BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI (*)
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Trong thời gian 9 tháng qua, từ sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa IV (tháng 6-1971) đến nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã họp 11 lần, thông qua 103 nghị quyết về các vấn đề thuộc quyền hạn của Uỷ ban.
Sau đây, chúng tôi xin báo cáo về các mặt hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
I- VỀ VIỆC THI HÀNH NGHỊ QUYẾT NGÀY 10-4-1965
CỦA QUỐC HỘI GIAO CHO UỶ BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI MỘT SỐ QUYỀN HẠN TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Thi hành Nghị quyết ngày 10-4-1965 của Quốc hội giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội một số quyền hạn trong tình hình mới, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết ngày 09 tháng 12 năm 1971 phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1970.
Trong kỳ họp này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xét và phê chuẩn Nghị quyết nói trên.
II- VỀ CÔNG TÁC PHÁP LUẬT
Ngày 14 tháng 8 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết tha cho những phạm nhân đã cải tạo tốt và giảm hạn tù cho những phạm nhân thật thà cố gắng sửa chữa, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ 26 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
III- VỀ TỔ CHỨC CỦA NHÀ NƯỚC
a) Về việc bổ sung Ban thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Ngày 19 tháng 01 năm 1972, theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định cử đồng chí Nguyễn Xuân Linh, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và đồng chí Hồ Ngọc Thu, Uỷ viên dự khuyết Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để tăng cường bộ máy làm việc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
b) Về việc bổ nhiệm các Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại các nước
Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định:
- Ngày 12-6-1971, bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Hữu Ngô giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại Vương quốc Thụy Điển, thay đồng chí Nguyễn Thọ Chân thôi kiêm nhiệm chức vụ này; và đồng chí Dương Đức Hà giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, thay đồng chí Nguyễn Hữu Ngô.
- Ngày 30-10-1971, bổ nhiệm đồng chí Võ Thúc Đồng giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại Liên Xô, thay đồng chí Nguyễn Thọ Chân về nước nhận công tác khác.
c) Về việc bổ nhiệm các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ngày 30-10-1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm các đồng chí Nguyễn Trường Châu và Nguyễn Văn Phương làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm các đồng chí Trần Lâm, Trần Sang, Vương Đăng Bôi, Đặng Thanh, Hoàng Vĩnh Thạnh, Phạm Công, Nguyễn Bá Kim làm Thẩm phán dự khuyết Tòa án nhân dân tối cao.
IV- VỀ VIỆC TẶNG THƯỞNG DANH HIỆU ANH HÙNG VÀ TẶNG THƯỞNG HUÂN CHƯƠNG
Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tặng thưởng danh hiệu Anh hùng và tặng thưởng huân chương các loại cho nhiều đơn vị và cá nhân:
- Tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 15 đơn vị và 9 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam, và dân quân, tự vệ đã lập được nhiều thành tích rất xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
- Tặng thưởng Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công cho 9.296 đơn vị, cán bộ và chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân vũ trang và dân quân, dân công, tự vệ đã có nhiều thành tích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tặng thưởng 724 Huân chương Kháng chiến cho một số đơn vị đã có nhiều thành tích trong phong trào tòng quân và cho một số gia đình có nhiều người tham gia các lực lượng vũ trang nhân dân chống Mỹ, cứu nước.
- Tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cho nhiều cán bộ và chiến sĩ đã có thành tích phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân vũ trang từ sau ngày 20-7-1954.
- Tặng thưởng 46 Huân chương Lao động cho 38 đơn vị, địa phương và 8 cá nhân, đã có nhiều thành tích xuất sắc trong sản xuất, công tác và phục vụ chiến đấu, chấp hành tốt chính sách.
- Tặng thưởng 2 Huân chương Độc lập, 64 Huân chương Chiến công và 18 Huân chương Lao động cho 83 chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã có công giúp Chính phủ và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
V- VIỆC GIẢI QUYẾT ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO VÀ THƯ DÂN NGUYỆN CỦA NHÂN DÂN
Từ sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa IV đến nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhận được 2.553 đơn khiếu nại, tố cáo và thư dân nguyện của nhân dân. Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp 631 lần người tới cơ quan nộp đơn và trình bày sự việc.
Các đơn và thư nêu lên các trường hợp :
- Quyền dân chủ của nhân dân bị xâm phạm.
- Cán bộ không chấp hành đúng chính sách, chế độ.
- Vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Trình bày nguyện vọng, góp ý kiến bổ sung chính sách, hoặc kiến nghị biện pháp giải quyết một số vấn đề xã hội hiện nay.
Những đơn nói trên đã được Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nghiên cứu và chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm xét giải quyết, đồng thời theo dõi góp ý kiến và nhắc nhở việc giải quyết.
Trong phiên họp ngày 19, ngày 20-01-1972 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Ban thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo về công tác khiếu tố của Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong mấy năm gần đây. Số đơn khiếu tố và số lần người tới cơ quan trình bày sự việc ngày càng tăng (từ 914 đơn năm 1968 lên 3.079 năm 1971, từ 165 lần người năm 1968 lên 1.162 lần năm 1971). Các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Uỷ ban hành chính các cấp, các tổ chức của các đoàn thể đã quan tâm đến việc giải quyết các đơn khiếu tố hơn trước. Một số Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương và một số đồng chí đại biểu Quốc hội công tác ở các cơ quan Trung ương cũng tích cực tham gia việc giải quyết đơn. Nhờ đó, số vụ khiếu tố được giải quyết có tăng lên. Tuy nhiên, sự tiến bộ trên còn chưa đều, và đơn khiếu tố còn ứ đọng nhiều.
Để giải quyết tốt công tác này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đề ra một số chủ trương như: tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xúc tiến việc xây dựng pháp lệnh cụ thể hóa Điều 29 của Hiến pháp quy định trách nhiệm cho các cơ quan, các cấp, các ngành, các địa phương về việc giải quyết đơn khiếu tố của nhân dân; tăng cường quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; tăng cường giáo dục tư tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cho cán bộ và nhân dân; tăng cường công tác kiểm tra và thanh tra; tăng cường đôn đốc việc giải quyết đơn khiếu tố.
VI- VỀ QUAN HỆ VỚI CÁC ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Sau kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa IV, mặc dù rất bận thu hoạch vụ đông - xuân, làm mùa, tuyển quân và nhiều công tác khác, nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức báo cáo với nhân dân về nội dung và kết quả kỳ họp.
Tối 13-6-1971, đại biểu các tầng lớp nhân dân Thủ đô và đông đủ các đồng chí đại biểu Quốc hội của Hà Nội đã họp mít tinh trọng thể chào mừng thắng lợi kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa IV. Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tới dự và phát biểu ý kiến.
Ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Linh, Sơn La, Nghĩa Lộ, Hòa Bình, Bắc Thái, Hà Giang, Cao Bằng, Hà Bắc, Hải Hưng, Hà Tây, Thái Bình, Tuyên Quang, Nam Hà, Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú… các Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương đã báo cáo về kỳ họp Quốc hội tại các cuộc Hội nghị Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội nghị cán bộ, tại các cuộc mít tinh của nhân dân (có cuộc mít tinh có đến 1.000 người dự).
Các đại biểu Quốc hội của Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ cũng đã tổ chức báo cáo về kỳ họp Quốc hội trước các cán bộ, đảng viên của hai Đảng tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam Hà.
Ngoài hoạt động trên, nhiều đoàn còn phân công cho đại biểu về tại cơ sở nơi mình sản xuất, công tác để báo cáo.
Đặc biệt, đoàn Vĩnh Phú đã có một kế hoạch hoạt động tương đối phong phú. Sau khi tổ chức báo cáo thí điểm ở 4 đơn vị bầu cử, 21 đồng chí trong tổng số 25 đại biểu Quốc hội của tỉnh đã chia thành từng nhóm đi báo cáo khắp 23 huyện, thị, tổng cộng 45 buổi, có trên 10.000 người dự. Ngoài ra, trước và sau các cuộc nói chuyện, các đại biểu đã đi thăm hỏi 26 đơn vị bộ đội, cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có con em đi chiến đấu, v.v..
Một số đoàn đã họp để trao đổi kinh nghiệm, bàn bạc về công tác của đoàn, về quan hệ giữa đoàn với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính ở đơn vị của mình. Đặc biệt trong trận lũ lụt lớn năm 1971, nhiều đại biểu đã tích cực tham gia công tác chống lụt, công tác phục hồi sản xuất và khắc phục hậu quả của lũ lụt.
Nhiều đoàn và nhiều đại biểu Quốc hội đã gửi thư hoặc trực tiếp phản ánh với Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, với các Uỷ ban của Quốc hội về tình hình địa phương và hoạt động của đại biểu, góp nhiều ý kiến về việc chấp hành các chính sách của Nhà nước. Những vấn đề do các đại biểu nêu lên trong thời gian qua cũng như những vấn đề đã nêu lên trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa IV, đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gửi đến Chính phủ để giao cho các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu giải quyết.
Những hoạt động vừa qua của các đại biểu đã có tác dụng góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, củng cố sự nhất trí giữa Nhà nước và nhân dân.
VII- VỀ QUAN HỆ VỚI HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vẫn đều đặn nhận được của Hội đồng Chính phủ những nghị quyết, nghị định, chỉ thị, các thông báo thường kỳ về các mặt hoạt động của Hội đồng Chính phủ.
Đại diện Hội đồng Chính phủ thường xuyên tham dự các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trình những đề nghị, dự án cần được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xét và thông qua hoặc báo cáo những vấn đề cần thiết với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, thay mặt Hội đồng Chính phủ, báo cáo về tình hình lũ lụt hồi tháng 8 năm 1971 và công tác chống lụt, phục hồi sản xuất.
Trong lúc miền Bắc nước ta bị thiên tai lớn này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cử các đoàn đại biểu đi thăm các vùng bị lụt, ở các tỉnh Hải Hưng, Hà Bắc, Hà Tây, Vĩnh Phú và Tuyên Quang.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy nạn lũ lụt năm vừa qua tuy nghiêm trọng nhưng được sự lãnh đạo và chỉ đạo tích cực, khẩn trương của Đảng và Chính phủ, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tận tụy, quên mình, đoàn kết, giúp nhau, nêu cao ý thức tổ chức và kỷ luật, nhờ đó chúng ta đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do lũ, lụt gây nên, nhanh chóng khắc phục hậu quả của lũ, lụt, ổn định đời sống, phục hồi sản xuất, bảo đảm trật tự trị an, giữ vững giá cả thị trường, không để xẩy ra dịch tễ, v.v… Nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến, phục vụ chiến đấu vẫn được tiến hành đầy đủ.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã nhắc các ngành hữu quan, các địa phương tiến hành việc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và có những biện pháp tích cực để cho công tác phòng và chống bão, lụt, úng đạt được kết quả tốt hơn nữa; đồng thời tiếp tục ra sức khắc phục những khó khăn tồn tại ở một số địa phương và trên một số mặt công tác để đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước.
- Cuối tháng 10 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nghe quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Vũ Văn Cẩn, thay mặt Hội đồng Chính phủ, báo cáo tình hình công tác y tế trong hơn 25 năm qua và phương hướng, nhiệm vụ của ngành trong thời gian sắp tới.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận định rằng trong hơn 25 năm qua, nhờ thấu suốt đường lối, phương châm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, ngành y tế đã phấn đấu xây dựng được một mạng lưới phòng bệnh và chữa bệnh rộng khắp, đào tạo được một đội ngũ cán bộ đông đảo gắn bó với quần chúng, tận tụy với nghề. Nhờ đó đã ngăn chặn được những bệnh dịch nguy hiểm, giảm tỷ lệ người mắc các bệnh xã hội, hạ thấp tỷ lệ tử vong, tăng tuổi thọ của nhân dân, đối phó kịp thời và có hiệu quả với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phục vụ đắc lực tiền tuyến, bước đầu thực hiện việc kết hợp đông, tây y, xây dựng ngành công nghiệp dược và góp phần làm tốt nghĩa vụ quốc tế về mặt y tế, v.v..
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu dương những thành tích tốt đẹp của cán bộ, công nhân và nhân viên ngành Y tế trong việc phòng bệnh và chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ của cán bộ và nhân dân; hoan nghênh những đóng góp của nhân dân và của cán bộ các cấp, các ngành trong việc xây dựng ngành Y tế. Đồng thời, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã nêu những thiếu sót mà ngành Y tế cần khắc phục để vươn lên làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình.
- Ngày 02 tháng 12 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Trưởng đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta đi thăm hữu nghị nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa báo cáo về cuộc đi thăm của Đoàn.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội rất vui mừng nhận thấy Đoàn đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình, góp phần củng cố và phát triển tình hữu nghị vĩ đại và đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh bản thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc ký ngày 25 tháng 11 năm 1971 tại Bắc Kinh. Đó là một văn kiện quan trọng thể hiện quan hệ hữu nghị, hợp tác, ủng hộ lẫn nhau giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước anh em.
- Ngày 09 tháng 12 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Nguyễn Lam, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, thay mặt Hội đồng Chính phủ, báo cáo về việc Chính phủ bổ sung một số nhiệm vụ cụ thể cho các ngành và các địa phương về kế hoạch nhà nước năm 1971 để tranh thủ các điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa tiềm lực của miền Bắc nước ta nhằm đẩy mạnh đà phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vui mừng thấy việc thực hiện kế hoạch nhà nước 6 tháng đầu năm 1971 có tiến bộ, nên một số chỉ tiêu đã được điều chỉnh lên.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tán thành chủ trương của Chính phủ coi vấn đề xây dựng và vận tải là khâu quan trọng cần được đẩy mạnh và chỉ đạo sát sao trong thời gian này. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng lưu ý Chính phủ cần đẩy mạnh công tác thủy lợi, nhất là việc củng cố đê điều, nạo vét sông ngòi và khai thông một số cửa sông bị bồi lấp thì mới kịp thời phòng, chống lũ lụt cho các năm sau.
VIII- VỀ QUAN HỆ VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội luôn luôn giữ quan hệ mật thiết với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều có đại diện của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội báo cáo công tác thường kỳ và các báo cáo chuyên đề. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong nhiều phiên họp, đã xét một số vấn đề cụ thể về công tác xét xử của ngành Tòa án.
IX- VỀ QUAN HỆ VỚI HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Nhiều đại biểu Quốc hội đã tham gia Hội nghị Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử của mình, để nắm tình hình địa phương, ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, thắt chặt quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Một số đồng chí trong Ban thư ký của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tham dự các kỳ họp của Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố và Khu tự trị, đã góp ý kiến với các địa phương về một số mặt công tác. Các đồng chí cũng đã tìm hiểu tình hình giải quyết các đơn từ khiếu tố của nhân dân do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao cho địa phương giải quyết.
X- VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
1. Nhận lời mời của Xô viết tối cao Liên Xô và Quốc hội một số nước xã hội chủ nghĩa anh em, tháng 8 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cử một Đoàn đại biểu Quốc hội gồm 9 đồng chí do đồng chí Hoàng Văn Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm trưởng đoàn, đi thăm Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc và Rumani.
Mục đích cuộc đi thăm này của Đoàn đại biểu Quốc hội ta là thắt chặt hơn nữa mối tình hữu nghị sẵn có từ lâu, tăng cường hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nhân dân ta và nhân dân các nước anh em trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong thời gian 40 ngày đi thăm các nước anh em (từ 18-8 đến 28-9-1971), đến đâu Đoàn cũng được đón tiếp hết sức niềm nở, trọng thể, đầy tình thân ái, được xem như những người anh em đang chiến đấu thắng lợi từ tiền tuyến trở về.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước anh em và đại biểu các tầng lớp nhân dân đều đánh giá cao và nhiệt liệt ca ngợi cuộc chiến đấu của nhân dân ta, ủng hộ lập trường đúng đắn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, ủng hộ đề nghị 7 điểm ngày 01-7-1971 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pari, tỏ lòng tin tưởng nhân dân Việt Nam nhất định thắng, biểu thị quyết tâm tiếp tục dành cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực cho đến khi thắng lợi hoàn toàn.
Đoàn đã chuyển đến các đồng chí lãnh đạo các nước anh em lời thăm hỏi của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, chuyển đến Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân các nước anh em những tình cảm hữu nghị chân thành và lòng biết ơn sâu sắc của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân ta về sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước của chúng ta.
Đoàn cũng đã giới thiệu những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và nói lên quyết tâm của nhân dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 19 nhằm đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế và chuẩn bị những cơ sở cần thiết để đưa nền kinh tế tiến lên những bước phát triển cao hơn.
Đến thăm bốn nước anh em, Đoàn không những thấy được tình cảm và sự ủng hộ chí tình của nhân dân các nước đó đối với nhân dân ta mà còn có dịp hiểu rõ thêm lịch sử đấu tranh lâu dài, đầy hy sinh và vô cùng anh dũng của nhân dân các nước anh em để bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đoàn đã được thấy tận mắt những thành tựu to lớn về xây dựng đất nước của các nước anh em. Đó là những bài học quý báu về tinh thần hy sinh và dũng cảm chiến đấu và nhiệt tình lao động sáng tạo. Đó cũng là nguồn cổ vũ lớn lao đối với nhân dân ta trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình.
Đoàn đại biểu Quốc hội ta đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ, đã góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu với nhân dân các nước anh em, tranh thủ thêm sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước anh em đối với cuộc chiến đấu của nhân dân ta.
Cuộc đi thăm của Đoàn đạt được kết quả như vậy chính là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt, có đường lối đúng đắn của Đảng, nhờ có cuộc chiến đấu anh hùng và đầy thắng lợi của quân và dân cả nước, nhờ có mối tình hữu nghị sẵn có từ lâu giữa nhân dân ta và nhân dân các nước anh em mà Hồ Chủ tịch kính yêu và Đảng ta đã dày công vun đắp, nhờ có nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của Quốc hội và nhân dân các nước anh em.
2. Sự xâm lược và tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam đã gây lên một làn sóng phẫn nộ không lúc nào ngớt của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý toàn thế giới. Trong thời gian qua đông đảo các nghị sĩ nhiều nước đã lên án đế quốc Mỹ và ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta. Đáp lại, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã gửi điện cảm ơn:
- Hơn 40 nghị sĩ Quốc hội Côlômbia đã ra tuyên bố lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và đòi Mỹ phải rút ngay lập tức quân Mỹ ra khỏi Đông Dương.
- 237 nghị sĩ Quốc hội Ấn Độ đã ký tên vào một bản kiến nghị lên án đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, đòi Chính phủ Mỹ phải nhanh chóng rút hết toàn bộ quân Mỹ ra khỏi Việt Nam trong năm 1971, phải đình chỉ tất cả các cuộc ném bom bắn phá chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- 728 nghị sĩ và nhà hoạt động chính trị, nhân vật nổi tiếng ở Anh, Ấn Độ, Canađa, Úc, Ý, Phần Lan, Manta, Côlômbia và Giamaica đã ký kiến nghị lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và đòi Mỹ phải rút ngay lập tức quân Mỹ ra khỏi Đông Dương.
- 215 trong số 350 nghị sĩ Quốc hội Thụy Điển đã ký tên vào Lời kêu gọi của Uỷ ban Thụy Điển đoàn kết với Việt Nam ủng hộ 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
- Hơn 50 đại biểu Quốc hội Xây Lan1 đã ký vào một bản kiến nghị trao cho sứ quan Mỹ tại Xây Lan, lên án Mỹ ném bom tàn phá các vùng dân cư thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình.
3. Ngày 03 tháng 6 năm 1971, đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đã tiếp Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đồng chí Trường Chinh nhiệt liệt ủng hộ chương trình cứu quốc 8 điểm ghi trong "Lời kêu gọi ngày 13 tháng 4 năm 1971" của Hội nghị Nhân dân tối cao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Chương trình 8 điểm này nhằm hòa bình thống nhất đất nước Triều Tiên rất hợp tình, hợp lý và phản ánh đúng nguyện vọng tha thiết và chính đáng của toàn thể nhân dân Triều Tiên và tình hình thực tế khách quan của nước Triều Tiên hiện nay.
- Ngày 22 tháng 02 năm 1972, đồng chí Hoàng Văn Hoan, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đồng chí Hoàng Văn Hoan nhiệt liệt hưởng ứng bức thư ngày 30-12-1971 của Chủ tịch Hội nghị Nhân dân tối cao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Bạch Nam Un, kịch liệt lên án bọn bù nhìn Pắc Chung Hy theo lệnh đế quốc Mỹ, mới đây đã tuyên bố cái gọi là "tình trạng khẩn trương" ở Nam Triều Tiên 2 và ban hành "Luật quy định những biện pháp đặc biệt phòng thủ quốc gia" nhằm tăng cường chuyên chính phát xít quân phiệt chống lại nhân dân Nam Triều Tiên, tăng cường hành động khiêu khích chiến tranh chống nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, ngăn cản việc thống nhất đất nước.
4. Đầu tháng Hai vừa qua, Ban Thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp Đoàn đại biểu Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội Pháp sang thăm nước ta với mục đích tiếp xúc với các nhà lãnh đạo của nước ta và trao đổi ý kiến về một số vấn đề nhằm cải thiện hơn nữa quan hệ giữa hai nước.
XI- VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC UỶ BAN CỦA QUỐC HỘI
Sau khi được Quốc hội khóa IV bầu ra, các Uỷ ban của Quốc hội đã họp phiên đầu tiên để bàn về chương trình công tác, về cách làm việc của Uỷ ban; cử Phó Chủ nhiệm các Uỷ ban, và góp ý kiến giới thiệu đại biểu bổ sung các Uỷ ban.
Dưới đây là danh sách Phó Chủ nhiệm các Uỷ ban do các Uỷ ban đã bầu ra:
- Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thẩm tra tư cách đại biểu: đồng chí Nguyễn Văn Chi.
- Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dự án pháp luật: đồng chí Trương Tấn Phát.
- Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách: đồng chí Nguyễn Văn Đệ.
- Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thống nhất: đồng chí Nguyễn Văn Chi, đồng chí Vũ Xuân Chiêm.
- Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc: đồng chí Nay Đer.
- Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hóa và Xã hội: đồng chí Trần Tống, đồng chí Nguyễn Cao Luyện.
Trong thời gian qua, sinh hoạt của các Uỷ ban nói chung được đều đặn. Nội dung các cuộc họp phong phú, bao gồm nhiều vấn đề lớn như bảo vệ sức khoẻ nhân dân và cán bộ, giáo dục thiếu niên, kế hoạch nhà nước, ngân sách nhà nước v.v.; trong các phiên họp, các thành viên của các Uỷ ban đã tham gia tích cực, đại biểu các ngành hay địa phương được mời đến báo cáo hay tham gia ý kiến đã nhiệt tình hưởng ứng; gắn liền với một số phiên họp, có Uỷ ban đã tổ chức đi thăm một số cơ sở.
Uỷ ban Dự án pháp luật:
Uỷ ban Dự án pháp luật đã họp để thảo luận về nội dung nhiệm vụ của mình theo Điều 35 Luật tổ chức Quốc hội và về lề lối làm việc của Uỷ ban.
Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách đã họp để:
- Thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước năm 1972, thẩm tra phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1972, và sẽ thuyết trình trước Quốc hội trong kỳ họp này;
- Thẩm tra quyết toán ngân sách nhà nước năm 1970 và đã trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn quyết toán này.
Uỷ ban Dân tộc của Quốc hội đã vạch kế hoạch để các thành viên của Uỷ ban theo dõi tình hình và góp ý kiến với các địa phương trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời thu thập tài liệu chuẩn bị cho Uỷ ban dân tộc họp bàn về công tác của mình trong thời gian tới.
Uỷ ban Thống nhất của Quốc hội đã họp để:
- Kỷ niệm lần thứ 11 ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam;
- Khẳng định sự ủng hộ triệt để đối với giải pháp 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và nhiệt liệt hoan nghênh những chiến thắng to lớn của quân và dân ta ở miền Nam, của quân và dân Lào và Campuchia anh em.
Ngoài ra, Uỷ ban Thống nhất còn thông báo tình hình đấu tranh thống nhất.
Uỷ ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đã họp để:
- Nghe báo cáo về công tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân và cán bộ, góp ý kiến về phương hướng nhiệm vụ của ngành Y tế và đã có ý kiến trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về vấn đề này.
- Nghe báo cáo và thảo luận về vấn đề giáo dục thiếu niên, chuẩn bị trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ý kiến của Uỷ ban về vấn đề này.
*
* *
Trên đây là những công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội trong thời gian từ kỳ họp thứ nhất đến nay.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo để Quốc hội xét.