LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM Tập 1 (1946 - 1960)

 

QUỐC HỘI VỚI NHIỆM VỤ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC,
ĐẤU TRANH THỰC HIỆN CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ Ở MIỀN NAM TIẾN TỚI THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1958 - 1960)
 

Sau ba năm phấn đấu, miền Bắc đã kết thúc thắng lợi nhiệm vụ khội phục kinh tế. Sản xuất nông nghiệp vượt xa mức trước chiến tranh: 3,9 triệu tấn lương thực năm 1957 so với 2,4 triệu tấn năm 1939. Hầu hết các xí nghiệp cũ đã được khôi phục và xây dựng được gần 50 xí nghiệp mới. Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, giao thông vận tải được khôi phục nhanh chóng và mở rộng. Thành phần kinh tế quốc doanh ngày càng lớn và rộng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hoạt động kinh tế nước ta đã trở lại bình thường, văn hoá, giáo dục được phát triển, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. Chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố, an ninh quốc phòng được giữ vững.

miền Nam, cuộc đấu tranh của quần chúng chống lại chính sách thực dân của Mỹ và chế độ độc tài phát xít gia đình trị Ngô Đình Diệm ngày càng diễn ra quyết liệt. Bằng chính sách "tố cộng", "diệt cộng" đẫm máu, chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây cho cách mạng miền Nam những tổn thất lớn. Cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn chống chế độ độc tài, chống khủng bố, đòi các quyền dân chủ, dân sinh, v.v... đã lôi cuốn hàng triệu lượt người tham gia. Nhiều đơn vị vũ trang với quy mô nhỏ đã lần lượt ra đời ở nhiều nơi, nhất là ở Nam bộ nhằm bảo vệ lực lượng cách mạng, bảo vệ các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng và tiến hành hoạt động diệt ác trừ gian, tạo thế cho cách mạng phát triển. Thực tiễn đấu tranh với chế độ độc tài Ngô Đình Diệm đã làm cho nhân dân miền Nam, trước hết là bộ phận tiền phong cách mạng càng nhận thức sâu sắc thêm rằng muốn chống lại Mỹ-Diệm để cứu nước và tự cứu lấy mình không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng. Cách mạng miền Nam đang tích cực chuẩn bị tạo thế để chuyển mình sang một thời kỳ đấu tranh quyết liệt.

Kỳ họp thứ tám của Quốc hội được triệu tập trong bối cảnh đó. Quốc hội đã họp từ ngày 16 đến ngày 29-4-1958 với sự tham dự của 224 đại biểu. Kỳ họp Quốc hội lần này đã "đánh dấu một chặng đường thắng lợi đã qua và đưa đến một thời kỳ đấu tranh và xây dựng mới của nhân dân ta".

Quốc hội đã tập trung thảo luận về nhiệm vụ của toàn dân trong giai đoạn mới là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Quốc hội ra nghị quyết về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) và kế hoạch phát triển kinh tế năm 1958. Nghị quyết khẳng định:

"Quốc hội xác nhận rằng miền Bắc nước ta đã chấm dứt giai đoạn khôi phục kinh tế và chuyển vào giai đoạn phát triển kinh tế và cải tạo kinh tế theo chủ nghĩa xã hội; bước vào kế hoạch ba năm, mở đầu một giai đoạn mới có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng miền Bắc tiến dân lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Quốc hội thông qua bản kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá năm 1958. Trong khi thực hiện, Chính phủ vẫn phát huy mọi khả năng tiềm tàng để quyết tâm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch".

Đưa miền Bắc nước ta chuyển sang giai đoạn mới, "đòi hỏi phải có một sự chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và nhận thức, đòi hỏi phải có những chính sách, những biện pháp về công tác tổ chức phù hợp với tình hình mới.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân ta. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử loại người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó khăn nhất. Mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tư tưởng và nghị lực để vượt qua mọi thử thách và hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng này".

Quốc hội đã thông qua nghị quyết về toàn bộ công tác của Chính phủ, những chủ trương lớn nhằm phát triển, cải tạo kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, nêu cao sự đoàn kết đấu tranh của toàn dân và của nhân dân miền Nam nhằm thực hiện thống nhất nước nhà.

Quốc hội đã thảo luận để làm sáng tỏ thêm vai trò lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Trong diễn văn bế mạc kỳ họp, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng đã nhấn mạnh: "Sự lãnh đạo của Đảng đã cần thiết từ trước đến nay, thì từ nay về sau trên đoạn đường kiến thiết xã hội chủ nghĩa mới mẻ, vinh quang nhưng cũng rất khó khăn và phức tạp, lại càng cần thiết hơn nữa".

Quốc hội đã nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày về công tác sửa đổi Hiến pháp. Ban sửa đổi Hiến pháp đã hoàn thành bước đầu bản sơ thảo Hiến pháp sửa đổi và chuẩn bị chuyển sang bước thứ hai là trưng cầu ý kiến của nhân dân, trước hết là ý kiến của các chính đảng, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan chính quyền. Về việc tuyển cử bổ sung theo nghị quyết của Quốc hội kỳ họp thứ sáu, Ban Thường trực trong quá trình chuẩn bị đã nhận được nhiều thư và ý kiến trực tiếp của nhiều đại biểu đề nghị không nên tuyển bổ sung mà nên đợi sau khi có Hiến pháp mới sẽ tuyển cử lại Quốc hội thì hợp lý hơn. Vì vậy, Quốc hội đã quyết nghị tạm hoãn việc tuyển cử bổ sung chờ đến lúc Hiến pháp sửa đổi được thông qua sẽ xét lại. Về mặt lập pháp, Quốc hội đã thông qua Luật về tổ chức chính quyền địa phương và Luật về chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân.

Luật tổ chức chính quyền địa phương có 5 chương, gồm 43 điều. Luật định rõ chính quyền địa phương được tổ chức như sau: Các khu tự trị, các thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Các huyện có Uỷ ban hành chính. Các khu phố ở các thành phố và thị xã lớn có Ban hành chính khu phố. Các thành phố có thể chia thành các khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Điều kiện thành lập khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính... do Hội đồng Chính phủ quy định. Luật quy định rõ tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quan hệ và nội dung hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp một cách thống nhất. Tiếp theo Luật bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp, việc thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương có tác dụng quan trọng nhằm củng cố hệ thống chính quyền nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp hoạt động có hiệu quả làm tròn được nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Luật quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có 5 chương gồm 48 điều quy định về các loại sĩ quan, quân hàm, chức vụ, nghĩa vụ và quyền lợi của sĩ quan. Đạo luật này nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân tiến lên theo hướng chính quy hiện đại và tăng cường lực lượng quốc phòng. Quân đội Việt Nam muốn tiến lên không ngừng cần phải có những cán bộ có ý thức đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn, vinh dự của người quân nhân cách mạng, lấy công tác quân sự làm nghề nghiệp của mình, được học tập rèn luyện kỹ càng về nghiệp vụ qua thực tiễn chiến đấu và công tác cũng như qua các trường học quân sự chính quy. Đó là những sĩ quan, những người làm nhiệm vụ chỉ huy trong quân đội. Đối với bản thân cán bộ Quân đội, luật này đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, xác nhận vinh dự và trách nhiệm đối với nhân dân, với Tổ quốc, nâng cao phẩm chất chính trị, khả năng chuyên môn và kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân.

Để tăng cường bộ máy nhà nước, Quốc hội thông qua đề nghị của Chính phủ cử thêm hai Phó Thủ tướng Chính phủ là: Trường Chinh và Phạm Hùng. Cử Nguyễn Duy Trinh làm Bộ trưởng Phủ Thủ tướng và Nguyễn Văn Trân làm Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước; chia Bộ thương nghiệp thành hai bộ: Bộ Nội thương do Đỗ Mười làm Bộ trưởng và Bộ Ngoại thương do Phan Anh làm Bộ trưởng; chia Bộ Thuỷ lợi và kiến trúc thành hai Bộ: Bộ thuỷ lợi do Trần Đăng Khoa làm Bộ trưởng và Bộ Kiến trúc do Bùi Quang Tạo làm Bộ trưởng; lập Toà án tối cao và hệ thống Toà án, Viện công tố và hệ thống công tố (cả hai tách khỏi Bộ Tư Pháp và có quyền hạn trách nhiệm ngang một bộ) trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Bùi Lâm được cử làm Viện trưởng Viện công tố; một Phó Chánh án sẽ làm quyền Chánh án. Nâng Ban dân tộc thành Uỷ ban Dân tộc có quyền hạn trách nhiệm ngang một Bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ do Chu Văn Tấn làm Chủ nhiệm; lập Uỷ ban Khoa học có quyền hạn trách nhiệm ngang một Bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Về mặt tổ chức của Ban Thường trực, Quốc hội đã chuẩn y nghị quyết ngày 13-4-1958 của Ban, chấp nhận việc từ chức uỷ viên Ban Thường trực của Hoàng Văn Đức và cử Ngô Tử Hạ Uỷ viên dự khuyết làm Uỷ viên chính thức thay Hoàng Văn Đức và nghị quyết ngày 23-4-1958 của Ban về việc cử thêm một Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội nữa là Hoàng Văn Hoan.

Kỳ họp thứ tám của Quốc hội "có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến vận mệnh của toàn dân ta, của Tổ quốc ta" . Quốc hội đã thông qua cương lĩnh đấu tranh của nhân dân miền Bắc là hoà bình tiến dần lên Chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội xác nhận con đường tiến dẫn lên chủ nghĩa xã hội của miền Bắc và vai trò lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam là nội dung cốt lõi của kỳ họp thứ tám.

Sau kỳ họp thứ tám, gần 40 đoàn đại biểu của Quốc hội đã đi về các địa phương, các đơn vị bộ đội, xí nghiệp, trường học... báo cáo kết quả của kỳ họp.

Đối với các đạo luật được thông qua ngay sau kỳ họp, Chính phủ đã ra Sắc lệnh công bố, đồng thời cũng ban hành thêm các Thông tư, Điều lệ hướng dẫn việc thi hành các đạo luật đó. Ngày 20-6-1958, Phủ Thủ tướng ra Nghị định số 308/TTg ban hành Điều lệ quân hiệu, phù hiệu và lễ phục của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phủ Thủ tướng ra Thông tư số 289/TTg về kiện toàn chính quyền địa phương; Nghị định số 420/TTg ban hành điều lệ tạm thời về tổ chức các cấp ở khu tự trị Việt Bắc.

Về mặt tổ chức Nhà nước, Ban Thường trực Quốc hội đã thông qua đề nghị của Hội đồng Chính phủ cử Hoàng Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, sang giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính thay Lê Văn Hiến đi nhận nhiệm vụ mới; Trần Mạnh Quỳ sang giữ chức Phó tổng Thanh tra Chính phủ và thôi giữ chức Uỷ viên Ban Thường trực Quốc hội; Nguyễn Sơn Hà, Uỷ viên dự khuyết lên làm Uỷ viên chính thức thay Trần Mạnh Quỳ.

Về đối ngoại, Ban thường trực Quốc hội đã cử một đoàn đại biểu gồm năm người do cụ Tôn Đức Thắng làm trưởng đoàn đi thăm các nước: Cộng hoà Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Cộng hoà nhân dân Hunggari, Cộng hoà nhân dân Bungari, Cộng hoà nhân dân Anbani, Cộng hoà nhân dân Ba Lan, Cộng hoà nhân dân Mông Cổ. Tháng 10 -1958, Ban Thường trực Quốc hội đã tiếp đoàn đại biểu nước Cộng hoà nhân dân Bungari do Vancô Secvencốp dẫn đầu sang thăm Việt Nam.

Hoạt động của Chính phủ và Quốc hội trong vòng gần một năm kể từ sau kỳ họp thứ tám của Quốc hội giúp cho Đảng, Nhà nước có thêm căn cứ để hoạch định toàn bộ công tác kinh tế, văn hoá trong những năm sắp tới, nhất là kế hoạch kinh tế 3 năm 1958 - 1960.

Tháng 12-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ mười bốn, quyết định phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch kinh tế và văn hoá (1958 - 1960), chủ trương đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Kỳ họp thứ chín của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được triệu tập và họp từ ngày 9 đến ngày 14-12-1958 với sự có mặt của 207 đại biểu.

Căn cứ vào báo cáo của Chính phủ về tình hình và nhiệm vụ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày và thuyết trình của Tiểu Ban nghiên cứu các báo cáo của Chính phủ, Quốc hội đã ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch ba năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá. Nghị quyết của Quốc hội nhấn mạnh: "Cần phải đưa công cuộc phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá tiến lên theo một tốc độ nhanh và mạnh; Căn bản hoàn thành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản tư doanh trong thời gian từ hai đến ba năm tới, đồng thời ra sức mở mang xây dựng cơ bản, phát triển lực lượng của thành phần kinh tế quốc doanh. Cần phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp; dựa vào sản xuất phát triển mà nâng cao một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và tăng cường củng cố quốc phòng". Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh; đồng thời ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân".

Về mặt tổ chức nhà nước, tại kỳ họp này, Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Hội đồng Chính phủ để Nguyễn Duy Trinh thôi giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng để giữ chức Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước; Nguyễn Văn Trân, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện kiêm Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước; Lê Văn Hiến, Bộ trưởng, giữ chức Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước; Phạm Ngọc Thạch giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế; Trường Chinh, Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Các Nghị quyết của kỳ họp thứ chín đã được 30 đoàn đại biểu Quốc hội đi báo cáo trước nhân dân ở các địa phương. Sau kỳ họp, Chính phủ đã cử đại diện đến các phiên họp của Ban Thường trực để báo cáo một số công tác quan trọng của Chính phủ. Tháng 2-1959, Thủ tướng Chính phủ và Tổng Giám đốc Ngân hàng đã báo cáo về chủ trương thay đổi đơn vị tiền tệ, phát hành tiền mới, đổi tiền cũ. Tháng 5-1959, Chính phủ đã báo cáo về quy hoạch Sông Hồng. Ban Thường trực thấy đây là một công trình xã hội chủ nghĩa to lớn đòi hỏi phải được nghiên cứu chu đáo về mọi mặt, phải được cán bộ các ngành và quần chúng tham gia ý kiến để xây dựng quy hoạch được tốt. Ban Thường trực trong phiên họp tháng 5-1959 đã nhất trí với Hội đồng Chính phủ về việc giải thể hai Bộ Cứu tế xã hội và Thương binh vì sau bốn năm hoà bình, công tác thương binh và liệt sĩ đã giải quyết được phần lớn. Những công việc còn lại của hai bộ được chuyến giao cho các Bộ Nội vụ, Lao động và Y tế đảm nhiệm.

Ngày 1-4-1959, Ban sửa đổi Hiến pháp đã công bố bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi cho toàn dân thảo luận. Nhiều Uỷ viên Ban Thường trực Quốc hội và đại biểu Quốc hội đã đi giới thiệu bản Hiến pháp sửa đổi trong nhiều cuộc họp của cán bộ, bộ đội và nhân dân.

Ban Thường trực Quốc hội và toàn thể đại biểu Quốc hội luôn luôn quan tâm theo dõi và ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam. Ngày 23-1-1959, phiên họp bất thường của Ban Thường trực và các đại biểu Quốc hội có mặt tại Hà Nội đã ra tuyên bố phản đối nhà cầm quyền miền Nam giết hại hàng loạt đồng bào ta, điển hình là vụ đầu độc hàng ngàn đồng bào yêu nước tại trại tập trung Phú Lợi ở Nam bộ; kêu gọi đồng bào trong cả nước đấu tranh đòi giải tán các trại tập trung ở miền Nam, đòi nhà đương cực miền Nam phải trả lời bức Công hàm ngày 22-12-1958 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đề nghị những biện pháp lập quan hệ bình thường giữa hai miền.

Từ ngày 20 đến ngày 27-5-1959, Quốc hội họp kỳ thứ mười. Tham dự kỳ họp có 205 đại biểu. Quốc hội thông qua kế hoạch Nhà nước năm 1959, năm bản lề của kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và thông qua một số nghị quyết, trong đó có vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp, coi đó là khâu chính trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. Quốc hội cũng đã phê chuẩn việc cử Phạm Văn Bạch giữ chức Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Nguyên Khang giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.

Đến giữa năm 1959, sau mấy lần bổ sung và điều chỉnh, thành phần Chính phủ gồm có:

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh

2. Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Phạm Văn Đồng

3. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Phan Kế Toại

4. Phó Thủ tướng kiêm  Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Võ Nguyên giáp

5. Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học Nhà nước Trường Chinh

6. Phó Thủ tướng Phạm Hùng

7. Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn

8. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên

9. Bộ trưởng Bộ Nội thương Đỗ Mười

10. Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Phan Anh

11. Bộ Trưởng Bộ Thuỷ lợi Trần Đăng Khoa

12. Bộ trưởng Bộ Kiến trúc Bùi Quang Tạo

13. Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh

14. Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị

15. Bộ trưởng Bộ Nông lâm Nghiêm Xuân Yêm

16. Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch

17. Bộ trưởng Bộ Lao động Nguyễn Văn Tạo

18. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè

19. Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hoàng Minh Giám

20. Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện kiêm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước Nguyễn Văn Trân

21. Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước Nguyễn Duy Trinh

22. Bộ trưởng giữ chức Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước Lê Văn Hiến

23. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Nguyễn Khang

Cho đến cuối năm 1959, trải qua hai năm thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá, nhân dân miền Bắc đã thu được những kết quả quan trọng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân. Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp tỉnh, huyện, xã đầu năm 1959 là một cuộc vận động chính trị rộng lớn. 94,7% số cử tri đã tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân xã, 87,5% số cử tri tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh; có những nơi 100% cử tri đã đi bỏ phiếu. 5.016 xã và 53 thị trấn ở miền Bắc đã bầu 121.430 Uỷ viên Hội đồng nhân dân xã. 26 tỉnh, thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng đã bầu 1.905 Uỷ viên Hội đồng nhân dân tỉnh hoặc thành phố. Sau khi được bầu, Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân xã đã bầu Uỷ ban hành chính tỉnh, Uỷ ban hành chính huyện và Uỷ ban hành chính xã. Bộ máy nhà nước của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về căn bản đã có bốn cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Đó là một cơ cấu tổ chức hợp lý.

Ở miền Nam, cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào ta đang có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhất là sau khi có nghị quyết của Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1-1959 xác định đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Cùng với cuộc đấu tranh chính trị diễn ra rộng lớn khắp cả đô thị và nông thôn, các cuộc đấu tranh vũ trang diệt ác, trừ gian và một số cuộc nổi dậy của quần chúng phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở những mức độ thích hợp khác nhau đã nổ ra tại nhiều địa phương ở miền Tây các tỉnh đồng bằng khu V và ở vùng nông thôn Nam bộ. Cuối tháng 8-1959, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ở miền tây Quảng Ngãi, mở đầu ở huyện Trà Bồng. Phong trào khởi nghĩa từng phần đã lần lượt diễn ra ngày càng mạnh mẽ và rộng lớn ở Nam bộ, miền Tây các tỉnh đồng bằng khu V và Tây Nguyên.

Tháng 12-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 17 để nghiên cứu và thảo luận về Dự thảo Hiến Pháp sửa đổi, chuẩn bị cho kỳ họp sắp tới của Quốc hội.

Kỳ họp thứ 11 của Quốc hội đã diễn ra từ ngày 18 đến ngày 31-12-1959 trong bước chuyển biến mạnh mẽ của cách mạng cả hai miền Nam và Bắc. Tham gia kỳ họp có 217 đại biểu. Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-1959), Quốc hội đã long trọng tuyên dương công trạng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng: "Quốc hội... tuyên dương Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những cống hiến lớn lao đối với Tổ quốc, đã luôn luôn anh dũng tuyệt vời, hy sinh cao cả, chịu đựng gian khổ, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết keo sơn, lao động dũng cảm, biểu thị một truyền thống cách mạng tốt đẹp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chủ tịch, trung thành tuyệt đối vô hạn với sự nghiệp cách mạng. Quân đội nhân dân ta rất xứng đáng với Tổ quốc, với nhân dân, xứng đáng là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng".

Lời tuyên dương của Quốc hội đã khẳng định bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam, động viên toàn quân hăng hái tiến lên mạnh mẽ để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam.

Kỳ họp thứ 11 của Quốc hội đã dành phần lớn thời gian để thảo luận và thông qua Luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật hôn nhân gia đình, đặc biệt là thảo luận và thông qua Hiến pháp mới.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội gồm 9 chương và 60 điều quy định về nguyên tắc tổ chức và quá trình bầu cử Quốc hội. Luật ghi rõ: trừ những người phạm pháp và mất trí, tất cả "công dân nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền bầu cử Quốc hội, và từ 21 tuổi trở trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội" (Điều 2). "Công dân đang ở trong Quân đội có quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Quốc hội" (Điều 3). Bầu cử đại biểu Quốc hội theo nguyên tắc phổ thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 1). "ở mỗi đơn vị bầu cử, các chính đảng, các đoàn thể nhân dân có thể riêng biệt hoặc liên hiệp với nhau mà giới thiệu người ra ứng cử. Cá nhân có quyền tự ra ứng cử" (Điều 24). Căn cứ vào tính chất của Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước dân chủ nhân dân và để bảo đảm thành phần Quốc hội gồm đầy đủ các giai cấp cách mạng, các dân tộc, các đặc điểm địa phương trong nước, bảo đảm quan hệ mật thiết giữa đại biểu với nhân dân, Luật quy định cứ năm vạn dân được cử một đại biểu. Riêng các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp có thể từ một vạn đến ba vạn dân được cử một đại biểu. ở miền Bắc, dân tộc thiểu số có số dân trên hai triệu, chiếm khoảng 1/7 dân số miền Bắc. Vì vậy, Luật dành khoảng 1/7 số đại biểu Quốc hội cho các dân tộc thiểu số. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội này là nhằm chuẩn bị cho việc thực hiện Hiến pháp mới, bầu cử Quốc hội khoá II.

Luật hôn nhân gia đình có 6 chương gồm 35 điều quy định nguyên tắc chung, về kết hôn, về nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng, về quan hệ gữa cha mẹ và con cái, về ly hôn, v.v.. Luật khẳng định: "Nhà nước đảm bảo việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ, một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, yêu thương nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ" (Điều 1), "xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái" (Điều 2), "cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ (Điều 3).

Luật hôn nhân gia đình được thông qua dựa trên bốn nguyên tắc căn bản là: Hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi phụ nữ và con cái. Đó là chỗ dựa và vũ khí đấu tranh của nhân dân, nhất là chị em phụ nữ, để cải tạo gia đình cũ, xây dựng, củng cố và phát triền những quan hệ gia đình mới tiến bộ dựa trên cơ sở hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa.

Về Hiến pháp sửa đổi, sau khi hoàn thành bản dự thảo, từ ngày 1-7 đến ngày 30-9-1958 đã đưa ra trưng cầu ý kiến các đại biểu Quốc hội, các cán bộ trung cao cấp, các chính đảng, đoàn thể, các cơ quan chính quyền. Đã có khoảng 500 người tham gia góp 1700 ý kiến. Ban sửa đổi đã nghiên cứu các ý kiến đó, chỉnh lý làm bản dự thảo lần thứ hai và ngày 1-4-1959 đã đưa ra công bố để toàn dân thảo thuận. Trong suốt bốn tháng liền, hàng triệu người đã tham gia thảo luận và phát biểu ý kiến. Việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo Hiến pháp đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi, có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia. Trên báo trí, việc thảo luận cũng rất sôi nổi, phong phú. Sau khi tiến hành xong cuộc trưng cầu ý dân rộng rãi, Ban sửa đổi Hiến pháp chỉnh lý một lần nữa, hoàn chỉnh bản dự thảo để trình Quốc hội. Kể từ ngày thành lập, Ban sửa đổi Hiến pháp đã làm việc liên tục và họp 27 lần.

Tại kỳ họp thứ 11 của Quốc hội, ngày 18-12-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trưởng ban sửa đổi Hiến pháp đã thuyết trình trước Quốc hội bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Sau đó, Quốc hội đã thảo luận trong nhiều ngày rất sôi nổi. Ban sửa đổi tập trung các ý kiến đó lại, thảo luận chỉnh lý một lần nữa. Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã họp phiên toàn thể biểu quyết thông qua Hiến pháp mới với sự nhất trí tuyệt đối: 206 phiếu tán thành trên 206 đại biểu có mặt. Việc Quốc hội thông qua Hiến pháp mới là sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại. Trong lời phát biểu sau khi Quốc hội thông qua bản Hiến pháp mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Bản Hiến pháp mới của chúng ta sẽ khuyến khích hơn nữa đồng bào miền Bắc thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích đồng bào miền Nam đấu tranh bền bỉ hơn nữa để đòi tự do dân chủ và thống nhất nước nhà" .

Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 1/SL công bố Hiến pháp mới.

Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có Lời nói đầu, và 112 điều chia thành 10 chương. Chương I (từ Điều 1 đến Điều 8): Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Chương II (từ Điều 9 - 21): Chế độ kinh tế và xã hội; Chương III ( từ Điều 22-42): Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương IV (từ Điều 43-60): Quốc hội; Chương V (từ Điều 61-70): Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Chương VI (từ Điều 71-77): Hội đồng Chính phủ; Chương VII (từ Điều 78-96): Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính địa phương các cấp; Chương VIII (từ Điều 97-108): Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; Chương IX (từ Điều 109-111): Quốc kỳ - Quốc huy - Thủ đô; Chương X (Điều 112): Sửa đổi Hiến pháp.

Lời nói đầu của Hiến pháp đã ghi rõ nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, là một dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử, cần cù lao động, anh dũng đấu tranh, xây dựng và giữ gìn độc lập của Tổ quốc. Hiến pháp ghi lại nhứng thành quả đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, biểu dương sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và thừa nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp đã nêu rõ mục đích phấn đấu của nhân dân trong giai đoạn mới. Đó là sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.

Chương I, Hiến pháp khẳng định: "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc.

Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm.

... Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung" (Điều 3).

"Tất cả các quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân" (Điều 4).

"Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liện hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Tất các các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân" (Điều 6).

Về chế độ kinh tế và xã hội, Hiến pháp khẳng định : "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.

Mục tiêu cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân" (Điều 9).

Các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất được xác nhận bao gồm: Sở hữu của Nhà nước tức của toàn dân, sở hữu của Hợp tác xã tức của tập thể nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. "Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên" (Điều 12). Kinh tế hợp tác xã thuộc hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động được "nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ sự phát triển" (Điều 13). Nhà nước chiểu theo Pháp luật bảo hộ các quyền sở hữu "về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân", "về tư liệu sản xuất của những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác", "về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc" (Điều 14, 15, 16). "Nhà nước ra sức hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh, góp phần phát triển kinh tế quốc dân phù hợp với kế hoạch kinh tế của nhà nước. Nhà nước khuyến khích và hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác" (Điều 16). Nhà nước còn bảo hộ các quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, các thứ vật dụng riêng biệt, và bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của họ (Điều 19, 20), "Nhà nước khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần tích cực trong lao động của những người lao động chân tay và lao động trí óc" (Điều 21).

Hiến pháp đã quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Về quyền lợi, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín, quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của cơ quan nhà nước, quyền làm việc, nghỉ ngơi, quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động, quyền học tập, thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, quyền nghiên cứu khoa học và sáng tạo. Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình, Nhà nước bảo hộ quyền lợi bà mẹ trẻ em, hôn nhân và gia đình, Nhà nước cố gắng bảo đảm và tạo các điều kiện cần thiết để các quyền trên của công dân được thực sự tôn trọng. Đồng thời cũng không cho phép lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Nhà nước còn bảo hộ các quyền lợi chính đáng của Việt kiều và cho phép những người đấu tranh vì hoà bình, tự do, tiến bộ xã hội mà bị bức hại trú ngụ. Về nghĩa vụ, công dân Việt Nam có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội, tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng, có nghĩa vụ đóng thuế. Đặc biệt, "bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc" (Điều 42).

Hiến pháp đã quy định xây dựng một bộ máy nhà nước kiểu mới trên nguyên tắc tập trung dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. ở cấp Trung ương, trước hết là Quốc hội, "cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" (Điều 43), "là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp" (Điều 44), với nhiệm kỳ mỗi khoá là bốn năm. Quốc hội có những quyền hạn sau đây: làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và giám sát việc thi hành Hiến pháp, làm pháp luật, bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; theo đề nghị của Chủ tịch nước cử Thủ Tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Quốc phòng và theo đề nghị của Thủ tướng cử Phó Thủ tướng và các thành viên của Hội đồng Chính phủ. Đồng thời Quốc hội có quyền bãi miễn các thành viên nói trên. Quốc hội quyết định kế hoạch kinh tế nhà nước, xét duyệt và phê chuẩn dự luật và quyết toán ngân sách nhà nước, ấn định các thứ thuế, phê chuẩn thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ, phê chuẩn địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương, quyết định đại xá, quyết định các vấn đề chiến tranh và hoà bình. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Quốc hội có quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hiến pháp quy định rõ các quyền hạn cụ thể của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội như quyền tổ chức tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội, triệu tập Quốc hội, giải thích pháp luật, ra pháp lệnh, quyết định trưng cầu dân ý và một số quyền hạn khác, kể cả một số quyền hạn đặc biệt trong thời gian Quốc hội không họp như tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp đất nước bị xâm lược. Hiến pháp cũng quy định quyền hạn của các đại biểu Quốc hội. "Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là người thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về mặt đối nội và đối ngoại" (Điều 61). Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch nước. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và được trao những quyền hạn cụ thể căn cứ vào quyết định của Quốc hội và của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. "Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội" (Điều 71). Hội đồng Chính phủ căn cứ vào Hiến pháp, pháp luật và pháp lệnh mà quy định những biện pháp hành chính, ban bố những Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những Nghị định, Nghị quyết và Chỉ thị ấy. Trong khi thi hành chức vụ, các thành viên của Hội đồng Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi trái với Hiến pháp và pháp luật gây thiệt hại cho Nhà nước hay là cho nhân dân. ở cấp địa phương gồm có ba cấp: tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, thành phố, thị xã; xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Uỷ ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân nhân dân địa phương, là cơ quan hành chính của nhà nước ở địa phương do Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp bầu ra. Hiến pháp quy định cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp, nhằm bảo đảm sự tập trung thống nhất từ Trung ương tới địa phương và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Hiến pháp cũng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. "Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 100). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định. Viện Kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên và lãnh đạo thống nhất của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và trong trường hợp Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân địa phương.

Tóm lại, như Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 khẳng định: "Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng, giúp nhau giữa các dân tộc trong nước, bảo đảm đưa miền Bắc nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà.

Hiến pháp mới quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ Tổ quốc.

Hiến pháp mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến pháp mới là sức mạnh động viên nhân dân cả nước ta phấn khởi tiến lên giành những thắng lợi mới".

Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội còn quyết định một số vấn đề quan trọng chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội khoá II, trong đó có vấn đề các đại biểu Quốc hội đại diện cho nhân dân miền Nam.

Quốc hội nước ta tiêu biểu cho ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc, ý chí độc lập, thống nhất và dân chủ của nhân dân. Quốc hội là đại biểu chân chính cho đồng bào cả nước. Do hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chia cắt lâu dài đất nước ta của đế quốc Mỹ và tay sai, cuộc Tổng tuyển cử mà toàn dân mong đợi để thống nhất nước nhà theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ chưa thực hiện được. Chính quyền Ngô Đình Diệm theo lệnh Mỹ khăng khăng từ chối mọi đề nghị hợp tình hợp lý của Chính phủ ta nhằm thống nhất nước nhà bằng biện pháp hoà bình. Trong khi vẫn kiên trì đấu tranh cho sự nghiệp hoà bình thống nhất đất nước, và chờ đợi cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới. Luật bầu cử Quốc hội. Quốc hội được bầu lại là Quốc hội tiêu biểu cho cả nước, vì Quốc hội của ta là Quốc hội của một nước thống nhất. Vậy nhân dân miền Nam phải có đại biểu xứng đáng của mình trong Quốc hội. Trải qua 8, 9 năm kháng chiến vô cùng gian khổ và anh dũng, các đại biểu miền Nam trong Quốc hội đã gắn bó với nhân dân, đoàn kết phấn đấu ở tiền tuyến cũng như hậu phương, nhiều đại biểu đã anh dũng hy sinh. Từ ngày hoà bình lập lại, các đại biểu miền Nam trong Quốc hội tập kết ra Bắc đã được đồng bào miền Nam ruột thịt trao cho vinh dự làm nhiệm vụ tiếp tục truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân miền Nam, đem hết nhiệt tình xây dựng miền Bắc, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Các đại biểu đó vẫn thường xuyên theo dõi tình hình miền Nam ruột thịt, cổ vũ đồng bào miền Nam nói chung và địa phương mình nói riêng, mặt khác vẫn liên hệ mật thiết với đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc. Các đại biểu vẫn tiếp tục làm trọn nhiệm vụ đại biểu Quốc hội của mình trong điều kiện mới. Vì vây, để đạt được tính chất tiêu biểu của Quốc hội cho cả nước, trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, cuộc Tổng tuyển cử chưa thể tiến hành được ở miền Nam, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua "Nghị quyết kéo dài nhiệm kỳ của các đại biểu Quốc hội đã được nhân dân miền Nam bầu ra ngày 6-1-1946 cho đến khi có nghị quyết mới". Bản nghị quyết nêu rõ: "Nước Việt nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiêu biểu cho tính chất thống nhất của cả nước ta và tiêu biểu ý chí đấu tranh thống nhất của nhân dân ta từ Bắc chí Nam. Trong Quốc hội phải có những người đại diện xứng đáng cho nhân dân miền Nam". Trước quyết định trên của Quốc hội, thay mặt cho các đại biểu miền Nam trong Quốc hội, Tôn Đức Thắng đã bày tỏ: "Điều này làm cho nhân dân miền Nam cũng như chúng tôi, đại biểu của miền Nam, cảm thấy sung sướng và cảm động, vì đồng bào miền Nam chúng tôi, mặc dù thế, cũng được có đại diện của mình ở Quốc hội mới, được tham gia về ý kiến, về việc làm trong sự củng cố và xây dựng miền Bắc, cơ sở cho đồng bào miền Nam đấu tranh giải phóng bản thân mình.

Điều đó là một vinh dự và một quyền lợi của nhân dân miền Nam chúng tôi, do Nghị quyết của Quốc hội kỳ họp thứ 11 này, nghị quyết ấy thể hiện mối tình ruột thịt, lòng thiết tha với thống nhất đất nước của các quý vị đại biểu.

Thay mặt nhân dân miền Nam và các bạn đại biểu miền Nam, chúng tôi xin phép tỏ lòng biết ơn các quý vị đại biểu, và xin hứa chúng tôi sẽ cố gắng làm nhiệm vụ để khỏi phụ lòng tin cậy của các vị, khỏi phụ lòng tin cậy của đồng bào miền Nam và đồng bào toàn quốc".

Kỳ họp thứ 11 kết thúc cũng là ngày cuối của năm 1959, mở đầu năm 1960. Trong lời phát biểu sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Ngày mai là năm mới, nhân dân có bản Hiến pháp mới, đó là một kỷ nguyên mới, đẩy mạnh tiến bộ mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà".

Mở đầu năm 1960, nhân dân miền Nam đã mở rộng cuộc khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ trên nhiều vùng rộng lớn ở nông thôn và miền núi. Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chuyển sang thế tiến công mạnh mẽ, liên tục. Nhân dân miền Bắc đang sôi nổi thi đua thực hiện kế hoạch kinh tế năm 1960 và chuẩn bị tiến tới ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá II. Trong không khí đó, kỳ họp thứ 12 của Quốc hội từ ngày 11 đến ngày 15-4-1960 với sự tham gia của 211 đại biểu. Quốc hội đã thông qua kế hoạch nhà nước năm 1960, thông qua Luật nghĩa vụ quân sự.

Luật nghĩa vụ quân sự gồm có 8 chương và 42 điều, quy định về các nguyên tắc chung, về chế độ phục vụ của quân nhân tại ngũ và quân nhân dự bị, về đăng ký nghĩa vụ quân sự, thống kê và quản lý quân dự bị, về tuyển binh, về huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị, về động viên thời chiến, về quyền lợi và nghĩa vụ của quân nhân tại ngũ và quân nhân dự bị. Luật khẳng định: "Nghĩa vụ quân sự là nhiệm vụ vẻ vang của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đối với Tổ quốc" (Điều 1). Trừ những người bị tước quyền công dân hoặc đang bị giam giữ còn "Những công dân nam giới từ 18 đến 45 tuổi, không phân biệt dân tộc nghề nghiệp, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xã hội và trình độ văn hoá, đều có nghĩa vụ quân sự" (Điều 1). Phụ nữ có quyền làm nghĩa vụ quân sự phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế riêng của giới mình. Vì vậy "Phụ nữ từ 18 đến 45 tuổi có kỹ thuật chuyên môn cần cho quân đội cũng đăng ký nghĩa vụ quân sự" (Điều 17). Nghĩa vụ quân sự chia làm hai ngạch: ngạch tại ngũ và dự bị. Lứa tuổi tuyển vào quân đội thường trực trong thời bình từ 18 đến 25 tuổi, thời chiến sẽ do Hội đồng Quốc phòng quy định. Luật nghĩa vụ quân sự đánh dấu một bước mới trên con đường xây dựng quân đội theo hướng chính quy hiện đại. Suốt trong thời kỳ kháng chiến và từ ngày hoà bình lập lại, nhà nước ta xây dựng Quân đội nhân dân chủ yếu trên tinh thần tự nguyện tự giác. Với tinh thần tự nguyện tự giác, những người con ưu tú đó của đất nước đã không tiếc bất kỳ sự hy sinh nào để diệt giặc cứu nước đưa kháng chiến đến thắng lợi, đem lại hoà bình cho Tổ quốc. Ngày nay trong tình hình mới, vừa xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đòi hỏi không những phải có một đội quân thường trực, xây dựng trên cơ sở chính quy hiện đại, mà còn phải có một lực lượng dự bị hùng hậu. Chúng ta tha thiết yêu chuộng và kiên quyết giữ vững hoà bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn đề cao cảnh giác, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân, chế độ nghĩa vụ quân sự vừa bảo đảm cho việc giảm quân số thường trực, tiết kiệm các khoản chi tiêu về quân sự trong thời bình để tập trung vào xây dựng kinh tế và văn hóa, đồng thời vẫn thoả mãn được yêu cầu quốc phòng. Chế độ tình nguyện tòng quân trước đây không xây dựng được quân dự bị có tổ chức và được huấn luyện chặt chẽ, nên không thể giảm bớt được quân số thường trực. Chế độ nghĩa vụ quân sự bảo đảm cho mọi tầng lớp công dân Việt Nam được vinh dự thay nhau gánh trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc một cách công bằng, hợp lý, thích hợp với nguyện vọng của quảng đại nhân dân. Đồng thời nó còn tạo điều kiện để phổ cập tri thức quân sự một cách rộng rãi trong nhân dân, vừa sản xuất vừa sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên luân phiên nhau làm nghĩa vụ quân sự sẽ có điều kiện để nâng cao trình độ về mọi mặt, được rèn luyện về thể lực, tổ chức và kỷ luật. Khi hết hạn tại ngũ trở về họ sẽ là lực lượng mạnh mẽ trong đội ngũ quân dự bị và lực lượng tích cực trong lao động sản xuất. "Luật này - như Hồ Chí Minh nói - rất cần thiết cho công việc củng cố quốc phòng, giữ gìn hoà bình, đồng thời nó làm thoả mãn nguyện vọng của đồng bào được góp phần vẻ vang bảo vệ Tổ quốc".

Kỳ họp thứ 12 của Quốc hội kết thúc cũng là kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá I.

Ngày 8-5-1960, nhân dân miền Bắc đã bầu Quốc hội mới - Quốc hội khoá II của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Kế thừa và phát huy tinh thần truyền thống của Quốc hội khoá I, Quốc hội khoá II chắc chắn sẽ đem tất cả tinh thần và sức lực để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng miền Bắc, ủng hộ và chi viện cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam vì một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Kể từ ngày 6-1-1946 - ngày Tổng tuyển cử đầu tiên để bầu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến ngày 15-4-1960, ngày bế mạc kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá I, Quốc hội đã trải qua hơn 14 năm hoạt động đầy thử thách, cam go và giành được những thắng lợi to lớn.

Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là thành quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong gần chín thập kỷ, đặc biệt là 15 năm đấu tranh trực tiếp dưới ngọn cờ Độc lập Tự do của Đảng Cộng sản, đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Cách mạng tháng Tám thành công. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Toàn dân Việt Nam không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, từ 18 tuổi trở lên đã sử dụng quyền công dân của một nước độc lập tự do, lựa chọn trực tiếp và bỏ phiếu kín để bầu ra Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đó là một Quốc hội của dân, do dân và vì dân. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là "Quốc hội dân chủ đầu tiên ở vùng Đông Nam Châu á, cũng là Quốc hội đầu tiên của các nước thuộc địa cũ được độc lập tự do".

Đại biểu Quốc hội khoá I do nhân dân bầu ra là những người đại diện cho nhân dân ở ba miền đất nước: Bắc bộ (152 đại biểu), Trung bộ (108 đại biểu), Nam bộ (73 đại biểu), đại diện cho các đảng cách mạng và dân chủ, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc thiểu số, các tôn giáo và nhân sĩ trí thức yêu nước. Do hoàn cảnh đặc biệt có tính ngoại lệ, Quốc hội đã mở rộng thêm 70 đại biểu cho Việt Quốc và Việt Cách không qua bầu cử. Đây là đại biểu của hai đảng chính trị đối lập, chống đối cách mạng, chống đối Việt Minh, chống Chính phủ rất quyết liệt. Song Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và thống nhất quốc gia, dựa chắc vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các lực lượng yêu nước và cách mạng trong Quốc hội, đồng thời có sách lược khôn khéo, mềm dẻo, nhân nhượng, thoả hiệp, hoà giải có nguyên tắc, từng bước làm thất bại các âm mưu phá hoại của họ và buộc họ từ đối lập phải "đồng tình" và hợp tác để bảo vệ quyền độc lập rự do. Sau khi Quân đội Tưởng rút khỏi miền Bắc, các phần từ cầm đầu phản động đã lần lượt bỏ trốn. Thực tiễn cách mạng và kháng chiến quyết liệt về sau tiếp tục sàng lọc đã làm cho Quốc hội trở nên thuần nhất. Vì thế, Quốc hội khoá I là một Quốc hội dân tộc thống nhất của cả nước, của sự đoàn kết chân thành giữa các đảng phái yêu nước cách mạng (Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội), các đoàn thể nhân dân, các dân tộc thiểu số, các tôn giáo, các nhân sĩ, trí thức yêu nước dưới ngọn cờ độc lập tự do của Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Sau khi ra đời, Quốc hội đã thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam để thực hiện kháng chiến và kiến quốc, giữ vững chính quyền cách mạng trong thời kỳ trứng nước. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ (1946-1954), Quốc hội luôn luôn bên cạnh Chính phủ, đi sát nhân dân, động viên toàn dân, toàn quân tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện và lâu dài, vừa chiến đấu, vừa phát triển lực lượng, đem sức ta mà giải phóng cho ta, đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ - mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa trong thế kỷ XX, một cột mốc vàng chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước, một chiến công hiển hách của thời đại Hồ Chí Minh và đi vào lịch sử thế giới như một sự kiện vĩ đại báo hiệu thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức đang chiến đấu vì độc lập tự do, vì tiến bộ xã hội, vì nhân phẩm của con người.

Quốc hội đã cùng Chính phủ củng cố chế độ dân chủ cộng hoà, thực hiện những cải cách dân chủ, từng bước đem lại ruộng đất cho nông dân, tiến lên cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Hoàn thành cách mạng ruộng đất là một thắng lợi chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Bắc Việt Nam.

Từ năm 1954 đến năm 1960, Quốc hội đã quyết tâm thi hành đúng đắn Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh đòi chính quyền Ngô Đình Diệm phải lập quan hệ bình thường giữa hai miền Bắc và Nam, cùng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tổ chức Tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Quốc hội đã thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố và tăng cường Nhà nước, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, đưa miền Bắc tiến dần từng bước theo con đường xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước; chi viện, tạo thế, tạo lực cho cách mạng miền Nam tiến lên đánh bại chiến tranh đơn phương của Mỹ và tay sai.

Thắng lợi của 14 năm hoạt động chứng tỏ rằng: Quốc hội đã hết lòng vì dân, vì nước, một Quốc hội thống nhất, Quốc hội kháng chiến và kiến quốc, Quốc hội dân tộc, dân chủ theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I là Quốc hội lập hiến. Song do hoàn cảnh đặc biệt của nước ta năm 1946 nên Hiến pháp chưa được ban hành. Quốc hội vẫn tiếp tục hoạt động suốt 8 năm kháng chiến và những năm đầu sau khi hoà bình được lập lại (1954). Thực tiễn cách mạng và kháng chiến đã giao trọng trách cho Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ đã ghi trong các điều 22, 23, 24 của Hiến pháp năm 1946. Quốc hội trở thành cơ quan cao nhất đại diện quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết mọi vấn đề chung của đất nước, xây dựng Hiến pháp và pháp luật, biểu quyết ngân sách, quyết định tuyên chiến và đình chiến, chuẩn y các hiệp ước do Chính phủ ký với nước ngoài. Ngay sau khi mới thành lập, Ban Thường trực Quốc hội đã cùng với Hội đồng Chính phủ quyết định ký Hiệp định sơ bộ 6-3 với Pháp; đã phát động cuộc kháng chiến trong toàn quốc tháng 12-1946... Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Ban Thường trực Quốc hội thường xuyên bên cạnh Chính phủ để bàn bạc, góp ý kiến và giám sát Hội đồng Chính phủ về việc ban hành và thực thi các chính sách kháng chiến. Đặc biệt từ 1954 đến 1960, trong điều kiện miền Bắc đi vào hoà bình xây dựng đất nước, Quốc hội đã sinh hoạt định kỳ đều đặn để quyết định các vấn đề lớn về quốc kế dân sinh, về chính trị, quân sự, về ngân sách, v.v...

Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng việc xây dựng Hiến pháp và các đạo luật. Hơn 14 năm hoạt động, trong đó thời gian chiến tranh ác liệt đã chiếm gần 9 năm, song Quốc hội đã hai lần xây dựng Hiến pháp (Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959), thông qua nhiều đạo luật lớn (Luật cải cách ruộng đất, Luật bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân, Luật về quyền tự do hội họp, Luật về quyền tự do lập hội, Luật về chế độ báo chí, Luật công đoàn, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử Quốc hội, v.v...). Các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp và luật pháp quy định khá cụ thể. Nội dung cơ bản của các quyền dân tộc và dân chủ đó vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn, đang được kế thừa và phát triển trong điều kiện mới của đất nước ngày nay. Thực tiễn đó chứng tỏ rằng Quốc hội - cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thực thi việc lập hiến và lập pháp nhằm điều hành đất nước bằng luật pháp.

Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận dân tộc thống nhất, các đoàn thể quần chúng, các đảng phái cách mạng và dân chủ - Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội - là những bộ phận hợp thành hệ thống chính trị thống nhất và tập trung của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hệ thống chính trị đó là sản phẩm khách quan của những điều kiện lịch sử, chính trị của quá trình sàng lọc trong cuộc đấu tranh dân tộc quyết liệt của nhân dân ta tạo nên. Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị đó đã loại trừ được phân ly, chia rẽ và đối lập giai cấp, đảng phái, tạo nên một khối đoàn kết thống nhất vững chắc, một sức mạnh cách mạng tập trung, sức mạnh dân tộc để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược lớn mạnh, đưa cuộc cách mạng và kháng chiến của dân tộc đến thắng lợi vẻ vang.

Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I là một bộ phận trong hệ thống chính trị thống nhất của nước ta, là một Quốc hội dân tộc thống nhất do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc nên đã làm tròn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những người đại biểu nhân dân, vì dân, vì nước.

Xây dựng được một Quốc hội dân tộc thống nhất làm tròn được nhiệm vụ của mình một cách vẻ vang chính vì Quốc hội gồm những đại biểu ưu tú của nhân dân, của dân tộc, yêu nước, yêu dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng, tận tuỵ với công việc, không sờn lòng trước khó khăn gian khổ, bất khuất trước kẻ thù, luôn luôn gắn bó với nhân dân, với Chính phủ và Đảng, Quốc hội luôn luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Quốc hội đã thừa nhận sự lãnh đạo về chính trị của Đảng Cộng sản, một đảng cách mạng và trí tuệ, có một đường lối chính trị và tổ chức đúng, phù hợp với yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến kiến quốc. Chính vì vậy, Quốc hội đã được nhân dân tin tưởng, bảo vệ và chấp hành mọi nghị quyết của Quốc hội.

Đặc biệt chúng ta có một vị lãnh tụ vô cùng kính yêu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là linh hồn của cách mạng và kháng chiến kiến quốc, là hạt nhân đoàn kết dân tộc, đoàn kết Quốc hội, là người vạch đường lối cho Quốc hội vượt qua những giây phút hiểm nghèo của lịch sử, hướng Quốc hội vào những quyết sách lớn, đưa dân tộc Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi vẻ vang.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là linh hồn của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Ngọn cờ Độc lập Tự do là mục tiêu đấu tranh, là động lực, là sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quốc hội, của nhân dân Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang tiếp tục khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường đoàn kết dân tộc, thống nhất quốc gia, xây dựng một hệ thống chính trị thống nhất, một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đổi mới và phát triển, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mang bản sắc Việt Nam.