LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM Tập 1 (1946 - 1960)

 

QUỐC HỘI VỚI SỰ NGHIỆP ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT DÂN TỘC
CHỐNG GIẶC NGOÀI THÙ TRONG, XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1/1946 - 12/1946)

 

1. Quốc hội với việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến (3-2-1946)

Sau thắng lợi của Tổng tuyển cử, tình hình chính trị ở nước ta có những diễn biến phức tạp mới.

Ở miền Nam, cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp lan rộng đến cả Tây Nguyên và miền Nam Trung Bộ, nhiều mặt trận bị vỡ. Cuộc kháng chiến đang gặp những khó khăn mới. Ở miền Bắc, quân Pháp từ Vân Nam trở lại chiếm Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và một số nơi ở Tây Bắc. Thực dân Pháp còn mở rộng xâm lược sang cả Campuchia và Lào - Việt Quốc, Việt Cách đã khai thác triệt để tình hình khó khăn phức tạp trên để gây sức ép với chính quyền cách mạng. Theo bản "Biện pháp đoàn kết" ký giữa Việt Minh với Việt Quốc, Việt Cách thì Chính phủ liên hiệp lâm thời thành lập từ ngày 1-1-1946 sẽ làm việc cho đến khi triệu tập Quốc hội (Điều 1, Điều 4) và Quốc hội có nhiệm vụ thảo Hiến pháp, thành lập Chính phủ quốc gia liên hiệp chính thức, quy định nhiệm kỳ của Chính phủ ấy (Điều 4, Điều 5 và Điều 6). Vậy mà chưa đầy 10 ngày sau khi thành lập, dưới cái vỏ "để thống nhất mọi lực lượng chống xâm lăng", trên tờ Việt Nam số 46, 47 ra ngày 9-1-1946, Việt Quốc đã công khai kêu gọi giải tán Chính phủ liên hiệp lâm thời và Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức cần phải thành lập ngay, dẫu rằng chưa triệu tập được Quốc hội ! cũng báo đó, số 48 ngày 10-1-1946, lại đòi hỏi: "Chính phủ liên hiệp quốc gia lâm thời còn đợi đến bao giờ mới giải quyết vấn đề thực dân Pháp ? liệu có giải quyết được không ? Nếu không thì mau mau rút lui"! "Dân chúng đương hoang mang và mong thành lập ngay một Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức"! ... Tiếp theo luôn mấy kỳ báo, Việt Quốc kích động vấn đề này và rêu rao Chính phủ liên hiệp lâm thời là Chính phủ Việt Minh cộng sản hơn cả Nga (Việt Nam, số 50, 12-1-1946). Họ còn trâng tráo viết: "Tổ quốc chưa cần đến mấy trăm ông nghị rút lui từ các nẻo về kinh đô với hai bàn tay trắng" (Việt Nam, số 51, 13-1-1946). Cùng với báo Việt Nam, tờ Thiết Thực còn đưa cả những người đã tham gia vào nội các Trần Trọng Kim để đề nghị quốc dân lựa chọn vào Bộ Nội vụ và Quốc phòng của Chính phủ chính thức sắp tới. Họ muốn làm mất tín nhiệm của Chính phủ, gây rối ren hoang mang trong dân chúng, đẩy tình hình đến một cuộc khủng hoảng chính trị nhằm thủ tiêu trên thực tế kết quả Tổng tuyển cử và gây sức ép đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh để tranh thêm các ghế trong Chính phủ chính thức, hòng làm biến chất nhà nước cách mạng bằng biện pháp "hoà bình". Họ biết rõ rằng, tình hình chính trị càng ổn định, nhất là khi quân Tướng rút về nước, thì số phận của họ sẽ rất gay go. Thành lập Chính phủ liên hiệp thống nhất ngay không cần họp Quốc hội có nghĩa Tổng tuyển cử và Quốc hội là vô nghĩa, là bất chấp ý chí, nguyện vọng của nhân dân và những điều sơ đẳng nhất về mặt pháp lý của một nhà nước độc lập có chủ quyền. đáp lại những đòi hỏi vô lý và phá hoại của Việt Quốc, Việt Cách, báo Sự thật của Đảng (số 11, 10-1-1946) đã viết: "Anh em (tức Việt Quốc, Việt cách-TG) làm như thể Chính phủ từ 4 tháng nay chưa từng làm gì để chống thực dân Pháp cả. Đợi được anh em lên tiếng thì có lẽ Hà Nội đã mất rồi! Vả lại Chính phủ liên hiệp lâm thời thành lập chưa đầy 10 ngày, ít ra anh em cũng gắng đợi cái Chính phủ ấy làm việc đã chứ !" ... "và không lý nào cụ Nguyễn Hải Thần, bác sĩ Trương Đinh Tri và ông Nguyễn Tường Long vừa được anh em cử vào Chính phủ ấy lại "hoá đỏ" nhanh chóng thế!". Còn về việc họp Quốc hội, báo Sự Thật viết: "Cần hiểu rằng theo thể lệ Tổng tuyển cử ban hành ngày 17-10-1945 và theo hoan cảnh giao thông hiện nay, cuộc Tổng tuyển cử muốn hoàn thành ít nhất cũng phải 2 tháng nữa, kể từ ngày 6-1-1946, ngày Tổng tuyển cử lần đầu tiên" ."Bởi vì Tổng tuyển cử có một số nơi phải bầu bổ sung: Muốn bầu lại, ít nhất cũng phải 2 tuần sau ngày 6-1-1946. Bầu lại xong còn kiểm phiếu, yết danh những người trúng cử, đợi xem có ai khiếu nại điều gì không, đợi xử xong những vụ khiếu nại ấy; những việc ấy chiếm ít nhất là 4 tuần lễ. Rồi danh sách các nhà trúng cử phải từ các tỉnh đệ trình về Chính phủ để Chính phủ lại triệu tập; và như thế cũng phải mất 2 tuần lễ nữa. Cuối cùng phải đợi đại biểu các tỉnh từ Cà Mau, Hà Tiên, ra tới Hà Nội. Nhanh lắm tháng ba tới, Quốc hội mới có thể khai mạc". Báo Sự Thật kêu gọi họ "tôn trọng ý nguyện của 95 phần trăm công dân Việt Nam khắp nước đã đi bỏ phiếu trong ngày Tổng tuyển cử vừa qua, gắng đợi và thành lập Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức vào ngày triệu tập Quốc hội. Và trong khi chờ đợi ngày triệu tập Quốc hội để thành lập Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức, anh em nên gắng sức cùng toàn thể đồng bào ủng hộ hai cụ Chánh, Phó Chủ tịch và Chính phủ liên hiệp lâm thời trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc".

Trong khi đó, Đảng và Chính phủ đã cố gắng hoàn tất mọi công việc chuẩn bị để tiến tới kỳ họp thứ nhất của Quốc hội một cách khẩn trương, chu đáo, thể hiện sự tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời tránh bất cứ một sơ hở nhỏ nào để kẻ thù có thể lợi dụng xuyên tạc. Cũng thông qua báo Sự Thật, Đảng đã kêu gọi "hãy gấp rút chuẩn bị mở Quốc hội" . "Các vị đại biểu hãy gấp rút sửa soạn đi dự Quốc hội. Muốn thế, đại biểu tỉnh nào nên mở ngay những cuộc khai hội rộng rãi với đồng bào tỉnh ấy, đặng thảo luận về Hiến pháp và thu thập ý kiến dân, dân nguyện, về ngoài Hiến pháp nữa". Đồng thời "việc sửa soạn mở Quốc hội không phải là việc riêng của những đại biểu. Nó phải là việc chung của cả dân tộc. Vậy các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân hãy cùng các đại biểu mở những cuộc khai hội thảo luận lấy những ý kiến chung trao cho các đại biểu mang lên Quốc hội. Các vị đại biểu thu thập những bản dân nguyện hãy xếp dọn những ý kiến trong đó vào từng vấn đề để cho công việc thảo luận và giải quyết của Quốc hội được mau chóng và hợp lý". Trên tinh thần chung đó, bài báo còn gợi ý ra một loạt các vấn đề cụ thể để nhân dân thảo luận cho ý kiến như: Về kinh tế tài chính, chế độ thuế khoá, cải cách và giảm nhẹ địa tô, chế độ công điền công thổ, tiền lương, lập quốc gia Ngân hàng và phát hành giấy bạc, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp sửa chữa đê điều, đưòng xá, cầu cống...; về chinh trị, Hiến pháp và bộ luật mới, các vấn đề đảng phải, ban hành các quyền tự do dân chủ, bài trừ nội phản, trừng trị Việt gian, quyền hạn giữa các Uỷ ban công nhân, Uỷ ban viên chức và Uỷ ban giám đốc trong các nhà máy, công sở, định chính sách ngoại giao, chế độ kiều dân ngoại quốc...; về quân sự và kháng chiến, tổ chức quân đội, động viên kháng chiến và hậu cần, đặt đảm phụ đặc biệt về quốc phòng ...; về văn hoá xã hội, chương trình và cách dạy học xoá nạn mù chữ, đào tạo cán bộ, soạn dịch sách gíáo khoa, gửi học sinh đi học nước ngoài, lập Viện văn hoá và Viện hàn lâm, mở các thư viện và phòng thí nghiệm, khuyến khích văn học nghệ thuật, đặt các giải thưởng, chống nạn thất nghiệp và mãi dâm, tổ chức hài nhi viện và ấu trĩ viện, chấn chỉnh y tế, tổ chức giữ gìn vệ sinh... Theo phương hướng chung và cụ thể đó, các đại biểu trên khắp cả nước đã tích cực chuẩn bị để tiến tới kỳ họp lịch sử, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Nhân dân cả nước hướng tới Quốc hội. Trên các báo chí đã đăng tải nhiều bài về dân ý và dân nguyện, tranh luận trao đổi về nhiều vấn đề hệ trọng có quan hệ tới vận mệnh của đất nước.

Càng gần đến ngày họp Quốc hội, tình hình chính trị càng hết sức phức tạp và căng thẳng. Đến cuối tháng 2-1946, quân Anh đang rút khỏi nước ta.Quân Nhật bị tước vũ khí, đang lần lượt hồi hương. Quân Tưởng vẫn đóng từ bắc vĩ tuyến 16 trở ra. Sau khi được tăng viện, quân Pháp đã chiếm gần hết Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, hầu hết Campuchia và một vùng rộng lớn ở nước Lào. Chúng cũng chiếm được Lai Châu và một phần Sơn La. Cùng với việc ráo riết chuẩn bị cuộc hành quân mạo hiểm tập kích ra miền Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não cách mạng, chiếm lại toàn bộ nước ta, thực dân Pháp còn tìm mọi cách dàn xếp với Mỹ - Tưởng nhằm đưa quân ra xâm lược miền Bắc một cách hoà bình. Ngay sau khi phát động chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ (23-9-1945), Đácgiăngliơ (d'Argenlieu) đã từ Ấn Độ bay sang Trùng Khánh để xin với Tưởng cho phép quân Pháp vào miền Bắc Đông Dương nơi quân Tưởng đang đóng. Cuộc mặc cả này kéo dài và bí mật mãi tới ngày 20-2-1946 mới được hãng Roitơ của Anh tung ra trước dư luận thế giới. Theo bản hiệp ước ấy, Pháp sẽ nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi (cắt cho Tưởng đường xe lửa Hà Nội - Vân Nam phần trên đất Trung Quốc và một "khu tự do" ở cảng Hải Phòng, trả cho Tưởng một số tô giới...) để được Tưởng nhường cho Pháp mang quân ra miền Bắc Đông Dương dưới danh nghĩa thay thế quân Tưởng tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật.

Tuy nhiên, chiến tranh ở Nam Bộ đã cho thực dân Pháp một bài học: Chúng không thể dễ gì cùng một lúc, vừa bình định miềm Nam, vừa đưa quân ra đánh chiếm Bắc Bộ. Ngay trong chính giới Pháp, nhiều người cũng nhận thấy muốn bình định chỉ riêng Nam Bộ cũng cần đến hàng chục vạn quân, trong khi đó, ở Nam Bộ, chúng mới có 65 nghìn quân (15% là lính bản xứ). Mặc dầu đã được Tưởng đồng ý, nhưng chúng biết rằng không thể đưa quân ra miền Bắc qua mặt chính quyền cách mạng một cách đơn giản. Hạ tuần tháng 2, Pháp đã đề nghị với Chính phủ Việt Nam mở cuộc đàm phán chính thức. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương "nên nói chuyện với Pháp nhưng đồng thời phải chuẩn bị kháng chiến". Đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ Pháp đã có những cuộc tiếp xúc với nhau. Trong cuộc gặp J.Xanhtơni (J.Saimteny) ngày 25-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại lập trường của Việt Nam trong quan hệ Việt-Pháp là "độc lập và hợp tác". Còn J.Xanhtơni nói rõ nước Pháp có thể công nhận nước Việt Nam có Chính phủ, Nghị viện, quân đội, tài chính riêng nhưng là một nước tự trị trong Liên hiệp Pháp. Hai bên đều thấy phải tạo một không khí hoà dịu, trước lúc mở cuộc thương lượng Việt-Pháp. Giữa lúc đó, bản Hiệp ước Pháp-Hoa đã được ký kết tại Trung Khánh ngày 28-2-1946. Hiệp ước đó chính là sự mua bán về quyền lợi ở Việt Nam của chính quyền Tưởng Giới Thạch với thực dân Pháp, là sự chà đạp thô bạo chủ quyền độc lập của Việt Nam. Lòng công phẫn của nhân dân đã lên đến cực điểm, sẵn sàng cầm vũ khí đứng dậy kháng chiến chống thực dân Pháp - kẻ thù đã từng dầy xéo đất nước Việt Nam suốt 80 năm vừa bị lật đổ - một khi chúng quay trở lại xâm lược. Tàu chiến Pháp đã vào Vịnh Bắc Bộ, không khí chuẩn bị kháng chiến khẩn trương... Quan hệ Việt - Pháp đang đứng bên bờ vực chiến tranh. Việt Quốc, Việt Cách khai thác triệt để tâm lý và lòng yêu nước chân thành của quần chúng hòng kích động nhân dân lao vào cuộc chiến đấu bất lợi, để nhân cơ hội lật đổ chính quyền cách mạng. Chúng tổ chức biểu tình, dùng lời lẽ mị dân lừa bịp, rải truyền đơn công khai kêu gọi nhân dân lật đổ Chính phủ, đánh Pháp bằng bất cứ giá nào, chống mọi cuộc đàm phán với Pháp, thậm chí còn vu cáo Chính phủ Việt Nam là "bán nước"! Nhân dân Hà Nội vô cùng phẫn nộ, đã xuống đường biểu tình ủng hộ Chính phủ. Dân phố mở toang cửa, treo cờ đỏ sao vàng và tiếp tục công việc hằng ngày để trả lời bọn khiêu khích doạ nạt, bắt ép nhân dân đóng cửa, tổng đình công. Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh ra lời hiệu triệu kêu gọi toàn dân bình tĩnh, sẵn sàng chuẩn bị kháng chiến.

Kỳ họp đầu tiên của Quốc Hội khoá I được triệu tập trong tình hình khẩn trương, căng thẳng như vậy.

Để chuẩn bị cho kỳ họp đầu tiên của Quốc Hội, Hội đồng Chính phủ họp ngày 7-1-1946 đã quyết định: Quốc hội sẽ khai mạc ngày chủ nhật 3-3-1946 và lập một ban chỉ huy công việc sửa soạn triệu tập Quốc hội gọi là "Uỷ ban trù bị khai Quốc hội", gồm các ông: Võ Nguyên Giáp, Nguyên Tường Long, Vũ Đình Hoè, Cù Huy Cận, Dương Đức Hiền. Hội đồng Chính phủ cũng dự kiến các nơi họp của Quốc Hội. Đặc biệt, Hội đồng Chính phủ đã nêu vấn đề các Đảng phái cần gặp nhau để bàn cách tổ chức lại Chính phủ và phân chia các ghế Bộ trưởng. Tại phiên họp của Hội đồng ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo cáo sẽ lập Chính phủ kháng chiến gồm 10 bộ - có bốn đảng phái tham gia, mỗi đảng giữ hai bộ. Bộ Nội vụ và Quốc phòng sẽ do hai người trung lập giữ; lập Uỷ ban kháng chiến và Đoàn cố vấn.

Ngày 25-2-1946, sau nhiều lần thương lượng, hội nghị liên tịch giữa Việt Minh, Dân chủ, Việt Quốc, Việt Cách đã thống nhất:

1.                  Thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến chính thức gồm 10 bộ: Bộ Quốc phòng và Nội vụ để người không đảng phái nắm; các Bộ Tài chính, Giao thông công chính, Giáo dục, Tư pháp do Việt Minh và Dân chủ nắm; các Bộ ngoại giao, Kinh tế, Xã hội, Canh nông do Việt Quốc, Việt Cách nắm. Để tỏ rõ tính chất thống nhất quốc gia của Chính phủ liên hiệp, hai Bộ giao thông công chính và Canh nông sẽ dành cho đồng bào Nam Bộ. Trong khi đại biểu Nam bộ chưa tựu chức, Bộ Giao thông công chính sẽ do Việt Minh hay Dân chủ phụ trách; Bộ Canh nông sẽ do Việt Quốc hay Việt Cách phụ trách.

2.                  Thành lập Uỷ viên kháng chiến hội để chuyên lo việc kháng chiến.

3.                  Thành lập quốc gia cố vấn đoàn do Cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ làm đoàn trưởng bao gồm các vị có đạo đức, kinh nghiệm để giúp ý cho Chính phủ. Tên tất cả thành viên trong các cơ quan trên sẽ công bố sau khi Quốc hội công nhận. Rõ ràng đây là sự nhân nhượng lớn của ta để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, hạn chế sự phá hoại của các thế lực phản động tay sai, nhằm đối phó với kẻ thù chính lúc đó là thực dân Pháp.

Cuối tháng 2-1946, các đại biểu Quốc hội đã tập trung về Hà Nội. Đề phòng bất trắc có thể xẩy ra do tình hình căng thẳng lúc đó, địa điểm để Quốc hội họp vừa chuẩn bị ở Hà Nội, vừa chuẩn bị ở làng Đình Bảng (Bắc Ninh). Nhân dân Đình Bảng phấn khởi, chuẩn bị đón Quốc hội. Ngày 1-3-1946, Báo Sự thật của Đảng kêu gọi: "Mồng 3-3, hai hôm nữa Quốc Hội khai mạc. Lịch sử Việt Nam thêm một trang vẻ vang.

Quốc hội họp, cắm một mốc lịch sử trên con đường tranh đấu giải phóng dân tộc. Phải 80 năm đổ máu chống Pháp thực dân, chống phát xít Pháp - Nhật, mới đến một ngày "Hội nghị non sông".'

Quốc hội họp, nêu cao trước thế giới ý chí cương quyết giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Sau cách mạng Tháng Tám, một Chính phủ lâm thời tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Ngày nay, sự nghiệp, ý chí giành và giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam đã được kết tinh trong một cơ quan quyền lực chính thức của nhân dân.

Quốc hội họp đặt nền móng cho chủ quyền dân tộc. Vận mệnh nước Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam định đoạt thông qua đại biểu của chính mình.

Quốc hội họp biểu thị sự đoàn kết của toàn dân: dù trong hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam cũng quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập mới giành được. Đại biểu khắp đất nước mang về Thủ đô ý chí bốn phương kết thành một khối, vượt qua mọi trở lực, mọi âm mưu phá hoại trên đường cứu nước.

Quốc Hội họp mở ra cho dân ta nhìn thấy ánh sáng tương lai: Một đời sống mới, một xã hội mới bắt đầu đặt nền móng trong những chương trình kiến quốc cấp bách.

Để chủ động đối phó với tình hình chính trị đang diễn biến phức tạp và cần có một Chính phủ chính thức đủ tư cách và hiệu lực trong cuộc đàm phán ngoại giao với Pháp. Quốc hội đã họp sớm hơn một ngày.

Sáng 2-3-1946, ngót 300 đại biểu Quốc hội đã tề tựu tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội. Một số đại biểu Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã lên đường song chưa đến kịp. Còn phần nữa vì bận công việc kháng chiến nên không ra họp được. Nguyễn Hải Thần lấy lý do sức khoẻ không đến dự. 8 giờ 40 phút, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đến. Chính giữa diễn đàn Nhà hát là lá cờ đỏ sao vàng, hai bên treo cờ các đảng phái và nổi bật khẩu hiệu "Kháng chiến - Kiến quốc". Ngô Tử Hạ là đại biểu cao tuổi làm Chủ tịch, Nguyễn Đình Thi và Đào Thiện Thi là hai đại biểu trẻ tuổi làm thư ký đoàn. Hơn một trăm bức điện của đồng bào khắp nơi trong nước gửi về chào mừng Quốc Hội và tin tưởng Quốc hội sẽ sáng suốt lãnh đạo quốc dân.

Đúng 9 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính Phủ liên hiệp lâm thời bước lên diễn đàn. Nhạc " Tiến quân ca" và "Hồn tử sĩ" được cử lên. Nhân danh Chính phủ liên hiệp lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí minh khai mạc toàn quốc đại hội đại biểu, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà do Tổng tuyển cử bầu ra.

Mở đầu báo cáo trước Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ ý nghĩa thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đã "tỏ cho thế giới, cho toàn dân biết là chúng ta đoàn kết nhất trí". Người đề nghị với Quốc hội mở rộng đại biểu ra thêm 70 người nữa. 70 người ấy dành cho các vị ở hải ngoại về: Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội. Tất cả các đại biểu đã giơ tay tán thành đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các đại biểu được Quốc hội công nhân nói trên được mời vào hội trường. Đánh giá về thành phần của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: "Trong cuộc toàn quốc đại biểu đại hội này, các đảng phái đều có đại biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế cho nên các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một Đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại thành một khối" . Người báo cáo những công việc Chính phủ liên hiệp lâm thời đã làm trong 6 tháng qua. Những việc đó là:

Thực hiện được sự đoàn kết toàn dân. "Vua cũng thoái vị để làm người bình dân của nước tự do. Vua Bảo Đại đã trở nên ông Vĩnh Thuỵ, tối cao cố vấn cho Chính phủ dân chủ cộng hoà Việt Nam" . Mặc dầu gặp nhiều khó khăn sau khi giành được chính quyền, "song nhờ ở sự ủng hộ nhiệt liệt của toàn thể đồng bào và lòng kiên quyết phấn đấu của Chính phủ, chúng ta đã làm được đôi việc:

·                     Việc thứ nhất là ra sức kháng chiến.

·                     Việc thứ hai là giảm bớt sự đói kém bằng cách thực hành tăng gia sản xuất.

·                     Việc thứ ba là Chính phủ đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử.

·                     Việc thứ tư là do kết quả cuộc Tổng tuyển cử ấy mà có Quốc hội hôm nay"

Người nói tiếp: "Đồng thời Chính phủ cũng phải thừa nhận trước Quốc Hội là còn nhiều việc lớn lao hơn nữa nên làm, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên Chính phủ chưa làm hết." Gánh nặng đó "Chính phủ để lại cho Quốc hội, cho Chính phủ mới mà Quốc hội cử ra". Thay mặt Chính phủ cũ, Người hứa với Quốc hội, với Chính phủ mới và quốc dân sẽ "hết sức đem tài năng cống hiến cho Tổ quốc".

Cuối cùng, Người nhấn mạnh: "Việc hệ trọng nhất bây giờ là kháng chiến" và tin tưởng rằng: "Từ giờ về sau, Quốc hội và Chính phủ còn có những gánh nặng nề, phải bước qua nhiều sự khó khăn, nhưng tôi chắc rằng Quốc dân sẽ nhất trí, dựa vào sức đoàn kết mà làm việc, và như thế thì dù có khó khăn đến đâu, kháng chiến sẽ thắng lợi và kiến quốc sẽ thành công". Do tình hình đặc biệt, Người đề nghị Quốc hội làm việc mau chóng và tuyên bố Chính phủ liên hiệp lâm thời xin trao quyền lại cho Quốc Hội để tổ chức một Chính phủ mới.

Nguyễn Đình Thi thay mặt Quốc hội đọc đáp từ, nêu rõ những thành tích của Chính phủ liên hiệp lâm thời như sau:

"Ngay sau khi thành lập, Chính phủ lâm thời phải đối phó với nhiều việc hết sức khó khăn. Thực dân Pháp xâm lược Nam bộ, miền Nam Trung bộ và biên giới Việt - Lào; nạn đói đe doạ Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ; công quỹ trống không; của cải nhân dân bị đế quốc Pháp, Nhật vơ vét; kinh tế đình trệ, Chính phủ lâm thời lãnh đạo quốc dân vượt qua trở lực ấy. Mặt trận dân tộc thống nhất chống xâm lăng ngày một thêm vững, cuộc trường kỳ kháng chiến đem đến những kết quả đầu tiên. Bên trong, công cuộc tăng gia sản xuất cùng với những phương sách tài chính thích hợp đã gìn giữ đời sống cho dân. Đối với nước ngoài, đã gây được tình thân thiện.

Chính quyền vừa giành được, nền dân chủ cộng hoà đã xây đắp ngay. Chế độ phổ thông đầu phiếu được thi hành, và cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng giêng năm 1946 đã thành lập nên Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam.

Nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Nhờ sự ủng hộ và lòng hy sinh của toàn thể quốc dân,

Chính phủ lâm thời đã làm được nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc trong tình thế nghiêm trọng của nước nhà".

Cuối cùng, thay mặt toàn thể quốc dân, Quốc hội Việt Nam trịnh trọng cảm ơn Chính phủ lâm thời và tuyên bố Chủ tịch Hồ Chí Minh "xứng đáng với Tổ quốc". Toàn thể hội trường vang lên tiếng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt lời tuyên bố trên của Quốc hội. Tiếp đó, Ngô Tử Hạ, Chủ tịch kỳ họp, nhận lời từ chức của Chính phủ lâm thời. Toàn thể thành viên Chính phủ lâm thời bước xuống diễn đàn. Quốc hội bắt đầu thảo luận về thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Theo lời đề cử của Ngô Tử Hạ, Quốc hội đã giơ tay tán thành bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ, Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch và giao cho Chủ tịch và Phó Chủ tịch thành lập Chính phủ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Quốc hội tạm nghỉ 15 phút để Người tổ chức Chính phủ mới.

10 giờ, Quốc hội tiếp tục họp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Quốc hội gửi lời chào mừng tới các đại biểu Quốc hội miền Nam vắng mặt và báo cáo việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Người nói: "Chính phủ này ra mắt gồm có các đại biểu các đảng phái và các anh em không đảng phái, trước đây đã thương lượng và thoả thuận với nhau, vì vậy sự tổ chức mới được nhanh chóng như thế". Người trình bày danh sách Chính phủ liên hiệp, giới thiệu tóm tắt một số vị Bộ trưởng: danh sách Cố vấn đoàn và Kháng chiến uỷ viên hội.

Thành phần Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm:

1- Chủ tịch Hồ Chí Minh

2- Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần

3- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam

4- Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng

5- Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chu Bá Phượng

6- Bộ Trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến

7- Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh

8- Bộ trưởng Bộ Xã hội, kiêm

Y tế, Cứu quốc và Lao động Trương Đình Tri

9- Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đặng Thai Mai

10- Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Vũ Đình Hoè

11- Bộ trưởng Bộ Giao thông

Công chính Trần Đăng Khoa

12- Bộ trưởng Bộ Canh nông Bồ Xuân Luật

Cố vấn đoàn do cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ đảm nhiệm.

Kháng chiến Uỷ viên hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch.

Quốc hội công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến, Cố vấn đoàn và Kháng chiến uỷ viên hội. Toàn thể đại biểu Quốc hội đứng dậy nhận lời thề của các cơ quan trên do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc. Sau lời tuyên thệ, Nguyễn Đình Thi, đại diện Quốc hội, đọc lời chào mừng Chính phủ mới:

"Quốc hội Việt Nam xét rằng: Đứng trước tình thế nước nhà đang bị thực dân Pháp xâm lăng, cần phải thống nhất tất cả lực lượng của toàn thể dân tộc, và cần phải có một cơ quan điều khiển mạnh mẽ để kháng chiến đến đắc thắng", Quốc hội quyết định công nhân Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ chí Minh đứng đầu và "trao quyền bính cho chính quyền ấy".

"Chính phủ liên hiệp kháng chiến có nhiệm vụ thực hiện triệt để sự thống nhất các lực lượng của quốc dân về phương diện quân sự, tuyên truyền cũng như về phương diện hành chính tư pháp, tổng động viên nhân lực và tài sản của Quốc gia theo sự nhu cầu của tình thế, để đưa kháng chiến đến thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn.

Quốc dân sẽ luôn luôn ủng hộ Chính phủ trong công cuộc ấy.

Chính phủ liên hiệp kháng chiến phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và toàn thể quốc dân.

Quốc hội thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam chúc Chính phủ liên hiệp kháng chiến vượt hết mọi trở lực và làm tròn nhiệm vụ".

Đoàn đại biểu nhân dân và các đoàn thể cứu quốc Thủ đô đến chào mừng, dâng cờ nền đỏ sao vàng lên Quốc Hội với một ước mong Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà "sẽ như một ngôi sao sáng chói lọi và chiếu sáng xuống tận toàn cõi đất nước Việt Nam ".

Vấn đề đoàn kết các đảng phái trong Quốc hội cũng được nêu ra. Ngô Tử Hạ, Chủ tịch của kỳ họp, đã đề nghị như sau: "Quốc hội đặt tín nhiệm vào các đảng phái, đã ký kết thành tâm đoàn kết với nhau để thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Vậy Quốc hội yêu cầu các Đảng phái vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, hoạt động trong vòng pháp luật và thực hành ngay việc thống nhất quân đội, hành chính và tuyên truyền". Toàn thể Quốc hội đã giơ tay biểu quyết tán thành đề nghị đó.

Quốc hội nghe thư ký đọc và đã thông qua Tuyên ngôn của Quốc hội, thông qua các điện văn gửi nhân dân toàn quốc, gửi các chiến sĩ ngoài mặt trận, gửi anh em các dân tộc thiểu số, gửi kiểu bào Hải ngoại, lời kêu gọi kiều bào ở Pháp, các điện văn gửi dân tộc Ai Lao, liên hợp quốc, Giáo hoàng, Tưởng Giới Thạch, dân chúng Trung Hoa và dân chúng Pháp. Tuyên ngôn của Quốc hội đã trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân Việt Nam và thế giới:

"Chủ quyền của nước Việt Nam độc lập thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam. Vận mệnh quốc gia Việt Nam là ở trong tay Quốc hội Việt Nam, chính thể của nước Việt Nam là chính thể dân chủ cộng hoà, có nhiệm vụ bảo vệ tự do và mưu đồ hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân.

Các dân tộc ở trên lãnh thổ Việt Nam đều có quyền hạn và nhiệm vụ ngang nhau".

"Nền độc lập và dân chủ đã lập nên, nhờ sự đoàn kết, hy sinh và chiến đấu của toàn dân....

Quốc hội Việt Nam kiên quyết bảo vệ đến cùng nền độc lập và lãnh thổ của quốc gia và quyền tự do của nhân dân Việt Nam.

Quốc hội Việt Nam ra lệnh cho toàn thể quốc dân tận lực chống giữ giang sơn và xây dựng lại Tổ quốc để dân tộc Việt Nam tiến nhanh tới vinh quang, cường thịnh".

Quốc hội đã thảo luận sôi nổi về việc lập Ban Thường trực để thay mặt Quốc hội. Gần 40 lượt ý kiến của các đại biểu đã phát biểu về nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Thường trực, trong đó ý kiến của Đỗ Đức Dục, Trần Văn Cung, Nguyễn Đăng Long, Ngô Thế Phúc, Lê Tư Lành, Tôn Thất Vỹ, Lê Phi Vân, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Hồ Chí Minh, Đoàn Phú Tứ, Cù Huy Cận, Hoàng Văn Đức, Nguyễn Văn Chi, Nguyễn Tri... ý kiến của các đại biểu tập trung ở hai điểm chủ yếu:

1.                  Giao quyền của Quốc hội cho Ban Thường trực

2.                  Định rõ ràng những quyền cụ thể cho Ban Thường trực. Căn cứ vào tình thế lúc bấy giờ, Quốc hội nhất trí định quyền hạn của Ban Thường trực như sau:

o                    Góp ý kiến với Chỉnh phủ

o                    Phê bình Chính phủ và khi Chính phủ đi ngược lại quyền lợi quốc dân, thì có quyền hiệu triệu quốc dân

o                    Triệu tập Quốc hội trong những trường hợp sau này:

§                     Khi Chính phủ yêu cầu,

§                     Khi quá nửa số đại biểu yêu cầu,

§                     Khi quá nửa uỷ viên thường trực xét thấy cần phải triệu tập;

o                    Khi tuyên chiến hay đình chiến, bắt buộc phải được hỏi ý kiến;

o                    Khi ký hiệp ước với nước ngoài phải triệu tập Quốc hội để chuẩn y.

Căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn đó, Quốc hội đã quyết định bầu Ban Thường trực gồm 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết:

Trưởng ban: Nguyễn Văn Tố

Phó trưởng ban: Phạm Văn Đồng

Cung Đình Quỳ

Uỷ viên chính thức:

Bùi Bằng Đoàn

Nguyễn Văn Chi

Dương Văn Dư

Hoàng Văn Đức

Xuân Thuỷ

Trịnh Quốc Quang

Đàm Quang Thiện

Nguyễn Tấn Gi Trọng

Nguyễn Tri

Lê Thị Xuyến

Hoàng Minh Giám

Dương Đức Hiền

Uỷ viên dự khuyết: Nguyễn Văn Luyện

Phạm Bá Trực

Y Ngông Niếkđam

Về sau, Ban thường trực được bổ sung thêm 4 đại biểu Nam Bộ: Tôn Đức Thắng và Dương Bạch Mai làm uỷ viên chính thức; Nguyễn Ngọc Bích và Huỳnh Tấn Phát làm uỷ viên dự khuyết.

Cuối cùng, Quốc hội đã thảo luận nhiệm vụ và bầu Ban dự thảo Hiến pháp. Nhiệm vụ của ban đó là dự thảo bản Hiến pháp để phiên họp sau đem trình cho Ban thường trực, để Ban Thường trực trình Quốc hội. Ban đó sẽ nghiên cứu cả Quốc kỳ và Quốc ca. Trong lúc chờ đợi, là cờ đỏ sao vàng vẫn là Quốc kỳ và Quốc ca là bài Tiến quân ca. Ban dự thảo Hiến pháp gồm có 11 người: Trần Huy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên.

13 giờ 10 phút, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đã bế mạc, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bài diễn văn ngắn ngọn. Người nói:

"Bây giờ Quốc hội tạm thời bế mạc để cho tất cả anh em chúng ta đem một không khí đoàn kết, một cái không khí kháng chiến, một cái không khí kiên quyết, một cái không khí nhất định thành công về các địa phương và công tác.

... Đồng thời chúng ta cũng hứa với nhau rằng: Quốc hội họp lần này là Quốc hội kháng chiến mà Chính phủ cử ra là Chính phủ kháng chiến. Tôi mong rằng Quốc hội họp lần sau sẽ là Quốc hội thắng lợi mà Chính phủ cũng sẽ là Chính phủ thắng lợi.

Vậy tôi đề nghị hô khẩu hiệu:

- Kháng chiến thắng lợi !

- Kiến quốc thành công !

- Việt Nam độc lập muôn năm !"

Như vậy, kể từ lúc khai mạc đến lúc bế mạc, Quốc hội họp khẩn trương trong vòng 4 giờ. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá I của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thực sự là một kỳ họp lịch sử. Nó diễn ra ngắn nhất và khẩn trương nên Quốc hội không thể bàn bạc những vấn đề lớn về quốc sách. Quốc hội chỉ tập trung vào một điểm quan trọng và quyết định nhất là thành lập cho được Chính phủ liên hiệp kháng chiến và một số cơ quan quan trọng khác của Quốc hội và Nhà nước là: Ban thường trực Quốc hội, cố vấn đoàn, Kháng chiến uỷ viên hội. Việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến, một cơ quan quyền lực điều hành cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, kể cả tổng động viên nhân lực và tài lực quốc gia đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết tình hình lúc bấy giờ. Đây là một bước hoàn thiện và củng cố bộ máy nhà nước ở Trung ương, bảo đảm cho Chính phủ đủ uy tín, hiệu lực để tổ chức nhân dân kháng chiến, kiến quốc, thực hiện mọi chức năng, nhiệm vụ đối nội và đối ngoại, trước mắt là đàm phán thực hiện sách lược tạm hoà hoãn với Pháp, tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng, bồi bổ thực lực, chuẩn bị lực lượng để chiến đấu bảo vệ tổ quốc khi tình thế bắt buộc quân và dân ta phải kháng chiến trong cả nước.

Do tình thế đặc biệt của nước ta lúc này, quá trình Tổng tuyển cử cũng như việc triệu tập Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa I đã diễn ra khá gay go và phức tạp. Sau khi Quốc hội chấp nhận mở rộng thêm 70 ghế đại biểu Quốc hội không qua sự tuyển chọn của nhân dân, thành phần của Quốc hội gồm: Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ, Việt Quốc và Việt Cách, đồng thời thành phần đại biểu không đảng phái cũng nhiều. Vì thế, các đại biểu của Quốc hội không phải đại diện cho một đảng mà là đại diện cho nhiều đảng có chính kiến khác nhau, trong đó, có một số đảng đối lập. Việt Cách do Nguyễn Hải Thần nắm giữ và Việt Quốc do Vũ Hồng Khanh cầm đầu là những đảng phái đối lập quyết liệt. Họ tìm mọi cách để chống phá cách mạng, chống Đảng Cộng sản, chống lại độc lập, tự do của nhân dân... Hoạt động trong bối cảnh đó, Đảng và Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ chí Minh đứng đầu đã dựa vào sức mạnh đoàn kết của toàn dân và toàn Đảng, nắm vững ngọn cờ dân tộc, nêu cao khẩu hiệu "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết", giữ vững nguyên tắc cách mạng, nhân nhượng và thoả hiệp đúng, linh hoạt và khéo léo, buộc đại biểu của các đảng phái đối lập phải thoả hiệp, hoà giải, "đồng tình" và "hợp tác". Đó là cơ sở để triển khai kỳ họp Quốc hội thành công, lập được một Chính phủ chính thức - Chính phủ liên hiệp kháng chiến.

Thắng lợi của kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá I là thắng lợi của sự đoàn kết đấu tranh, nhân nhượng và hoà giải nhằm tập trung lực lượng để thực hiện kháng chiến và kiến quốc.

Báo Sự thật, số ngày 5-3-1946 đã viết: "Trước đây trên 600 năm, chúng ta có cuộc Hội nghị Diên Hồng họp cấp tốc đời Trần. Sau cuộc hội nghị ấy, 50 vạn quân Mông Cổ xâm lăng đã bị đánh bại ra ngoài bờ cõi. Ngày nay, Quốc hội cũng họp cấp tốc và ngót 300 đại biểu từ các tỉnh xa xôi về thủ đô đã thay mặt cho toàn dân quyết một lòng chiến đấu. Và họ đã chia tay nhau đem về địa phương lòng quyết chiến của toàn dân, lòng tin tưởng ở vị lãnh tụ tối cao và ở tương lai độc lập tự do của giống nòi. Chính phủ, Quốc hội, nhân dân trên dưới một lòng quyết chiến và quyết thắng".

2. Quốc hội với việc củng cố nhà nước, xây dựng nền dân chủ, thống nhất dân tộc, sẵn sàng kháng chiến trong toàn quốc.

Tổ quốc đang bị thực dân Pháp xâm lược. Để giành thắng lợi, cần tập trung quyền lực vào một cơ quan điều hành quốc gia mạnh mẽ nhằm thống nhất tất cả lực lượng của dân tộc. Vì thế, Quốc hội đã công nhận và trao quyền bính cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch. Chính phủ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Quốc hội và quốc dân đồng bào. Bên cạnh Chính phủ, Ban thường trực Quốc hội có quyền hạn góp ý kiến với Chính phủ, phê bình Chính phủ nếu Chính phủ làm trái lợi ích của quốc gia, của dân tộc. Trong tình thế đặc biệt của nước nhà, nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại quan trọng vẫn phải được thống nhất và giải quyết nhanh chóng nên trong nhiều phiên họp thường kỳ hoặc đặc biệt của Hội đồng Chính phủ đều có sự tham dự, góp ý của Trưởng ban thường trực Quốc hội.

Chính phủ và Quốc hội chủ trương thực hiện đoàn kết dân tộc, xây dựng mặt trận quốc gia liên hiệp và thống nhất để chống xâm lăng, giữ vững chính quyền, kiến thiết đất nước và thực hiện chính sách ngoại giao thân thiện với các nước trên thế giới.

Trong phiên họp đầu tiên ngày 4-3-1946, Chính phủ đã quyết định một số chủ trương đối nội và đối ngoại:

Về đối nội:

1- Các đảng phái đoàn kết chặt chẽ, ngôn luận, hành động phải nhất trí để phụng sự quốc gia.

2- Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại quốc được hoàn toàn bảo đảm.

3- Hành chính và quân đội phải thống nhất, tài chính kinh tế tập trung.

4- Mọi lực lượng của Quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công phải tuân theo kỷ luật.

Về ngoại giao:

1- Đối với các nước Đồng Minh, nước Việt Nam bao giờ cũng chủ trương thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa.

2- Đối với các nước nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc Việt Nam rất đồng tình.

3- Đối với nhân dân Pháp, dân Việt Nam không thù hằn, song cực lực phản đối chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ Việt Nam chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc "Dân tộc tự quyết" của Hiến chương Đại Tây Dương.

Do tình thế đặc biệt cấp bách về ngoại giao, nhất là sau khi Hiệp ước Pháp - Hoa đã được ký kết (28-2-1946), Chính Phủ đã quyết định cử Hồ Chí Minh, Nguyễn Tường Tam, Phan Anh, Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh phụ trách giải quyết công việc đàm phán. Các vị ấy "sẽ tuỳ cơ ứng biến theo những nguyên tắc của Chính phủ đã định ra". Còn công việc đàm phán với đại diện của Chính phủ Pháp thì giao cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam phụ trách.

Trong Tiến trình đàm phán ngoại giao lúc bấy giờ, đại diện của Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần gặp đại diện Chính phủ Pháp, và đại diện của quân đội Tưởng Giới Thạch tại Hà Nội. Trong cuộc tiếp xúc giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Tường Tam với đại diện quân đội Tưởng tại Hà Nội sáng 4-3-1946, họ đã "khuyên nên tránh sự đổ máu" khi Quân đội Pháp vào thay quân đội Tưởng ở phía Bắc vĩ tuyến 16 theo Hiệp ước Pháp - Hoa và nói" Nước Việt Nam được công nhận quyền tự chủ là một bước để đi đến độc lập" .

Đối với Pháp, Chính phủ Việt Nam chủ trương "Hoà để tiến", tránh tình thế một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ thù, tranh thủ thêm thời gian hoà bình để củng cố và phát triển lực lượng. Ngày 3-3-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đề ra chủ trương "giảng hoà với Pháp nhằm giành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới..., tiến tới giành độc lập hoàn toàn". Căn cứ vào hoàn cảnh lúc đó, Việt Nam và Pháp sẽ ký một Hiệp định sơ bộ vào ngày 6-3-1946 theo những điều kiện cả hai bên đã thoả thuận.

Nội dung của hiệp định bao gồm nhiều khoản quan hệ đến vận mệnh nền độc lập của dân tộc và chủ quyền của quốc gia. Do đó, trước khi ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo cáo để Hội đồng Chính phủ và Ban thường trực Quốc hội quyết định.

Sáng ngày 6-3-1946, một cuộc họp đặc biệt của Hội đồng Chính phủ đã họp với sự có mặt của Chủ Tịch Hồ Chí Minh - Chủ tịch Chính phủ; các vị Bộ trưởng: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Chu Bá Phượng, Đặng Thai Mai, Trương Đình Tri, Vũ Đình Hoè, Trần Đăng Khoa; Cố vấn tối vao Vĩnh Thuỵ; Nguyễn Văn Tố - Trưởng ban Thường trực Quốc Hội; Võ Nguyên Giáp - Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến; Vũ Hồng Khanh - Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến; Hoàng Minh Giám - Thư ký Hội đồng Chính phủ. Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo, Hội đồng bàn bạc và nhất trí quyết định sẽ ký Hiệp định sơ bộ với Pháp theo các điều kiện đã được thoả thuận. Vì Nguyễn Tường Tam vắng mặt, nên Hội đồng Chính phủ cử Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến thay mặt để cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh ký bản Hiệp định sơ bộ với Pháp. Quyết định ký hiệp định sơ bộ với Pháp là một quyết sách lớn, vì vậy tất cả các vị có mặt tại cuộc họp của Hôi đồng Chính phủ sáng 6-3-1946 đã cùng ký vào một biên bản đặc biệt và Chính phủ sẽ yêu cầu các vị vắng mặt ký sau. Dưới đây là nội dung tờ biên bản đặc biệt đó:

"Hội đồng Chính phủ Việt Nam, Tối cao cố vấn đoàn Đoàn trưởng, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch và Phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến toàn quốc, trong phiên họp ngày 6-3-1946, sau khi cụ Chủ tịch báo cáo về tình hình ngoại giao, sau khi hỏi ý kiến của toàn thể:

1- Nghị quyết tán thành ký hiệp định đình chiến và mở cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp, theo những điều kiện Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do và Chính phủ Việt Nam bằng lòng để quân đội Pháp thay thế quân đội Trung Hoa (nguyên văn đính theo sau)

2- Uỷ quyền cho ông Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến, thay mặt Hội đồng Chính phủ cùng cụ Chủ tịch Chính phủ ký hiệp định trên với đại biểu Pháp.

3- Nghị quyết này do toàn thể Hội đồng, Uỷ ban kháng chiến và Ban thường trực Quốc hội cộng đồng phụ trách trước quốc dân".

Được Hội đồng Chính phủ nhất trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Vũ Hồng Khanh đã ký với J.Xanhtơny bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, một nước có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việt Nam chấp thuận để quân đội Pháp ra miền Bắc vĩ tuyến 16 để thay thế quân đội Tưởng....

Ký Hiệp định sơ bộ là một bước "Hoà để tiến". Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để thực hiện Độc lập, Tự do, Chủ quyền và Thống nhất còn nhiều khó khăn gian khổ. Vì thế, sau khi Hiệp định được ký kết, Ban thường trực Quốc Hội hiệu triệu quốc dân đồng bào phải "chuẩn bị", "đoàn kết", "bình tĩnh", "Tránh khiêu khích" và tuân theo "mệnh lệnh Chính phủ". Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến và ký Hiệp định sơ bộ, Quốc hội và Chính phủ đã xúc tiến thêm các hoạt động bang hữu với Trung Hoa và Pháp.

Tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 11-3-1946, với sự tham dự của Vĩnh Thuỵ, Hội đồng đã quyết định cử một phái bộ sang giao hảo với Trung Hoa, trong đó, có Vĩnh Thuỵ, Nghiêm Kế Tổ...

Ban thường trực Quốc Hội, thể theo đề nghị của Chính Phủ đã cử một phái đoàn của Quốc hội gồm 10 đại biểu do Phạm Văn Đồng, phó trưởng ban thường trực Quốc Hội, dẫn đầu sang thăm Pháp từ 25-4 đến 16-5-1946. Trong những ngày ở thăm Pháp, phái đoàn Quốc hội đã hoạt động trong hầu hết các chính giới, làm cho số đông chính khách Pháp, nhất là nhân dân Pháp có thiện cảm hơn với Việt Nam, hiểu rõ cuộc đấu tranh vì độc lập của Việt Nam. Về kết quả chuyến đi đó, Phạm Văn Đồng nói: "Chúng tôi tin rằng, chúng tôi làm tròn nhiệm vụ đó. Vì nghĩ rằng tình thân thiện giữa hai dân tộc cần được xây trên nền tảng vững vàng nên chúng tôi đã mạnh bạo nêu lên tất cả những vấn đề phân tranh giữa Việt và Pháp, nhất là vấn đề Nam Bộ. Chúng tôi đã tiếp xúc với nhiều nghị viên Quốc hội Pháp, với các chính đảng, các nhà báo, cùng với nhân sĩ có danh của nước Pháp, đâu đâu chúng tôi cũng thấy mối cảm tình với nước Việt Nam và sự nhận xét thoả đáng về vấn đề Nam Bộ. Do sự hoạt động của chúng tôi mà người Pháp nhận thấy rõ rằng nếu nước Việt Nam cần thân thiện với nước Pháp thì nước Pháp cũng cần thân thiện với nước Việt Nam, và muốn thực hiện tình thân thiện ấy được hoàn toàn thì phải giải quyết vấn đề Nam Bộ cho hợp với ý nguyện của toàn thể dân tộc Việt Nam. Chúng tôi không bao giờ quên thái độ lịch sự và cảm tình mật thiết của nhân dân Pháp đối với chúng tôi".

Việt Kiều ở Pháp đã hân hoan đón phái đoàn - người đại biểu cho quốc dân Việt Nam, một nước vừa mới giành được quyền độc lập, tự do sau gần 100 năm bị thực dân đô hộ. Kiều bào đều hướng về tổ quốc Việt Nam, về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 19-4-1946, Phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và phái đoàn Chính phủ Pháp đã họp hội nghị trù bị ở Đà Lạt, trước khi mở cuộc đàm phán chính thức ở Đà Lạt, trước khi mở cuộc đàm phán chính thức ở Pháp. Song do phía Pháp cố giữ lập trường thực dân nên hội nghị không đạt được thoả thuận nào.

Ngày 31-5-1946, theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp, Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, được giao giữ chức quyền Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Trao đổi với Quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng về các đối sách của Chính phủ trong tình thế phức tạp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu phương châm: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, đi dự cuộc đàm phán chính thức ở Pháp đã lên đường cùng thời gian với Người. Do lập trường thực dân phản động của Chính phủ Pháp, cuộc đàm phán chính thức Việt - Pháp ở Phôngtennơblô (Fontainebleau) không đạt được kết quả. Để tỏ thiện chí hoà bình, giành thêm thời gian chuẩn bị lực lượng ở trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với M.Mutê (M.Moutet), Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, ký bản Tạm ước 14-9-1946.

Cuộc đàm phán của Việt Nam với Pháp ở Phôngtennơblô, việc ký tạm ước 14-9-1946, cũng như phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang thăm nước Pháp đã nêu cao thiện chí hoà bình và hữu nghị của Việt Nam trong mối quan hệ bang giao với nước Pháp. Uy tín của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất của dân tộc, tranh thủ thời gian để tiếp tục củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước, thực hiện nền dân chủ, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến khi thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước.

Về nội trị, Chính phủ đã củng cố dần bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy chính quyền ở các cấp.

Thực hiện Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 của Chính phủ, tổ chức bộ máy chính quyền gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính đã lần lượt được bầu chính thức. Ở Bắc bộ, trong số 227 huyện và thị xã, có 128 huyện và thị xã đã bầu Uỷ ban hành chính chính thức. Ở Trung bộ, trừ các tỉnh trực tiếp kháng chiến, tất cả các tỉnh còn lại đều đã có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính chính thức.

Ở Nam bộ, do hoàn cảnh chiến tranh bùng nổ sớm, sau một thời gian phân tán, Uỷ ban nhân dân lâm thời khắp nơi lần lượt được tập trung và hoạt động trở lại. Sắc lệnh số 63 chưa được thi hành. Hình thức Uỷ ban nhân dân vẫn còn giữ lại và đổi ra Uỷ ban kháng chiến lâm thời. Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 13 (21-1-1946) để thi hành chế độ phân quyền tư pháp biệt lập.

Việt Nam công an vụ, cơ quan an ninh quốc gia, có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương được thành lập theo Sắc lệnh số 23/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21-3-1946.

Quyền tự do thân thể, tự do báo chí, tự do lập hội được thực hiện. Ngày 29-3-1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 40/SL về việc bảo vệ tự do cá nhân. Sắc lệnh số 41/SL quy định chế độ báo chí cũng được công bố ngày 29-3-1946. Chế độ tự do lập hội được đặt trên nguyên tắc tự do theo Sắc lệnh số 52/SL ngày 22-4-1946. Kể từ sau khi Sắc lệnh được ban hành đến trước Kỳ họp thứ hai của Quốc Hội, Bộ Nội vụ đã nhận được nhiều đơn xin phép lập hội, Bộ đã cho phép 90 hội được thành lập và hoạt động. Ngày Hội lao động quốc tế 1-5 được công nhận là ngày hội chính thức của người lao động Việt Nam theo Sắc lệnh ngày 29-4-1946. Quyền tự do tín ngưỡng được bảo đảm theo Sắc lệnh số 35/SL ngày 20-9-1945. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã nỗ lực hoạt động, khởi thảo bản Hiến pháp, sẵn sàng đệ trình Quốc hội.

Ngày 3-5-1946, Ban thường trực Quốc hội đã cử Linh mục Phạm Bá Trực cùng đi với phái đoàn Chính phủ vào Trung bộ để giải thích cho đồng bào rõ chính sách quốc gia liên hiệp của Chính phủ Hồ Chí Minh. Và ngày 14-8-1946, một phái đoàn Quốc hội do Nguyễn Trí và Dương Văn Dư được cử vào Nam Trung bộ thăm, uý lạo các chiến sĩ ngoài mặt trận. Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc được tổ chức tháng 12-1945 và Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số khu vực miền Nam họp tháng 6-1946 đã góp phần tăng cường đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng quốc gia thống nhất. Nha dân tộc thiểu số đã được thành lập để nghiên cứu và giúp Chính phủ giải quyết mọi vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trong toàn cõi Việt Nam. Một số đoàn thể quần chúng và đảng phái dân chủ lần lượt ra đời như: Mặt trận Liên Việt (28-5-1946), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (27-5-1946), Đảng xã hội Việt Nam (22-7-1946), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20-10-1946), v.v... Mặt trận đoàn kết dân tộc thống nhất quốc gia được tăng cường.

Việc vũ trang quần chúng cách mạng được các Uỷ ban hành chính các cấp coi trọng. Các đội cảnh vệ được thành lập. Bộ đội chính quy được mở rộng. Vệ quốc quân được chính thức chuyển thành quân đội quốc gia Việt Nam theo Sắc lệnh số 71/SL ngày 22-5-1946. Quân uỷ hội và Bộ Quốc phòng đã cùng đảm đương công việc chỉnh đốn và điều khiển quân đội.

Thực hiện Hiệp ước Hoa - Pháp, quân đội Tưởng giới Thạch lần lượt rút về nước. Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh... bỏ nhiệm vụ, rời Tổ quốc theo Quân đội Tưởng sang Trung Quốc. Lực lượng vũ trang của các Đảng phái đối lập (trừ đơn vị vũ trang của Việt Quốc ở Vĩnh Yên đã thực hiện kế hoạch thống nhất vào Bộ đội vệ quốc đoàn ngày 23-5-1946), đóng ở Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Hoà Bình, Bắc Giang, Lạng Sơn... Đã rút chạy lên miền bên giới Việt - Trung, bị tan rã hoặc chạy sang Trung Quốc theo quân Tưởng, sau trở lại theo quân Pháp. Các địa phương trên được giải phóng. Các ổ, nhóm chính trị phản động đã bị khám phá và trừng trị. An ninh chính trị xã hội được ổn định.

Các hoạt động về mặt kinh tế, tài chính, tiền tệ và giáo dục, văn hoá đều được đẩy mạnh. Nạn đói bị đẩy lùi...

Cuộc kháng chiến ở Nam Trung bộ và Nam bộ đã có những chuyển biến tốt sau khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946.

Sau tám tháng, dưới "sự chỉ đạo sáng suốt và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước nhà đã vượt qua được các nỗi khó khăn"; đã đạt tới "một địa vị khả quan", tuy còn phải gắng sức nhiều hơn. Chính phủ, Quốc hội nỗ lực xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc, quân và dân Nam bộ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ độc lập và thống nhất. Còn thực dân Pháp và tay sai thì ra sức phá hoại quyết chia cắt đất nước, tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam. Chúng đã dựng lên Chính phủ "Nam kỳ tự trị" do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu vào tháng 6-1946 và đến tháng 12-1946 chúng lại lập Chính phủ Lê Văn Hoạch. Đây là một hành động trắng trợn và phản động cực đoan nhất trong việc thực hiện chính sách chia để trị của Thực dân Pháp. Chính sách đó đã đi ngược dòng lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam nên đã thất bại. Nguyên Văn Thinh đã kết liễu đời mình bằng một sợi dây đồng thắt cổ. Chính quyền Cách mạng được giữ vững. Khối liên hiệp quốc gia được củng cố. Cách mạng Việt Nam đã đứng vững và tiếp tục tiến lên.

Trong bối cảnh đó, theo yêu cầu của Chính phủ, Ban thường trực Quốc hội đã triệu tập Quốc hội họp kỳ thứ hai tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 28-10 đến 9-11-1946. Về dự họp có 290 đại biểu. Một số đại biểu ở cực Nam Trung bộ và Nam bộ vì công việc kháng chiến không ra được. Đại diện các lãnh sự quán Anh, Mỹ, Trung Hoa, Thuỵ Sĩ, một số nhà đương chức khác, phóng viên báo giới Mỹ, Pháp, Hoa và Việt Nam đã có mặt trong phiên họp khai mạc. Công chúng được quyền vào dự thính kỳ họp và có quyền chất vấn, khen chê Chính phủ. Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, đọc diễn văn khai mạc, khẳng định những kết quả thu được của Chính phủ và Quốc hội trong tám tháng đã qua và nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của Quốc dân đồng bào lúc này là lúc ra công xây dựng nước nhà để thực hiện nền độc lập cho Tổ quốc"; Rằng "nước ta với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể đông bào, sẽ giành được độc lập và đi tới vinh quang và hạnh phúc", "Với sự hy sinh của đồng bào Nam bộ, với sự quyết tâm của toàn thể quốc dân Việt Nam, nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, Trung Nam Bắc là một khối như xưa".

Nguyễn Văn Tạo đại biểu Rạch Giá báo cáo quyết tâm của những đại biểu quốc hội đã cùng với đồng bào Nam bộ chiến đấu, để mang lại cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc bay trở lại trên đất Nam bộ. Cả Hội trường cảm động và phấn chấn khi Hồ Chí Minh ôm hôn Nguyên Văn Tạo, như ôm hôn đồng bào Nam bộ anh dũng - "Thành đồng của Tổ quốc".

Quốc hội đã nghe báo cáo công tác của Chính phủ do Vũ Đình Hoè đọc và báo cáo đặc biệt của Chính phủ về việc giao thiệp với Chính phủ Pháp do Phạm Văn Đồng trình bầy.

Các đại biểu Quốc hội đã chất vấn Ban thường trực của Chính phủ nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, nội vụ... Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc Hội, các Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng, Trương Đình Tri, Trần Đăng Khoa, Chu Bá Phượng, Võ Nguyên Giáp, Ca Văn Thỉnh, Vũ Đình Hoè, Lê Văn Hiến và Hồ Chí Minh đã trả lời nhiều câu hỏi do đại biểu Quốc hội nêu ra. Có buổi họp Chính phủ đã nhận được 88 cầu hỏi của đại biểu. Điều đó tỏ rõ Quốc hội rất quan tâm đến các vấn đề của Quốc gia và thể hiện rõ tính chất dân chủ của Quốc hội.

Về vấn đề Quốc kỳ, đại biểu Quốc hội Lê Trọng Nghĩa đã chất vấn Ban Thường trực Quốc hội: Trong khoá họp thứ nhất, Quốc hội đã quyết định tạm giữ lá cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ cho đến bao giờ có sự quyết định của Quốc hội khoá họp thứ hai, vậy tại sao Ban Thường trực lại mang vấn đề thay đổi cờ ra thảo luận? Nguyên Văn Tố đã trả lời: Tuy Quốc hội khoá trước đã quyết nghị thế, nhưng Chính phủ sau đó có đề nghị với Ban Thường trực là thay đổi một vài chi tiết trong lá cờ: Chẳng hạn như thêu một vành xanh ở ngoài ngôi sao vàng. Ban Thường trực nhận được đề nghị của Chính phủ tất nhiên phải thảo luận và kết quả là đã cương quyết giữ được nguyên lá cờ đỏ sao vàng, cho nên Ban thường trực báo cáo lại việc ấy, đó không phải là đặt lại vấn đề thay đổi cờ mà là để tỏ ra rằng đã làm tròn uỷ nhiệm của Quốc hội khoá họp thứ nhất. Tiếp lời, Nguyễn Tri đọc lại một bản Nghị quyết án của Ban Thường trực ngày 13-3-1946 về vấn đề cờ như sau: Yêu cầu Chính phủ đừng làm trái Nghị quyết của Quốc hội khoá họp thứ nhất để giữ nguyên tắc dân chủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ đã trả lời một số vấn đề lớn. Người nói:

Chính phủ hiện thời thành lập mới hơn một năm, hãy còn thanh niên. Quốc hội bầu ra được hơn 8 tháng lại còn thanh niên hơn nữa. Vậy mà Quốc hội đã đặt những câu hỏi thật già dặn thắc mắc khó trả lời, đề cập đến tất cả những vấn đề có quan hệ đến vận mạng của nước nhà. Với sự trưởng thành chính trị và sự quan tâm về việc nước ấy, ai dám bảo dân ta không có tư cách độc lập.

- Về Quốc kỳ, Chính phủ không bao giờ dám đòi thay đổi, chỉ vì một vài người trong Chính phủ đề nghị việc ấy lên, nếu Chính phủ phải đệ lên Thường trực Quốc hội xét. Tình thế từ ngày ấy đến giờ biến chuyển nhiều, lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam bộ và Nam Trung bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu, cũng được chào kính cẩn. Bây giờ, trừ khi cả 25 triệu đồng bào yêu cầu, còn ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi nó.

- Về việc Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh đã ra đi, Người nói: Lúc nước nhà đang gặp khó khăn, quốc dân tin ở người nào mới trao cho người ấy công việc lớn, mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải tự hỏi lương tâm mình... Những người bỏ đi kia, chứng tỏ họ không muốn gánh việc nước nhà, hoặc họ không đủ năng lực mà gánh nổi. Nay chúng ta không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh được như thường. Nhưng nếu các anh em ấy biết nghĩ lại mà trở về, thì chúng ta vẫn hoan nghênh.

- Về chính sách ngoại giao, Người nói: Đối với các nước dân chủ, chúng ta hết sức gây thân thiện. Còn về ngoại giao với Pháp, thì từ khi ký Hiệp định 6-3 qua các Hội nghị Đà Lạt và Phôngtennơblô đến Tạm ước 14-9, cũng đã báo cáo nhiều rồi. Chính phủ quyết tâm giữ nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, đồng thời cộng tác thật thà và thân thiện với Pháp. Cố nhiên, người Pháp cũng phải cộng tác lại với chúng ta trên nguyên tắc bình đẳng.

- Về tính liêm khiết của Chính phủ, Người nói: Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các Uỷ ban làng hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ - đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết...

Quốc hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về nội trị, ngoại giao, về việc lập Chính phủ mới, về quyền quan thuế, về việc phát hành giấy bạc Việt Nam, v.v...

Về nội trị, Quốc hội tán thành chính sách đại đoàn kết của Chính phủ; đề phòng mưu mô chia rẽ để bảo đảm an ninh của quốc dân và tiến hành công cuộc kiến thiết quốc gia.

Về chính sách ngoại giao của nước ta với nước Pháp, phải căn cứ trên chủ quyền của Việt Nam với lực lượng quốc dân làm hậu thuẫn, phải cương quyết để bảo toàn lãnh thổ Việt Nam.

Về việc lập Chính phủ mới, Quốc hội quyết nghị tán thành chính sách chung của Chính phủ: Nhận sự từ chức của Chính phủ và uỷ nhiệm cho Hồ Chí Minh đứng ra lập Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài không phân biệt đảng phái. Hồ Chí Minh đã cám ơn Quốc hội và tuyên bố.

"Lần này là lần thứ hai mà Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa, Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội uỷ cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận.

Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan, phát tài.

Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái.

Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: tôi chỉ có một Đảng - Đảng Việt Nam.

Tuy trong Nghị quyết của Quốc hội không nói đến hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết.

Theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích, trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà" .

Ngày 3-11-1946, Chính phủ mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ra trình diện trước Quốc hội. Chính phủ gồm có các bộ và thành viên:

1. Hồ Chí Minh Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

2. Huỳnh Thúc Kháng Bộ trưởng Bộ Nội vụ

3. Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

4. Nguyễn Văn Huyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục

5. Lê Văn Hiến Bộ trưởng Bộ Tài chính

6. Trần Đăng Khoa Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính

7. Hoàng Tích Trí Bộ trưởng Bộ Y tế

8. Nguyễn Văn Tạo Bộ trưởng Bộ Lao động

9. Vũ Đình Hoè Bộ trưởng Bộ Tư Pháp

10. Ngô Tấn Nhơn Bộ trưởng Bộ Canh nông

11. Chu Bá Phượng Bộ trưởng Bộ Cứu tế

12. Một vị ở Nam bộ Bộ trưởng Bộ Kinh tế

13. Nguyễn Văn Tố Bộ trưởng không bộ

14. Bồ Xuân Luật Bộ trưởng không bộ

Quốc hội đã biểu quyết tán thành danh sách Chính phủ mới. Đây là một Chính phủ tỏ rõ "tinh thần Quốc hội liên hiệp", chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới "

Quốc hội đã thảo luận về dự án Luật Lao động. Nguyễn Văn Tạo, Bộ trưởng Bộ Lao động thay mặt Chính phủ đọc tờ trình về dự án Luật quy định chế độ lao động. Dự án Luật đã được Ban Thường trực Quốc hội, Tổng liên đoàn lao động cùng Viện Thương mại tham gia ý kiến. Một tiểu ban lao động của Quốc hội đã xem xét bản dự án để trình Quốc hội. Về quan điểm, tiểu ban cho rằng, ở nước ta, nền kinh tế cần phải được phát triển, thực tế bắt buộc phải dung hoà quyền lợi của nghiệp chủ và của lao động để kiến thiết quốc gia. Tiểu Công nghệ ở Việt Nam cần được phục hưng. Vậy cần phải có những điều kiện dễ dàng để phát triển một cách triệt để. Tinh thần của Luật Lao động lúc này không khuếch trương đấu tranh giữa lao động với chủ mà có ý đoàn kết, dung hoà quyền lợi cả đôi bên.

Nội dung dự án Luật Lao động gồm 25 điều, trong đó nổi bật lên những vấn đề có tính nguyên tắc:

- Nhìn nhận lao động, không được ai bó buộc, lao động phải được tôn trọng, giá trị phải được xứng đáng;

- Định rõ rệt chế độ học nghề;

- Định rõ thể lệ trong việc lập và thi hành khế ước;

- Định rõ phụ cấp cùng việc chia lãi:

- Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ;

- Bảo vệ công nhân nữ và trẻ em;

- Bảo vệ sức khoẻ công nhân;

- Quyền tập hợp và đình công của công nhân.

Ngày 8-11-1946, Quốc hội đã nhiệt liệt hoan nghênh và thông qua dự án Luật Lao động, "để đặt nền móng cho Bộ luật Lao động mà Chính phủ đang sửa soạn ban bố.

Bản dự án Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được soạn thảo xong và được công bố tháng 11-1945. Tiểu ban Hiến pháp do kỳ họp thứ nhất của Quốc hội cử ra đã tiếp tục nghiên cứu dự thảo Hiến pháp. Uỷ ban kiến quốc của Chính phủ cũng đã tự nghiên cứu và đưa ra một dự thảo. Căn cứ vào bản dự án của Chính phủ đã đưa ra, đối chiếu với bản dự thảo của Uỷ ban kiến quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm về Hiến pháp các nước ở Âu-Á, Tiểu ban đã soạn thảo một dự án Hiến pháp để trình Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946. Tiểu ban được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm, đại biểu Trung lập, đại biểu Nam bộ, đại biểu đồng bào thiểu số để tham gia tu bổ thêm bản dự án và Quốc hội bắt đầu thảo luận từ 2-11-1946. Đỗ Đức Dục thuyết trình trước Quốc hội bản dự án Hiến pháp Việt Nam đã được Tiểu ban Hiến pháp mở rộng tu chỉnh và nêu nhận xét về bước tiến trên đường dân chủ mới của Hiến pháp Việt Nam so với Hiến pháp của một số nước dân chủ, đồng thời Hiến pháp Việt Nam đã dựa vào thực tiễn của đất nước để đem lại quyền lợi cho nhân dân.

Các đại diện của các nhóm Đảng trong Quốc hội: Hồ Đức Thành, đại diện của Việt Cách; Trần Huy Liệu, đại diện nhóm Mácxít; Hoàng Văn Đức, đại diện nhóm dân chủ; Lê Thị Xuyến đại diện nhóm xã hội; Nguyễn Đình Thi, đại diện Việt Minh; Trần Trung Dung, đại diện Việt Quốc, đã lần lượt phát biểu ý kiến. Các vị đại diện các nhóm đều đã nêu lên những ưu điểm, tính chất tiến bộ của dự án Hiến pháp, góp thêm một số khía cạnh cụ thể và cuối cùng đều tán thành dự án. Riêng Trần Trung Dung tuy cũng tán thành dự án Hiến pháp, song lại không đồng ý chế độ một viện, cho rằng dân chúng Việt Nam chưa được huấn luyện nhiều về chính trị nên sợ rằng chế độ một viện không thích hợp với Việt Nam. Phạm Gia Đỗ, đại biểu Việt Quốc cũng không tán thành chế độ một viện mà cần có chế độ hai viện vì chế độ một viện là "độc tài của đa số"! Các đại biểu Hồ Đức Thành, Đỗ Đức Dục, Đinh Gia Trinh, Đào Trọng Kim, Nguyễn Sơn Hà và nhiều đại biểu khác đã phát biểu ý kiến tán thành chế độ một viện. Đào Trọng Kim nhấn mạnh: Hiến pháp đã phản ánh được nguyên vọng của dân chúng. Chế độ tập quyền và phân công rất thích hợp để có thể ứng phó mau lẹ với thời cuộc luôn luôn biến chuyển. Khuất Duy Tiến đã tranh luận với Phạm Gia Đỗ và nói rõ Hiến pháp Việt Nam rất cấp tiến. Chính thể của nước Việt Nam là chính thể tập quyền và phân công rõ ràng. Chúng ta ai cũng tha thiết với tự do, nhưng phải nhớ rằng tự do của cá nhân không được trái với quyền lợi tối cao của Tổ quốc. Cá nhân muốn được tự do của mình thì phải nỗ lực đấu tranh cho Tổ quốc. Trần Trung Dung nói nhiều đến quyền tự do của công dân và cố ý chỉ trích Chính phủ trong một năm nắm chính quyền chưa cho dân chúng hưởng được quyền tự do (như dự án Hiến pháp đã nêu ra). Phạm Văn Đồng, chủ toạ buổi họp ngắt lời và đã chỉ trích Trần Trung Dung đã phê phán không đúng đối với Chính phủ trong một năm nỗ lực đấu tranh gay go để giữ gìn độc lập. Khuất Duy Tiến thì chỉ trích Trần Trung Dung đã phủ nhận nền dân chủ của nước Việt Nam sau cuộc Cách mạng Tháng tám.

Qua nhiều buổi thảo luận và tranh luận sôi nổi để bổ sung, sửa đổi từng điều cụ thể, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Toàn thể Quốc hội đều công nhận cờ đỏ sao vàng là lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc không thể bàn cãi được và đã đứng lên nghiêm trang chào lá Quốc kỳ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đồng thanh hát bài Tiến quân ca.

Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với 240 đại biểu tán thành trên 242 đại biểu; hai đại biểu không tán thành là Nguyễn Sơn Hà và Phạm Gia Đỗ.

Bản Hiến pháp gồm có Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu đã ghi rõ thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn mới và những nguyên tắc xây dựng Hiến pháp:

"Cuộc Cách mạng Tháng tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà.

Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới.

Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.

Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc sau đây:

- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại".

Hiến Pháp - đạo luật cơ bản của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quy định chính thể (Chương I), Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (Chương II), Nghị viện nhân dân (Chương III), Chính phủ (Chương IV), Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (Chương V), Cơ quan tư pháp (Chương VI), Sửa đổi Hiến pháp (Chương VII).

Hiến pháp đã ghi rõ về chính thể:

"Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Điều 1).

"Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất, Trung Nam Bắc không thể phân chia" (Điều 22).

"Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh. Quốc ca là bài Tiến quân ca. Thủ đô đặt ở Hà Nội" (Điều 3).

Về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, Hiến pháp đã khẳng định:

"Mọi công dân Việt Nam phải: - Bảo vệ Tổ quốc; - tôn trọng Hiến pháp; - Tuân theo pháp luật" (Điều 4) và "có nghĩa vụ phải đi lính" (Điều 5).

"Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá" (Điều 6), "đều được bình đẳng trước Pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình" (Điều 7); những dân tộc thiểu số "được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung" (Điều 8), "đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" (Điều 9). "Công dân Việt Nam có quyền: - tự do ngôn luận; - tự do xuất bản; - tự do tổ chức và hội họp; - tự do tín ngưỡng; - tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài" (Điều 10). "Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật" (Điều 11). "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm" (Điều 12). "Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm" (Điều 13). "Công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng" (Điều 14). "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước" (Điều 15).

"Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín" (Điều 17). "Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên... đều có quyền bầu cử..." (Điều 18). "Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra..." (Điều 20) "... có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia..." (Điều 21).

Về Nghị viện nhân dân, Hiến pháp ghi:

"Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" (Điều 22). "Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài" (Điều 23). "Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm bầu một lần" (Điều 24). "Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó nghị trưởng, 12 Uỷ viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban Thường vụ, Nghị trưởng và Phó nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó trưởng Ban thường vụ" (Điều 27).

"Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý" (Điều 32).

"Khi Nghị viện không họp được, Ban Thường vụ cùng với Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến" (Điều 38).

Về Chính phủ, Hiến pháp đã ghi:

"Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" (Điều 43). "Chính phủ gồm có Chủ tịch nước..., Phó Chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó thủ tướng" (Điều 44). "Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị Viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số Nghị viên bỏ phiếu thuận.... Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại" (Điều 45).

"Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết"... "Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách" (Điều 47). "Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà: a) Thay mặt cho nước; b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái... ; c) Ký Sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các và các nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; d) Chủ toạ Hội đồng Chính phủ; đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết định...; k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định" (Điều 49).

"Quyền hạn của Chính phủ: a) Thi hành các đạo luật; b) đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện; c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban Thường vụ trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt... e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn nước; g) Lập dự án ngân sách hàng năm" (Điều 52).

Hiến pháp cũng quy định hệ thống tổ chức và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp, hệ thống và quyền hạn của cơ quan tư pháp và những điều quy định về sửa đổi Hiến pháp.

Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một Hiến pháp dân chủ, phản ánh rõ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, khẳng định quyền dân tộc độc lập, thống nhất lãnh thổ và quyết tâm bảo vệ đất nước của toàn dân, xây dựng thể chế dân chủ cộng hoà, một chế độ bảo đảm quyền dân chủ tự do của mọi công dân không phân biệt nam nữ, đặc biệt ưu đãi đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Công dân Việt Nam được quyền trực tiếp bầu ra Nghị viện - cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đại diện cho quyền làm chủ đất nước của toàn dân và chịu trách nhiệm trước quốc dân đối với vận mệnh lịch sử của dân tộc, của mọi người dân trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc.

Đánh giá về bản Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Quốc hội thông qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp". Đó là "Bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà, là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông". "Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập..., dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam đã được ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do đó của một công dân. Hiến Pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bằng của các giai cấp".

Bản Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua và Quốc hội cũng đã quyết định không cần phải đưa Hiến pháp ra trưng cầu dân ý trong toàn quốc nữa. Bản Hiến pháp đã trở thành chính thức từ 9-11-1946. Do chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đang lan rộng, cho nên Quốc hội đã biểu quyết chưa ban hành Hiến pháp bằng một Sắc lệnh và chưa thi hành Hiến pháp ngay. Việc bầu Nghị viện nhân dân theo quy định của Hiến pháp chưa thể tổ chức được. Quốc hội chưa hết nhiệm vụ mà cần phải tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu được Nghị viện nhân dân.

Quốc hội thảo luận rất sôi nổi về nhiệm vụ của Ban Thường trực Quốc hội và cuối cùng đã nhất trí biểu quyết giao cho Ban những nhiệm vụ: Liên lạc với Chính phủ để giúp ý kiến và phê bình Chính phủ; cùng với Chính phủ quy định việc thi hành Hiến pháp; liên lạc với đại biểu Quốc hội và triệu tập Quốc hội khi cần thiết; cùng với Chính phủ quyết định tuyên chiến, đình chiến hoặc ký hiệp ước với nước ngoài.

Ban thường trực Quốc hội được bầu tại kỳ họp thứ hai gồm có 18 vị:

Trưởng ban: Bùi Bằng Đoàn

Phó trưởng ban: Tôn Đức Thắng

Tôn Quang Phiệt

Uỷ viên chính thức: Phạm Bá Trực

Dương Đức Hiền

Cung Đình Quỳ

Hoàng Văn Hoan

Trần Huy Liệu

Nguyễn Văn Luyện

Trần Văn Cung

Dương Văn Dư

Y Ngông Niêkđam

Hoàng Minh Châu

Nguyễn Đình Thi

Lê Thị Xuyến

Uỷ viên dự khuyết: Lê Tư Lành

Trần Tấn Thọ

Nguyễn Thị Thục Viên

Quốc hội cũng đã chuẩn y bản quyết định uỷ nhiệm cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp. Trong thời kỳ chưa thi hành được thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành các đạo luật. Với các quyết định trên, Quốc hội đã tiếp tục hoạt động, gánh vác trách nhiệm mới, làm nhiệm vụ lập hiến và cả nhiệm vụ lập pháp.

Kỳ họp thứ hai của Quốc hội đã kết thúc thắng lợi ngày 9-11-1946. Ngày 11-11-1946, Ban thường trực Quốc hội đã họp để bầu ra Ban Thường vụ gồm 5 người: Bùi Bằng Đoàn là Trưởng ban, Tôn Đức Thắng và Tôn Quang Phiệt - Phó trưởng Ban, Nguyễn Đình Thi - Thư ký, Dương Đức Hiền - Phó thư ký và lập các tiểu ban: Pháp chế gồm 8 người do Tôn Quang Phiệt làm Trưởng ban, Tài chính kinh tế gồm 6 người do Nguyễn Văn Luyện làm Trưởng ban, và kiến nghị gồm 4 người do Trần Huy Liệu làm Trưởng ban. Đây là một kỳ họp dài ngày đầu tiên của Quốc hội khoá I, một kỳ họp sôi nổi, dân chủ thảo luận, có khi gay go, song đã đi đến thống nhất. "Nếu có ai có thành kiến của giai cấp, của đảng phái, của tôn giáo thì đến trong phòng này.... cũng đã để lòng nghe theo một tiếng gọi cao cả và thiêng liêng hơn cả bấy nhiêu tiếng gọi lúc thường: tiếng gọi của Tổ quốc. Cái không khí ấy đã hoàn toàn phản chiếu được tình trạng chung của đất nước...; tình trạng thống nhất ý chí và hành động..." Tổ quốc trên hết! Đoàn kết, đại đoàn kết! Không phân biệt đảng phái! Đó là ý chí cơ bản của Quốc hội theo ngọn cờ thống nhất quốc gia dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: chúng ta chỉ có một "Đảng Việt Nam".