ thảo luận và thông qua.

Ngoài ra, Quốc hội cũng thảo luận và thông qua các vấn đề khác, như biểu thị thái độ đối với tình hình trong nước, tình hình quốc tế, quyết định về vấn đề thay đổi địa giới các tỉnh, v.v..

Trong các vấn đề trên, Quốc hội cần thảo luận kỹ: báo cáo chính trị của Chính phủ, các dự án luật, các dự án kế hoạch và ngân sách, báo cáo về tình hình đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Đối với các vấn đề đó, Quốc hội thường có biểu quyết thông qua hoặc có nghị quyết biểu thị thái độ.

Về các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Quốc hội có thể kết hợp thảo luận trong khi thảo luận báo cáo chính trị của Chính phủ hoặc bố trí thì giờ thảo luận riêng tùy theo tầm quan trọng của các vấn đề mà các báo cáo của Tòa án và của Viện kiểm sát đề ra.

Về báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, từ trước đến nay, cứ mỗi lần Quốc hội họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều có báo cáo công tác. Đây là báo cáo hành chính, kể những việc đã làm của cơ quan thường trực của Quốc hội, cốt để Quốc hội biết và nếu có vấn đề cần phê chuẩn thì phê chuẩn; nói chung không có gì cần thảo luận. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải làm báo cáo đúng như luật định, nhưng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem lúc nào báo cáo có những vấn đề quan trọng cần đọc trước Quốc hội thì đọc; còn những báo cáo thuần túy hành chính thì phân phối cho các đại biểu Quốc hội đọc và thẩm tra.

Ngoài các vấn đề trên đây, trong mỗi kỳ họp của Quốc hội, nếu Đảng và Chính phủ thấy có vấn đề gì quan trọng khác cần đưa ra Quốc hội, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Quốc hội nghe báo cáo, thảo luận và biểu thị thái độ hoặc nghe mà không thảo luận.

Các kỳ họp của Quốc hội là rất quan trọng, cho nên việc lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải được thực hiện đầy đủ và tập trung nhất ở các kỳ họp đó, để bảo đảm đạt kết quả tốt.

Muốn cho các kỳ họp của Quốc hội đạt kết quả tốt, việc lãnh đạo của Đảng trong các kỳ họp đòi hỏi tất cả các đồng chí đều phải tích cực tham gia để thực hiện đúng và tốt yêu cầu của Đảng.

Cụ thể cần lãnh đạo thực hiện tốt các việc sau đây:

1. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ cần chuẩn bị tốt các kỳ họp của Quốc hội

Công tác chuẩn bị tốt các kỳ họp của Quốc hội được thể hiện trên các mặt sau đây:

- Đặt chương trình kỳ họp sát với yêu cầu của tình hình.

- Làm tốt các báo cáo, các đề án sẽ trình Quốc hội.

- Gợi ý kịp thời để các đại biểu chuẩn bị tham luận cho có nội dung tốt.

- Cung cấp đầy đủ và kịp thời tư liệu cần thiết cho các đại biểu Quốc hội.

2. Tiến hành tốt việc thảo luận trong các tổ

Thảo luận ở tổ là một hình thức làm việc rất dân chủ và rất thích hợp với hoàn cảnh nước ta. Tất cả các đồng chí đều cần tham gia việc thảo luận ở các tổ.

Khi thảo luận, phải nắm vững những vấn đề chính và những điểm quan trọng; tập trung ý kiến vào đó, tránh thảo luận lan man về các chi tiết, vụn vặt, để mọi người đều hiểu và thật sự tán thành các chủ trương, chính sách của Đảng được đề nghị trước Quốc hội.

Cần để cho nhiều người phát biểu ý kiến, nhất là những đại biểu ngoài Đảng. Tránh tình trạng một số đồng chí tranh nhau nói hết thì giờ của người khác. Phải nhận rằng những đại biểu ngoài Đảng có thể có những ý kiến tốt giúp cho ta nhìn nhận vấn đề và giải quyết vấn đề một cách toàn diện và khách quan hơn.

Các thành viên của Hội đồng Chính phủ là đại biểu Quốc hội cần sắp xếp công tác để có thể dự các cuộc họp tổ và nghe ý kiến của các đại biểu khác, không nên mượn cớ là mình bận nhiều việc mà không dự.

Lúc các tổ họp để thảo luận vấn đề gì, nên có chuyên viên của Chính phủ về vấn đề đó tham dự để nghe ý kiến các đại biểu và nếu cần thì trình bày thêm vấn đề.

3. Chuẩn bị tốt các tham luận đọc ở hội trường

Các tham luận phải được chuẩn bị tốt. Tham luận không cần dài, song cốt nhất là nội dung phải tốt, phản ánh trung thực được tình hình và nguyện vọng của nhân dân các địa phương, thái độ của các chính đảng, các đoàn thể nhân dân; có tác dụng tốt góp ý kiến và kinh nghiệm cho Chính phủ, đồng thời động viên và thuyết phục được quần chúng.

Các đồng chí phụ trách các tổ có trách nhiệm giúp đỡ ý kiến và duyệt lại các tham luận để bảo đảm nội dung tốt, gọn, đọc không quá thì giờ đã quy định.

Một vài kinh nghiệm về làm tham luận: về nội dung, tán thành chủ trương, đường lối, liên hệ với công tác của địa phương mình, của ngành mình; hứa hẹn bản thân mình sẽ làm tốt và động viên nhân dân làm tốt; có thể phê phán việc chấp hành không đúng chính sách, nhưng phải có chứng cớ cụ thể, khách quan, đúng mức và có tính chất xây dựng. Nêu những kinh nghiệm thành công hay là thất bại trong công tác, kiến nghị những điều thiết thực, bổ ích với Chính phủ, v.v.. Đối với những vấn đề như kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thì chủ yếu là bày tỏ thái độ và nhấn mạnh nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.

4. Làm tốt việc biểu quyết các vấn đề ở Quốc hội

Trước lúc lấy biểu quyết các vấn đề, Đoàn Chủ tịch thường hỏi các đại biểu còn có ý kiến gì nữa không? Lúc đó, nếu ai còn nêu ý kiến thì đương nhiên phải thảo luận thêm và có khi mất nhiều thì giờ. Có tình trạng ấy là vì:

- Có đại biểu không nghiên cứu kỹ tài liệu hoặc không tham gia thảo luận ở tổ; những ý kiến nêu ra đã được giải thích rồi cũng không biết; lúc Đoàn Chủ tịch sắp lấy biểu quyết mới đột nhiên đưa ra ý kiến của mình, gây ra việc thảo luận không cần thiết.

- Có đại biểu đã phát biểu ý kiến ở tổ, nhưng không thấy ý kiến đó được chấp nhận và không hiểu lý do vì sao, cho nên cố đề nghị lại ý kiến của mình trước Quốc hội.

- Có đại biểu không chuẩn bị ý kiến để phát biểu, lúc thấy người khác phát biểu ý kiến cũng giơ tay xin phát biểu.

- Có đại biểu có một vài ý kiến lặt vặt, đáng lẽ có thể ghi vào giấy chuyển cho Đoàn Chủ tịch hoặc Đoàn thư ký, nhưng đến lúc lấy biểu quyết cũng cố nêu ra thành một vấn đề để thảo luận.

- Có đại biểu khi thảo luận đã xong, lúc Đoàn Chủ tịch đang lấy biểu quyết cũng giơ tay xin phát biểu ý kiến, làm mất trật tự.

Tuy vậy, những sự trục trặc trong vấn đề lấy biểu quyết ở Quốc hội không phải đều do các đại biểu gây ra, mà một phần không nhỏ còn do các ban dự thảo văn kiện của Quốc hội thảo không tốt, việc tiếp thụ ý kiến của các tổ và bổ sung, chỉnh lý văn kiện của Quốc hội chưa chu đáo.

Muốn làm tốt việc biểu quyết các vấn đề ở hội trường, trước hết phải chuẩn bị văn kiện cho tốt và tiến hành tốt việc thảo luận ở tổ. Những vấn đề đã thảo luận và giải thích ở các tổ hoặc ở các phiên họp riêng rồi, lúc lấy biểu quyết ở hội trường, nếu không thật mười phần cần thiết, thì không nên gây thành những cuộc thảo luận. Chúng ta yêu cầu phải biểu quyết đúng, nhưng chúng ta cũng phải biết phân biệt vấn đề chính và vấn đề phụ, vấn đề cần đề ra để thảo luận với vấn đề không cần đề ra để thảo luận ở hội trường.

5. Sử dụng tốt quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội

Quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đã ghi trong Hiến pháp, trong Luật tổ chức Quốc hội và trong Nội quy các kỳ họp của Quốc hội cần được hiểu đúng và sử dụng đúng.

Có đại biểu hiểu chất vấn là điều gì không biết thì hỏi cho biết, hay là hỏi để gợi ý cho Chính phủ đưa vấn đề ra trình bày trước Quốc hội. Do đó, đưa ra rất nhiều câu hỏi và về câu nào cũng muốn được Chính phủ trả lời trước Quốc hội.

Chất vấn là một hình thức làm việc và cũng là một quyền của đại biểu Quốc hội dùng để bênh vực lợi ích của nhân dân và của Nhà nước, trong lúc mình thấy rõ là cơ quan hoặc nhân viên nhà nước làm không đúng và gây thiệt hại cho nhân dân, cho Nhà nước.

Nếu việc chất vấn làm đúng như trên, thì cơ quan bị chất vấn nhất định phải trả lời trước Quốc hội, khi Quốc hội không họp thì trả lời cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Chỉ những việc quan hệ đến bí mật nhà nước thì mới được phép không trả lời. Việc chất vấn và trả lời chất vấn nếu làm đúng, thì có tác dụng tốt là đề cao ý thức trách nhiệm của Hội đồng Chính phủ và các thành viên của Hội đồng Chính phủ đối với Quốc hội, thể hiện Quốc hội sử dụng tốt quyền giám sát của mình.

Đương nhiên, đại biểu Quốc hội có điều gì muốn biết hoặc muốn hiểu rõ hơn cũng có thể hỏi. Trong trường hợp đó, cơ quan trả lời chỉ cần trả lời riêng cho đại biểu đã đề ra câu hỏi. Trong kỳ họp Quốc hội, việc đặt câu hỏi để biết như thế, nếu không thật cần thiết, thì nên tránh, để bớt việc cho các cơ quan phụ trách.

6. Đặt liên hệ tốt giữa các đoàn đại biểu địa phương, các tổ với thường trực Đoàn Chủ tịch

Cần phân biệt sự khác nhau giữa đoàn đại biểu địa phương và tổ làm việc ở Quốc hội. Đoàn là một hình thức tổ chức của các đại biểu cùng một địa phương, có sự quan hệ thường xuyên với nhau và liên hệ với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong lúc Quốc hội không họp; tổ chỉ là một hình thức làm việc trong kỳ họp Quốc hội mà thôi.

Người đại biểu Quốc hội ở trong Đoàn hoặc trong tổ là để liên hệ và trao đổi ý kiến với nhau. Đoàn hay là tổ đều không lấy đa số bắt buộc thiểu số phải phục tùng; trái lại, người đại biểu vẫn có thể giữ ý kiến độc lập của mình trước Quốc hội.

Có vấn đề trao đổi ý kiến trong đoàn, ví dụ như vấn đề giới thiệu những người phụ trách các cơ quan lãnh đạo Nhà nước; có vấn đề chỉ cần trao đổi ý kiến trong tổ, ví dụ những ý kiến về các báo cáo của Chính phủ hoặc về một dự luật đang thảo luận ở tổ.

Sự liên hệ giữa các đoàn đại biểu địa phương, các tổ với thường trực Đoàn Chủ tịch là cần thiết để bảo đảm cho kỳ họp thành công tốt đẹp. Muốn thế, các đồng chí phụ trách đoàn hay là tổ phải liên hệ chặt chẽ với các đồng chí trong Đảng đoàn Quốc hội...


 

[1]. Do Nghị quyết ngày 10-4-1965, để chủ động và kịp thời trong "tình hình mới", Quốc hội đã giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sử dụng những quyền hạn sau đây:

"- Quyết định kế hoạch kinh tế nhà nước; xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của Nhà nước;

- Ấn định các thứ thuế;

- Phê chuẩn việc phân vạch địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương".

Đồng thời, Nghị quyết nói trên của Quốc hội cũng ghi rõ:

"Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội phê chuẩn những nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề ghi ở trên, trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội".

[2]. Lời phát biểu tại Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội ra mắt cử tri, ngày 24-4-1960.

[3]. Trong điều kiện có chiến tranh chống Mỹ, nói chung Quốc hội chỉ họp mỗi năm một kỳ.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.