BÁO CÁO CỦA BỘ QUỐC PHÒNG
VỀ TÌNH HÌNH QUÂN SỰ
(Do ông Nguyễn Đôn, Thiếu tướng,
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
trình bày
tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IV, ngày 05-02-1974)
Thưa Đoàn Chủ
tịch,
Thưa các đồng
chí đại biểu Quốc hội,
Lần này Quốc hội
họp vào đầu xuân mới, giữa lúc nhân dân cả nước ta đang hăng hái tiến lên,
ra sức thi đua làm tròn mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Thay mặt các lực
lượng vũ trang nhân dân tôi xin nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu Quốc
hội và xin chúc kỳ họp lần này của Quốc hội thành công tốt đẹp.
Tôi xin thay mặt
Bộ Quốc phòng báo cáo trước Quốc hội về tình hình quân sự.
Báo cáo của tôi
gồm hai phần sau đây:
1. Diễn biến tình
hình trong năm vừa qua, thắng lợi của ta và thất bại của địch.
2. Triển vọng của
tình hình và nhiệm vụ quân sự.
*
* *
Thưa các đồng
chí và các vị,
Cách đây hơn một
năm, vào đầu xuân 1973, trên đất nước ta đã diễn ra một sự kiện vô cùng lớn
lao. Cuộc kháng chiến oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta chống lại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất, dài
ngày nhất, ác liệt và tàn bạo nhất của tên đế quốc đầu sỏ trên thế giới đã
giành được thắng lợi vĩ đại. Chính phủ Mỹ đã phải ký
“Hiệp
định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Đáng lẽ ra từ đó
đến nay nhân dân cả nước ta đã được sống trong cảnh hòa bình. Nhưng tình
hình thực tế đã diễn ra trái ngược với nguyện vọng tha thiết của nhân dân
ta.
Tuy Mỹ đã buộc
phải thực hiện một số điều khoản của Hiệp định Pari về Việt Nam, rút đội
quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu của Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chấm dứt
hoạt động trực tiếp của các lực lượng vũ trang Mỹ đối với cả hai miền Nam -
Bắc nước ta, trao trả các nhân viên quân sự và một số nhỏ nhân viên dân sự
của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam mà họ bắt và
giam giữ, thi hành một phần nghĩa vụ tháo gỡ, làm mất hiệu lực vĩnh viễn,
phá hủy mìn mà Mỹ đã thả ở vùng biển, các cảng và sông ngòi ở miền Bắc Việt
Nam. Nhưng Mỹ và tay sai đã vi phạm, phá hoại toàn diện, có hệ thống và rất
nghiêm trọng những điều khoản cơ bản của Hiệp định. Nghiêm trọng nhất là Mỹ
không chịu chấm dứt dính líu về quân sự và can thiệp vào nội bộ của miền Nam
Việt Nam, Mỹ và tay sai không chịu thực hiện ngừng bắn, vẫn duy trì tình
trạng chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
Âm mưu của Mỹ là
tiếp tục thực hiện
“học
thuyết Níchxơn”,
tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam hòng thủ
tiêu từng bước những thành quả cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài
đất nước ta.
Để thực hiện âm
mưu đó, Mỹ ra sức tăng cường lực lượng cho quân ngụy Sài Gòn; dùng quân ngụy
Sài Gòn tiến hành các cuộc hành quân lấn chiếm; ném bom bắn phá nhiều vùng
giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; liên
tiếp tiến hành các kế hoạch
“bình
định”
như trong thời kỳ chiến tranh trước đây để đàn áp, khủng bố, tàn sát, vơ vét
tài sản của nhân dân trong vùng chúng kiểm soát.
Nhân dân ta luôn
luôn tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, nhưng nhân dân ta kiên
quyết đánh trả những hành động chiến tranh của địch, kiên quyết bảo vệ những
thắng lợi đã giành được.
Trong năm qua,
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam ta chống lại âm mưu và thủ đoạn chiến
tranh mới của Mỹ và tay sai đã diễn ra vô cùng quyết liệt.
Thưa các đồng
chí và các vị,
Bây giờ tôi xin
báo cáo với Quốc hội một số nét chính về diễn biến của tình hình trong
năm qua, những thất bại của địch và những thắng lợi mà nhân dân miền Nam ta
đã giành được.
Trước khi ký Hiệp
định mấy ngày, với kế hoạch
“tràn
ngập lãnh thổ”,
địch mở một số cuộc hành quân có trọng điểm vào những khu vực quan trọng
vùng giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời hòng giành thế lợi cho
chúng khi có Hiệp định Pari. Nhưng các cuộc hành quân của chúng đều bị thất
bại. Nhân dân miền Nam ta vẫn giữ vững được vùng giải phóng đã mở ra trong
cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Kế hoạch
“tràn
ngập lãnh thổ”
của địch bị thất bại hoàn toàn.
Từ sau khi Hiệp
định Pari có hiệu lực đến nay, địch ra sức phá hoại Hiệp định, ra sức hoạt
động về mọi mặt hòng cải thiện thế trận của chúng trên chiến trường.
Chính quyền
Sài Gòn đã ráo riết phá hoại ngừng bắn. Họ đã đưa hầu hết lực lượng hải,
lục, không quân mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng.
Mục đích các cuộc hành quân ấy nhằm giành lại những vùng ta mới giải phóng
trước ngày 28-01-1973, ngày Hiệp định Pari có hiệu lực, khai thông các
đường giao thông quan trọng, phá các căn cứ lõm của ta hòng xóa bỏ hình thái
xen kẽ, hoàn chỉnh vùng chúng kiểm soát, cải thiện thế phòng thủ của
chúng nhất là ở vùng đồng bằng, đi tới phân tuyến, phân vùng, từng bước thu
hẹp vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam.
Điển hình là ở
các khu vực sau đây:
- Ở đồng bằng
khu V: Sa Huỳnh, Tây Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), Tây Đại Lộc (Quảng Nam), Tam
Quan, Hoài Nhơn (Bình Định).
- Ở đồng bằng
sông Cửu Long: vùng nam - bắc đường số 4, Cai Lậy (Mỹ Tho), Gò Quao,
Long Mỹ (Chương Thiện).
- Ở miền Đông
Nam bộ: Thạnh Đức (Tây Ninh), Phước Vĩnh, Đồng Xoài (Bình Phước).
- Ở Tây Nguyên:
tây và nam thị xã Kon Tum, nam Buôn Hồ (Gia Lai).
- Ở Trị Thiên:
nam Cửa Việt (Quảng Trị), Bạch Mã (Nam Thừa Thiên) , Khe Thai (bắc đường số
12).
Những vùng chúng
tập trung quân lớn và liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân đánh phá ác liệt là
đồng bằng sông Cửu Long (có lúc địch tập trung tới 70 tiểu đoàn) và đồng
bằng khu V.
Đối với các
vùng giải phóng lớn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, địch đã dùng máy bay ném bom, bắn phá
nhiều khu vực, đặc biệt từ tháng 10-1973 trở đi chúng còn ném bom, bắn phá
nhiều khu vực nằm sâu trong vùng giải phóng,
hòng phá hoại các căn cứ hậu phương và
các đường giao thông quan trọng.
Đi đôi với kế
hoạch lấn chiếm nói trên, địch tập trung đẩy mạnh kế hoạch
“bình
định”
với những thủ đoạn hết sức tàn bạo và xảo quyệt để kìm kẹp đàn áp nhân dân
trong vùng chúng kiểm soát. Chúng đã mở hàng vạn cuộc hành quân cảnh sát,
hành quân càn quét để khủng bố, bắt bớ, tàn sát nhân dân, đánh phá các tổ
chức hoạt động cách mạng, đàn áp tự do dân chủ, cướp lúa gạo, tài sản của
đồng bào, gom dân, bắt lính nhất là ở đồng bằng khu V và đồng bằng sông Cửu
Long. Chính quyền Sài Gòn đã bắt giam và tra tấn hàng vạn người yêu nước
cướp đoạt hàng vạn tấn lúa gạo, hàng trăm tỷ bạc miền Nam và dồn thêm gần
một triệu người vào trại tập trung.
Mặt khác, chúng
tìm mọi cách tăng cường lực lượng quân ngụy Sài Gòn, đồng thời ra sức
kìm kẹp binh lính để giữ cho quân ngụy khỏi tan rã. Chúng tiếp tục dồn quân,
bắt lính với số lượng lớn. Cho đến nay, quân ngụy Sài Gòn (kể cả chính quy
và địa phương) lên tới 70 vạn tên (tăng
hàng vạn tên so với khi Hiệp định Pari có hiệu lực). Chúng ra sức chấn chỉnh
các đơn vị chủ lực, củng cố và phát triển các binh chủng kỹ thuật, nhất là
không quân. Đặc biệt, chúng ra sức phát triển các lực lượng địa phương, bắt
thêm hàng chục vạn người vào phòng vệ dân sự đưa tổng số phòng vệ dân sự lên
1 triệu 50 vạn (có 40 vạn có vũ trang).
Mỹ đã để lại và lén lút
đưa vào miền Nam Việt Nam khoảng hơn 25.000 nhân
viên quân sự [1]
đội lốt dân sự dưới các danh nghĩa ngoại giao, dưới các tổ chức trá hình
như: tổ chức
“DAO”
là cơ quan Tùy viên quân sự Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn nhưng thực tế là thay
thế cho tổ chức MACV cũ, tổ chức SAAFO là cơ quan
“trợ
lý đặc biệt cho đại sứ Mỹ về các hoạt động nông thôn”
thực tế là để tiếp tục điều khiển chương trình
“bình
định”
đặt 4
“tổng
lãnh sự quán”
ở Đà Nẵng, Nha Trang, Biên Hòa, Cần Thơ và 44
“lãnh
sự quán”
ở các tỉnh nhưng thực tế là làm nhiệm vụ thay thế các bộ chỉ huy của Mỹ ở
các quân khu và các tỉnh trước đây. Các tổ chức trên thực tế là bộ máy chỉ
huy quân sự trá hình của Mỹ để điều khiển các kế hoạch chiến tranh và chỉ
huy quân ngụy.
Quân Mỹ và chư
hầu của Mỹ rút nhưng không mang theo vũ khí và phương tiện chiến tranh theo
như Hiệp định Pari quy định mà để lại cho quân đội Sài Gòn 220.000 tấn,
không phá bỏ căn cứ quân sự của Mỹ và chư hầu ở miền Nam mà lại chuyển giao
cho quân đội Sài Gòn. Không những thế, sau khi đã có Hiệp định Pari, Mỹ đã
đưa trái phép vào miền Nam Việt Nam mỗi tháng khoảng 24 vạn tấn vũ khí và
dụng cụ chiến tranh, trang bị thêm cho quân ngụy 600 máy bay trong đó có hơn
200 máy bay chiến đấu, 600 xe tăng, xe bọc thép, 600 khẩu đại bác, 200 tàu
thuyền chiến đấu. Ngoài ra còn đưa vào 2 triệu tấn trang bị, vật chất khác.
Chính những số
liệu ghi trong biên bản của Uỷ ban Quân lực Thượng nghị viện Hoa Kỳ cũng đã
nói rõ trong hơn 4 tỷ đôla viện trợ của Mỹ dành cho Đông Nam Á trong năm
1973 thì riêng khoản chi cho việc sử dụng bảo quản, mua sắm vũ khí cho miền
Nam Việt Nam chiếm 3,2 tỷ đôla là mức cao hơn trong thời kỳ chiến tranh
trước đây. Đó là chưa kể 650 triệu đôla viện trợ về kinh tế và những khoản
chi về quân sự khác được che giấu dưới những mục khác và tiền viện trợ cho
tổ chức cảnh sát và nhà tù ở miền Nam Việt Nam.
Tuy quân ngụy
Sài Gòn có số quân đông và được Mỹ tăng cường cho nhiều vũ khí và dụng cụ
chiến tranh như trên, tuy đã huy động hầu như toàn bộ lực lượng hải, lục,
không quân để thực hiện các mưu đồ của chúng nhưng về cơ bản chúng đã không
đạt được các mục tiêu chiến lược đã đề ra mà còn bị thiệt hại nặng nề.
Chúng không xóa
bỏ được các căn cứ lõm, không tiêu diệt nổi các tổ chức hoạt động cách mạng
và phong trào đấu tranh của quần chúng, không xóa bỏ được hình thái xen kẽ,
không thay đổi được cục diện đang bất lợi cho chúng. Từ ngày 28-01-1973 đến
ngày 31-12-1973 địch bị loại ra khỏi vòng chiến đấu hơn 160.000 tên. Số đào
ngũ, rã ngũ hơn 130.000 tên (trung bình mỗi tháng khoảng 12.000 tên), xấp xỉ
mức đào, rã ngũ một tháng trong thời kỳ chiến tranh trước đây.
Để bảo vệ Hiệp
định Pari, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng và tài sản của đồng bào,
quân và dân miền Nam ta đã kiên quyết đánh trả các hành động chiến tranh
của địch và đã giành được thắng lợi quan trọng.
Với tinh thần
chiến đấu anh dũng, mưu trí, quân và dân miền Nam ta đã đánh bại các cuộc
hành quân lấn chiếm của địch, trong đó có những cuộc hành quân quy mô
cấp sư đoàn của quân ngụy Sài Gòn.
Quân và dân
miền Nam ta đã giữ vững vùng giải phóng lớn liên hoàn
từ Trị Thiên, Tây Nguyên đến Đông Nam bộ, thu hồi nhiều vùng mới mở
ra trước ngày 28-01-1973 mà địch lấn chiếm. Nói chung quân và dân miền Nam
ta giữ được các vùng tranh chấp ở đồng bằng Trung Trung bộ và đồng
bằng sông Cửu Long, giữ được hình thái xen kẽ, giữ được các căn cứ lõm.
Một số vùng địch mới lấn chiếm, tuy còn đồn địch nhưng ta vẫn giữ vững các
tổ chức hoạt động cách mạng và phong trào đấu tranh của quần chúng, bám đánh
địch, cài thế xen kẽ, chia cắt địch.
Ở Trị Thiên: Khi
Hiệp định Pari vừa có hiệu lực, địch đã mở cuộc hành quân ra nam Cửa Việt và
vùng Bạch Mã (Đông Nam Huế) đã bị quân và dân Trị Thiên đánh bại, loại ra
khỏi vòng chiến đấu một lữ đoàn đặc nhiệm gồm 2.300 tên, thu và phá hủy 120
xe tăng, xe bọc thép ở nam Cửa Việt. Sau đó quân và dân Trị Thiên đánh trả
địch ở nam Thừa Thiên, thu hồi vùng giải phóng Bạch Mã, đánh lùi cuộc hành
quân lấn chiếm của địch ở Khe Thai (Bắc đường số 12) tây Huế.
Ở khu V:
Trong năm 1972 đến trước ngày 28-01-1973, ngày Hiệp định Pari có hiệu lực,
quân và dân khu V mở ra nhiều vùng rộng lớn nhưng chưa kịp củng cố. Địch đã
lợi dụng tình hình đó tập trung lực lượng lấn chiếm và tiếp theo lại lợi
dụng bão lụt, lấn đất, giành dân. Từ tháng 7 năm 1973, quân và dân khu V đã
đẩy hoạt động lên tương đối đều khắp và đang đẩy lùi từng bước. Nhìn chung,
khu V vẫn giữ vững được cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, giữ vững được vùng
giải phóng xen kẽ với địch ở đồng bằng. Còn ở vùng núi thì tình hình tương
đối ổn định và ngày càng củng cố vững chắc.
Ở Tây Nguyên:
Địch lấn ra tây bắc, tây nam Kon Tum, nam Buôn Hồ (Gia Lai) chủ yếu là để
cải thiện thế phòng thủ của chúng ở Kon Tum và Plâycu. Quân và dân Tây
Nguyên đã kiên quyết giáng trả địch nhiều đòn đau ở các khu vực trên, đánh
địch ở Chư Nghé (Lộ Minh) và ở tây Plâycu, đập tan các cuộc hành quân
lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.
Ở Đông Nam bộ:
Địch mở một số cuộc hành quân ra Thạch Đức (Tây Ninh) Phước Vĩnh - Đồng Xoài
(Bình Phước) nhằm nối đường giao thông và tiếp tế cho một số căn cứ của
chúng bị cô lập. Nhưng chúng đã bị đánh bại, một tiểu đoàn và hơn 1.000 tên
đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu. Tiếp đó Quân giải phóng đã đánh địch ở
khu vực Bù Bông - Tuy Đức, giành lại một vùng giải phóng rộng trên 400 km2,
loại ra vòng chiến đấu một trung đoàn và 5 tiểu đoàn địch. Ở vùng sâu và
vùng ven Sài Gòn, quân và dân miền Đông tiếp tục chống lấn chiếm và các cuộc
hành quân
“bình
định”
của chúng.
Ở đồng bằng
sông Cửu Long: Lúc đầu
địch tập trung lực lượng lấn chiếm lại những vùng ta mới mở ra trước ngày có
Hiệp định ở nam - bắc đường số 4 (Cai Lậy - Mỹ Tho) thuộc khu VIII. Quân và
dân khu VIII đã kiên quyết đánh trả, lấy lại được nhiều vùng. Đến nay, về cơ
bản tình hình trở lại như trước ngày 28-01-1973. Phong trào quần chúng có
chỗ lên mạnh như thời kỳ Tết Mậu Thân 1968. Ở khu IX, mặc dù địch huy động 3
sư đoàn, tập trung lực lượng gấp đôi so với trước khi có Hiệp định để càn
quét và lấn chiếm, nhưng quân và dân khu IX đã kiên quyết đánh trả ngay từ
đầu và đánh rất tốt. Quân và dân khu IX đã giữ vững vùng giải phóng mà còn
đẩy mạnh hoạt động đấu tranh ở nhiều vùng, xây dựng được cơ sở ở khắp nơi.
Để trừng trị các
hoạt động chiến tranh của địch, đi đôi với việc đánh trả chúng tại chỗ, quân
và dân miền Nam ta đã tiến công đánh thẳng vào các căn cứ xuất phát những
cuộc hành quân và các căn cứ hậu phương của địch. Pháo binh Quân giải
phóng đã bắn súng lớn vào các sân bay Biên Hòa và Cù Hanh phá hủy 20 máy
bay, diệt nhiều giặc lái và nhân viên kỹ thuật, tiến công căn cứ hải thuyền
Xảo Rô (Rạch Giá) bắn chìm và bắn cháy 12 tàu, tiến công kho xăng Nhà Bè đốt
cháy hàng trăm triệu lít xăng.
Trong các vùng
dưới quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn và các vùng tranh chấp,
ở nhiều nơi đồng bào ta đã nắm vững pháp lý của Hiệp định Pari, vận dụng
nhiều phương thức thích hợp trong tình hình mới, đoàn kết đấu tranh đòi hòa
bình, hòa hợp dân tộc, đòi quyền tự do dân chủ, đòi thả tù chính trị, đòi
bung về làng cũ làm ăn, chống bắt lính, gom dân, chống địch vơ vét lúa gạo,
tài sản, giành quyền làm chủ, diệt và bức rút gần một ngàn đồn bốt địch.
Quân và dân miền
Nam ta đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh trong vùng địch kiểm soát ở nông thôn và
cả ở thành thị, chống những cuộc đàn áp khủng bố và đòi chúng phải thi hành
Hiệp định Pari. Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển khá
sâu, khá rộng và lực lượng ngày càng vững chắc làm cho tình hình chính trị
của địch ở các vùng chúng kiểm soát không ổn định. Đồng bào ta ở các địa
phương đã tích cực tuyên truyền vận động binh lính, sĩ quan quân đội Sài
Gòn, nói rõ thắng lợi của Hiệp định Pari, chính sách hòa bình, hòa giải và
hòa hợp dân tộc của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Tâm lý chán ghét chiến
tranh ngày càng lan rộng trong quân ngụy, phong trào bỏ ngũ trở về nhà làm
ăn sinh sống, chống lệnh hành quân, phản chiến trong quân đội Sài Gòn ngày
càng phát triển. Tinh thần quân ngụy Sài Gòn suy yếu hơn nhiều so với trước
khi có Hiệp định Pari.
Đi đôi với
việc chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu,
đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm và
“bình
định”
của địch, các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng đã ra sức xây dựng
củng cố và phát triển lực lượng. Đã bổ sung quân số, tăng cường trang
bị, huấn luyện quân sự, chính trị. Dân quân du kích ở các địa phương cũng
được phát triển một bước. Việc bảo đảm vật chất hậu cần được giữ vững. Quân
giải phóng còn tiến hành tốt việc tăng gia sản xuất, tự túc một phần lương
thực.
Quân và dân miền
Nam còn ra sức xây dựng, củng cố căn cứ địa, củng cố vùng giải phóng,
sửa chữa hệ thống đường sá, sân bay, khôi phục sản xuất, phát triển giáo
dục, y tế, văn hóa.
Nhìn chung, trong
năm qua, kể từ khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết và có hiệu lực đến
nay, do những âm mưu và hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai,
ở miền Nam nước ta, chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn trên nhiều vùng với
mức độ khác nhau.
Hình thái
chiến tranh chủ yếu diễn
ra là: địch
“bình
định”,
quân và dân miền Nam ta kiên quyết phá bình định, địch lấn chiếm quân và dân
miền Nam ta kiên quyết chống lấn chiếm.
Nguồn gốc sâu
xa và nguyên nhân trực tiếp
của tình hình chiến tranh hiện nay ở miền Nam Việt Nam chính là do đế
quốc Mỹ gây nên. Mỹ là kẻ chủ mưu và chính quyền Sài Gòn là kẻ trực tiếp
thực hiện theo lệnh của Mỹ.
Mặc dầu Mỹ và tay
sai đã tập trung mọi cố gắng chiến tranh như trên đã nói nhưng chúng đã
không thể nào xoay chuyển được cục diện có lợi cho chúng. Chúng đã vấp phải
cuộc đấu tranh kiên quyết và anh dũng của đồng bào và chiến sĩ ta ở miền Nam
và chuốc lấy những thất bại nặng nề.
Quân và dân miền
Nam ta đã giành được thắng lợi quan trọng, đánh bại một bước những âm mưu và
thủ đoạn chiến tranh mới của địch, giữ vững và phát huy những thắng lợi đã
giành được.
Thưa các đồng
chí và các vị,
Sau một năm đấu
tranh thắng lợi, thế và lực của cách mạng miền Nam ngày càng mạnh.
Quân và dân
miền Nam ta đang ở thế thắng và trên đà tiến lên mạnh mẽ, có đầy đủ điều
kiện và khả năng đưa cách mạng tiến lên từng bước cho đến thắng lợi hoàn
toàn.
Quân và dân
miền Nam ta đang ra sức bảo vệ và củng cố vùng giải phóng ngày vững mạnh về
mọi mặt. Vùng giải phóng
miền Nam đã hoàn chỉnh nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa và tiếp giáp
với vùng giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia anh em hình thành thế liên
hoàn vững chắc.
Lực lượng vũ
trang giải phóng miền Nam không ngừng lớn mạnh
có sức chiến đấu ngày càng cao.
Trên chiến trường
miền Nam ta, chưa lúc nào ta lại có một sức mạnh quân sự to lớn như hiện
nay, có một bộ đội chủ lực mạnh, mạnh hơn hẳn so với quân chủ lực của ngụy
Sài Gòn trên những địa bàn chiến lược quan trọng, có lực lượng địa phương
rộng khắp và mạnh mẽ. Đó là một ưu thế to lớn và rõ rệt.
Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam ngày càng có uy
tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nước và trên thế giới, đang là người đại
diện chân chính, duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Chủ trương hòa
bình, độc lập, dân chủ, hòa giải và hòa hợp dân tộc của Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
phù hợp với nguyện vọng sâu xa của đồng bào ta nhất định sẽ được đông đảo
quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng kể cả binh sĩ, sĩ quan, viên chức thuộc
chính quyền Sài Gòn.
Nhân dân miền
Nam ta lại có cơ sở pháp lý rất
quan trọng là Hiệp định Pari về Việt Nam.
Nhân dân thế
giới ngày càng đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ
nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền
Nam.
Phong trào
cách mạng của nhân dân miền Nam ta nhất định ngày càng lớn mạnh và cách mạng
miền Nam nhất định đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Trong khi đó,
tình hình cách mạng Lào và Campuchia tiếp tục phát triển ngày càng tốt hơn.
Ở Lào,
nếu trước đây chính quyền và quân đội phản động Lào đã có lúc kiểm soát phần
lớn lãnh thổ thì ngày nay dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Lào yêu nước, cách
mạng Lào đã giành được thắng lợi rất to lớn, vùng giải phóng Lào đã được
củng cố vững chắc và mở rộng nối liền từ Bắc đến Nam Lào, bao gồm các địa
bàn chiến lược quan trọng, tiếp giáp với biên giới Việt Nam, chiếm 2/3 đất
đai và 1/2 số dân, Quân đội giải phóng nhân dân Lào ngày càng lớn mạnh có
sức chiến đấu ngày càng cao. Cục diện đó, với thắng lợi của Hiệp định về lập
lại hòa bình thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào (tháng 2 năm 1973) và các Nghị
định thư của Hiệp định sẽ mở ra những triển vọng rất tốt đẹp cho cách mạng
Lào.
Sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Campuchia
đã có những bước phát triển nhảy
vọt. Chỉ trong vòng hơn ba năm, các lực lượng yêu nước Campuchia đã phát
triển nhanh chóng giành những thắng lợi cực kỳ to lớn. Hiện nay, vùng giải
phóng đã bao gồm 4/5 đất đai và hơn 2/3 số dân. Lực lượng vũ trang cách mạng
của Campuchia phát triển nhanh và lớn mạnh vượt bậc, ngày càng có nhiều kinh
nghiệm chiến đấu. Trong lúc đó, phạm vi kiểm soát của chính quyền tay sai
phản động Lon Non bị thu hẹp vào một số thành thị lớn và đang bị uy hiếp
nghiêm trọng. Tình hình chính trị, kinh tế của chúng rất nguy khốn. Cách
mạng Campuchia đang đứng trước những triển vọng vô cùng tốt đẹp.
Ngày nay, thế
và lực cách mạng của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia mạnh mẽ, vững
chắc hơn bao giờ hết.
Nhân dân ba nước đã đoàn kết chiến đấu và phối hợp đấu tranh chống kẻ thù
chung là đế quốc Mỹ thắng lợi, giờ đây càng đoàn kết chặt chẽ hơn. Tình đoàn
kết vĩ đại đó là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân mỗi nước đấu tranh nhằm thực
hiện những quyền dân tộc thiêng liêng của mình theo đúng bản tuyên bố của
Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương đã vạch ra để bảo vệ hòa bình ở Đông
Dương và Đông Nam Á.
Thế và lực của
đế quốc Mỹ và bọn tay sai suy yếu hơn trước. Mỹ đã thua ở Việt Nam,
phải rút quân đội viễn chinh về nước. Thất bại nặng nề của Mỹ trong cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam đã tác động sâu sắc đến tình hình mọi mặt của
nước Mỹ về cả chính trị, quân sự và kinh tế, về đối nội lẫn đối ngoại. Mỹ
còn dính líu về quân sự và can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam thì
càng bị nhân dân ta kiên quyết đánh lại, càng bị nhân dân Mỹ và nhân dân thế
giới phản đối mạnh mẽ, càng bị cô lập và lại buộc vào cổ Mỹ một cái thòng
lọng mới. Mỹ không rút hẳn ra khỏi vũng lầy của chiến tranh Việt Nam thì chỉ
càng chuốc lấy những thất bại mới thảm hại hơn nữa mà thôi.
Quân đội Sài
Gòn sức chiến đấu vốn đã thấp kém, nay quân Mỹ rút đi mất chỗ dựa nên sức
chiến đấu suy yếu rõ rệt,
mặc dầu vẫn được Mỹ tiếp tục ra sức viện trợ. Tinh thần binh lính sa sút,
chán nghét chiến tranh. Hiện tượng chống lệnh, đi hành quân không chịu càn
quét là phổ biến. Tình hình đào, rã ngũ ngày càng tăng. Chính quyền Sài Gòn
đang gặp nhiều khó khăn chồng chất về chính trị và kinh tế. Càng tiếp tục
chiến tranh, chính quyền Sài Gòn lại càng khó khăn thêm. Ngân sách năm 1973
bội chi 200 tỉ tiền miền Nam Việt Nam, đồng bạc miền Nam phá giá 10 lần, vật
giá rất đắt đỏ, nhiều thứ hàng giá tăng lên 200%-300%. Tình hình chính trị
của chúng không ổn định. Càng tăng cường biện pháp cực đoan phát xít, chính
quyền Sài Gòn càng bị các tầng lớp nhân dân phản đối, nội bộ càng mâu thuẫn
sâu sắc, tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu càng bị cô lập.
Với cục diện
trên, cách mạng miền Nam đang ở thế thắng, thế mạnh, thế đi lên vững chắc.
Đế quốc Mỹ và tay sai đang ở thế thua, thế yếu, thế đi xuống rõ rệt.
Ngày nay không có
một mưu đồ xâm lược nào, không có một thế lực phản động hiếu chiến nào,
không có thủ đoạn tàn bạo và xảo quyệt nào có thể ngăn cản nổi xu thế tất
yếu lịch sử đó, ngăn cản được đà tiến lên của dân tộc ta trên con đường thực
hiện những quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết thiêng liêng bất khả xâm
phạm của mình.
Thưa các đồng
chí và các vị,
Cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam ta với đế quốc Mỹ và tay sai còn diễn ra quyết liệt và
phức tạp. Tình hình đó có thể phát triển theo hai khả năng: hoặc hòa
bình được duy trì, Hiệp định được thực hiện từng bước, phong trào cách mạng
miền Nam có những phát triển mới hoặc chiến tranh trở lại.
Trước sức đấu
tranh kiên cường và mạnh mẽ của nhân dân miền Nam ta trên các mặt chính trị,
quân sự, ngoại giao, pháp lý, binh vận, địch bị thất bại nặng, không thực
hiện được âm mưu và kế hoạch của chúng, đến lúc nào đó chúng buộc phải đi
vào nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, tôn trọng một tình thế hòa bình, tôn
trọng thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát ở miền Nam;
hoặc chúng liều lĩnh, ngoan cố gây lại chiến tranh toàn diện.
Hiện nay, Mỹ
không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh như trước đây vì chúng đã bị
thua ở Việt Nam, phải ký Hiệp định Pari và phải rút quân về nước. Tác động
sâu xa của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đối với Mỹ và tình thế khó
khăn về nhiều mặt của Mỹ hiện nay không cho phép Mỹ bất cứ lúc nào có thể
gây trở lại chiến tranh lớn được. Nhưng Mỹ còn rất ngoan cố, chúng chưa chịu
từ bỏ những mưu đồ đen tối của chúng.
Thời gian tới,
địch sẽ vẫn tiếp tục thực hiện chương trình
“bình
định”,
tiếp tục lấn chiếm và bao vây kinh tế đối với vùng giải phóng hòng phá hoại
và làm suy yếu lực lượng cách mạng miền Nam. Vì vậy trong bất cứ tình huống
nào, quân và dân miền Nam ta cũng phải có lực lượng mạnh, kiên quyết đấu
tranh làm thất bại các âm mưu và kế hoạch của địch, buộc chúng phải đi vào
thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, lập lại hòa bình thực sự ở miền Nam Việt
Nam. Đồng thời phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết đánh bại mọi âm
mưu gây lại chiến tranh của địch.
Thưa các đồng
chí và các vị,
Hiện nay miền Bắc
nước ta đã có hòa bình, trong khi đó ở miền Nam nước ta, chính quyền Sài Gòn
vẫn còn tiếp tục chiến tranh. Tình hình Lào đi vào giải pháp chính trị. Ở
Campuchia, đế quốc Mỹ và tay sai đang đẩy mạnh chiến tranh. Nếu tình hình ở
miền Nam nước ta, ở Lào và Campuchia ngày càng ổn định thì hòa bình ở miền
Bắc sẽ được củng cố.
Nếu ngược lại,
tình hình ở miền Nam, Lào, Campuchia trở nên khẩn trương thì địch có thể có
những hành động chiến tranh đối với miền Bắc.
Đứng về lâu dài
mà nói, đi đôi với công cuộc đẩy mạnh xây dựng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
cần phải tăng cường củng cố quốc phòng,
sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa
đế quốc.
Trước tình hình
đó, các lực lượng vũ trang nhân dân quyết cùng với toàn dân thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là:
“đoàn
kết toàn dân, đấu tranh giữ vững hòa bình, ra sức tiến hành công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
nâng cao cảnh giác sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh cách mạng
nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất
Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia”.
Các lực lượng vũ
trang nhân dân không ngừng nâng cao trình độ chuẩn bị chiến đấu và sẵn
sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động chiến tranh của địch đối với miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh,
xây dựng Quân đội nhân dân chính quy hiện đại, phát triển dân quân tự vệ
và lực lượng hậu bị mạnh mẽ và vững chắc, kết hợp kinh tế với quốc phòng,
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, cơ sở hậu phương của quân đội, tích cực
tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện
nhiệm vụ nói trên các lực lượng vũ trang nhân dân cần tiến hành một số công
tác lớn sau đây:
1. Nâng cao
trình độ sẵn sàng chiến đấu và chuẩn bị chiến đấu,
đánh bại mọi hành động xâm lược của Mỹ và tay sai, kiên quyết bảo vệ vùng
trời, vùng biển và toàn bộ lãnh thổ nhất là vùng biên giới, ven biển, hải
đảo. Chuẩn bị cho đất nước và cho lực lượng vũ trang về mọi mặt, nhằm tiến
hành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong trường hợp chủ nghĩa đế
quốc liều lĩnh phát động chiến tranh xâm lược với bất cứ hình thức nào và
quy mô nào.
2. Xây dựng
quân đội nhân dân chính quy, hiện đại có chất lượng chiến đấu cao,
có đủ các binh chủng, quân chủng mạnh, cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương đều phải chính quy, hiện đại; đẩy mạnh công tác quân sự địa phương,
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và mạnh mẽ, thực hiện việc tổ
chức những đơn vị dân quân tự vệ vừa sản xuất vừa chiến đấu, xây dựng lực
lượng hậu bị hùng hậu, thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự, động viên toàn
dân nêu cao ý thức và trách nhiệm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.
3. Xây dựng
hậu phương quân đội, xây dựng hậu phương miền Bắc;
kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, kết hợp công nghiệp quốc phòng với
công nghiệp nhà nước, xây dựng mạnh giao thông vận chuyển, cùng với các
ngành của Nhà nước có kế hoạch bảo đảm nhu cầu xây dựng và tác chiến cho
quân đội; tham gia lao động sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội theo sự phân
công của Nhà nước; xây dựng cơ sở hậu phương, cơ sở vật chất của quân đội,
đáp ứng yêu cầu bảo đảm tác chiến và bảo đảm kỹ thuật cho một quân đội hiện
đại.
4. Tiếp tục
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến
bảo đảm cho tiền tuyến đánh thắng và xây dựng lực lượng vững mạnh.
5. Thực hiện
tốt các chính sách nhất
là các chính sách cần giải quyết sau chiến tranh như: chính sách đối với
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, tử sĩ, chính sách phục viên,
chuyển ngành, chính sách khen thưởng, v.v., đồng thời cần điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung một số chính sách cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới
nhằm cổ vũ tiền tuyến và hậu phương, góp phần tích cực vào việc xây dựng lực
lượng vũ trang, xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng.
Quân và dân
miền Nam ta kết hợp đấu tranh các mặt,
đẩy mạnh đấu tranh chính trị rộng lớn của quần chúng ở nông thôn cũng như ở
thành thị, kết hợp với đấu tranh vũ trang, đấu tranh ngoại giao, đấu tranh
pháp lý, qua đó từng bước làm thất bại mọi hành động vi phạm, phá hoại Hiệp
định của địch, từng bước buộc chúng phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định.
Đồng thời, kiên quyết đánh bại chúng nếu chúng tiếp tục chiến tranh.
Để thực hiện chủ
trương trên, vấn đề quan trọng của nhân dân miền Nam ta hiện nay là phải
luôn luôn có lực lượng mạnh, cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang,
xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, xây dựng và củng cố vùng giải phóng
về mọi mặt, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho ta.
Thưa các đồng
chí và các vị,
Cuộc đấu tranh
của quân và dân ta ở miền Nam tuy còn khó khăn gian khổ nhưng nhất định sẽ
thắng lợi hoàn toàn.
Địch có âm mưu
mới, thủ đoạn chiến lược mới để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng. Quân và
dân miền Nam ta có chủ trương đúng, có lực lượng mạnh để đấu tranh thắng lợi
làm thất bại mọi âm mưu mới của địch.
Trước đây quân
đội viễn chinh Mỹ, chư hầu và tay sai gồm
hơn 1 triệu 20 vạn tên có vũ khí và trang bị hiện đại nhất nhưng nhân dân ta
đã đánh thắng.
Ngày nay, Mỹ đã
phải rút, lực lượng quân sự của ngụy còn đông nhưng rõ ràng yếu hơn trước,
nhân dân miền Nam ta nhất định sẽ đưa cuộc đấu tranh đến toàn thắng.
Các lực lượng
vũ trang nhân dân quyết cùng với nhân dân miền Bắc phát huy thuận lợi trong
tình hình và điều kiện mới,
anh dũng vượt qua mọi khó khăn để xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững
mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố quốc phòng hùng mạnh làm
căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước, kiên quyết làm tròn nghĩa vụ đối
với miền Nam ruột thịt, sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ miền Nam đấu
tranh cho đến thắng lợi hoàn toàn, và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả của
nhân dân ta nhất là đối với nhân dân hai nước Lào và Campuchia anh em.
Các lực lượng vũ
trang nhân dân xin hứa với Quốc hội quyết hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
trong giai đoạn cách mạng mới, cùng với quân và dân cả nước ta thực hiện
trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính mến:
“Đoàn
kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.