THUYẾT TRÌNH CỦA TIỂU BAN NGHIÊN
CỨU
BÁO CÁO CHÍNH PHỦ VỀ BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ
(Do ông
Nguyễn Minh Vỹ, thay mặt Tiểu ban trình bày
tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá II, ngày 19-4-1961)
Thưa Quốc
hội,
Tiểu ban chúng tôi đã nghiên
cứu bản báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc trước Quốc
hội.
Thay mặt Tiểu ban, tôi xin
trình bày những ý kiến của Tiểu ban chúng tôi đối với bản báo cáo.
I- VỀ VẤN ĐỀ "NHÀ
NƯỚC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
VÀ SỰ NGHIỆP XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC"
Chỉ cách nhau một kỳ họp,
nhưng so với kỳ họp lần thứ nhất năm ngoái, kỳ họp của Quốc hội lần này
đứng trước một tình hình đổi mới một cách căn bản trên miền Bắc nước ta;
không những chúng ta đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm mà mùa xuân
của 1961 đồng thời cũng là mùa xuân mới của kế hoạch 5 năm, mở đầu cho
một thời kỳ cách mạng mới. Luồng gió "Đại Phong", ngọn triều "Duyên Hải"
đang cổ vũ hàng triệu con người lao động được giải phóng trên miền Bắc
chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Chúng ta đã có đường lối
chung do Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III đề ra, soi sáng cho
chúng ta. Bản Báo cáo của Chính phủ đã nhắc lại những vấn đề cơ bản
trong nghị quyết của Đại hội làm kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa cũng như cho các công tác của Nhà nước. Tiểu ban chúng tôi
thấy cần nói lên ngay ở đây lòng tin tưởng tuyệt đối của Quốc hội cũng
như của toàn dân chúng ta vào sự lãnh đạo của Đảng, vào đường lối cách
mạng do Đại hội Đảng lần thứ III đã đề ra bảo đảm cho những thắng lợi mà
nhân dân ta chắc chắn sẽ đạt được trên bước đường đi tới một xã hội ngày
càng no ấm, tươi vui hơn.
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn
nhất trí với những nhận định trong bản báo cáo của Chính phủ về thắng
lợi của kế hoạch ba năm, về nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 1961,
cũng như về vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, về sự cần thiết phải
tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân trước những biến chuyển cách mạng
to lớn trong nền kinh tế quốc dân, nhất là về mặt quan hệ sản xuất và
trong tình hình xã hội, trong cấu tạo giai cấp, v.v..
Tiểu ban chúng tôi đã đặc
biệt chú trọng đến một số vấn đề như sau:
Đánh giá thắng lợi của kế
hoạch 1958-1960.
2- Nhận thức về vị trí của
năm 1961 và sự quan trọng của nông nghiệp trong tình hình nước ta.
3- Một số điểm cần chú ý
trong vấn đề nhà nước và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Sau đây là những ý kiến Tiểu
ban chúng tôi trình với Quốc hội:
Vấn đề thứ nhất:
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí
với những nhận định trong báo cáo của Chính phủ về những thắng lợi về
mọi mặt của kế hoạch ba năm, nhất là những thắng lợi có tính chất
quyết định trong nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trọng
tâm của kế hoạch.
Thắng lợi của cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa đã căn bản xóa bỏ quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa (toàn
bộ các cơ sở công nghiệp, thương nghiệp tư bản tư doanh đã trở thành
công tư hợp doanh). Do chỗ đã căn bản hoàn thành cải tạo nền nông nghiệp
cá thể, biến những người nông dân cá thể thành nông dân tập thể theo chủ
nghĩa xã hội (85% tổng số hộ nông dân lao động với 75% tổng số ruộng
đất) đưa gần 1/2 triệu người lao động thủ công và hơn 20 vạn người buôn
bán nhỏ vào con đường hợp tác (75% tổng số hộ thủ công và 70% tổng số hộ
tiểu thương cần hợp tác hóa), chúng ta đã căn bản xóa bỏ cơ sở sản sinh
ra chế độ bóc lột và nguồn gốc sâu xa của cực khổ và nghèo đói.
Xã hội không còn người bóc
lột người, điều ước mơ cao cả và mục tiêu phấn đấu của hàng chục triệu
con người Việt Nam chúng ta trong bao nhiêu năm đấu tranh gian khổ dưới
sự lãnh đạo của Đảng quang vinh nay đã thành một thực tế sinh động trên
miền Bắc nước ta. Điều đó khích lệ không những chân tay, trí óc và trái
tim của 16 triệu đồng bào ta ở miền Bắc mà còn khích lệ cả hàng chục
triệu đồng bào ta ở miền Nam! Cùng với những thắng lợi về mọi mặt của
phe xã hội chủ nghĩa, chắc chắn thắng lợi của chúng ta cũng đã và đang
khích lệ hàng trăm triệu người còn đang bị nô lệ hay vừa thoát khỏi
xiềng xích của chủ nghĩa thực dân ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh.
Dựa trên quan hệ sản xuất
ngày càng đổi mới, nền kinh tế quốc dân trong ba năm qua đã tiến những
bước quan trọng. Nông nghiệp thoát dần tình trạng độc canh vươn lên theo
phương châm toàn diện mạnh mẽ và vững chắc. Công nghiệp thoát dần tình
trạng chỉ có khai khoáng, sửa chữa, đi vào chế tạo tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng. Nông nghiệp và công nghiệp đều phát triển với tốc độ
nhanh. Song song với sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp, các
ngành khác của kinh tế quốc dân như giao thông, vận tải, thương nghiệp,
ngân hàng v.v., đều phát triển. Đồng thời chúng ta cũng đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong việc phát triển văn hóa, giáo dục, y
tế, trong việc đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.
Chúng tôi xin phép nhắc lại
đây một vài con số tiêu biểu: tổng sản lượng lương thực từ 3.900.000 tấn
năm 1955 tăng lên 5.700.000 tấn năm 1959. Chỉ riêng về thóc năm 1959
miền Bắc đã đạt được 5.193.000 tấn, gấp trên hai lần năm 1939 là năm
được mùa nhất trước chiến tranh và bằng 170% sản lượng của miền Nam cũng
trong năm 1959, trong khi ở miền Nam điều kiện thiên nhiên thuận lợi
hơn, diện tích cầy cấy lớn hơn. Năm 1960 vì thiên tai nặng, thu hoạch có
sút kém, nhưng tính chung các loại cây lương thực cũng đạt khoảng
5.580.000 tấn. Tốc độ tăng hàng năm trên 11%. Sản lượng công nghiệp từ
năm 1957 đến năm 1960 tăng 80,3%, bình quân hàng năm tăng 21,7%. Cơ sở
của công nghiệp nặng của ta đang được xây dựng một bước, công nghiệp nhẹ
của ta đã sản xuất được phần lớn hàng tiêu dùng. Suốt trong thời kỳ thực
dân Pháp thống trị nước ta, chúng chỉ xây dựng được hơn 30 xí nghiệp
công nghiệp, chỉ trong ba năm vừa qua chúng ta đã xây dựng và đưa vào
sản xuất và sử dụng 122 công trình công nghiệp, văn hóa, dân dụng, trong
đó có 50 công trình công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp
trong giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp đã từ 31,4% năm 1957 tăng
lên 41,3% năm 1960. Đó là những sự thực không thể chối cãi, cho thấy rõ
rằng chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, miền Bắc nước ta một nước thuộc
địa và nửa phong kiến lạc hậu mới có thể xây dựng cho mình một nền kinh
tế độc lập và tự chủ, bảo đảm cho một nền độc lập chính trị thực sự và
vững chắc được.
Những thắng lợi trong công
cuộc cải tạo quan hệ sản xuất, phát triển kinh tế và văn hóa theo kế
hoạch ba năm 1958 -1960 đã cải biến sâu sắc xã hội miền Bắc nước ta. Đó
là một cái mốc đánh dấu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã
bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa
xã hội làm trọng tâm, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đó là nhân tố mới mẻ nhất xuất hiện đầu năm 1961, mở đường cho những
thắng lợi mới to lớn hơn nữa.
Trên cơ sở sản xuất phát
triển, mức sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động đã được nâng
cao một bước rõ rệt.
Về vấn đề này, ngoài những
con số đã nêu ra trong Báo cáo của Chính phủ, các vị đại biểu ở các địa
phương đã cho biết thêm tình hình thực tế ở một số vùng miền đồng bằng,
ven biển, miền núi, đô thị. Những con số, những tài liệu ấy càng chứng
minh thêm nhận định của Chính phủ và giúp cho chúng ta khẳng định thành
tích vĩ đại của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc nước
ta.
Trước kia, nhiều vùng nông
thôn bị nạn đói kinh niên, trong những ngày mùa mỗi người một bữa rưỡi
cơm độn, mấy năm nay ngày hai, ba bữa cơm no. Ăn mặc đã lành lặn hơn và
cũng đã đẹp hơn. Nhiều người làm nhà mới sân gạch…
Ở thành thị đời sống của công
nhân, viên chức… cũng đã được ổn định…
Các vị đại biểu vùng dân tộc
đã cho biết ngày nay, ở miền núi ngay cả ở một số vùng rẻo cao, nạn hữu
sinh vô dưỡng đã căn bản được giải quyết.
Điều mà một số đại biểu đã
nêu bật lên là chính trong tình hình miền Bắc nước ta về căn bản có
những khó khăn đặc biệt, do chế độ cũ để lại hoặc do thiên tai hạn hán
bất thường gây ra, như năm 1960 bị mất mùa nặng lại càng thấy tính hơn
hẳn của chế độ ta, càng làm cho nhân dân tin tưởng, thiết tha yêu mến
chế độ hơn. Chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động được
giải phóng, làm ăn tập thể, mới có đủ sức phấn đấu với thiên nhiên và
hạn chế tác hại của thiên nhiên! Chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước mới quan tâm đến đời sống của nhân dân và làm tất cả mọi việc
có thể làm được để nâng cao mức sống của nhân dân, trên quan điểm cách
mạng.
Nhiều đại biểu đã cho biết ở
địa phương mình trong năm qua bị mất mùa đến 70%, 80%, nhân dân gặp rất
nhiều khó khăn trong vấn đề lương thực, nhưng nhờ sự quan tâm của Chính
phủ đã có thể vượt qua được đói kém, tích cực sản xuất đạt mức kế hoạch.
Những thắng lợi trên đây là
do đường lối của Đảng và Chính phủ hoàn toàn đúng, do tinh thần lao động
sáng tạo của nhân dân ta, nhờ sự giúp đỡ to lớn và vô cùng quý báu của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội
biểu dương lòng yêu nước và tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân
dân ta ở miền Bắc.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đối với Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác
đã và đang hết sức giúp đỡ nhân dân ta về mọi mặt với một tinh thần quốc
tế vô sản cao cả.
Tất nhiên, chúng ta cũng nhất
trí nhận định rằng mức sống của nhân dân ở miền Bắc còn thấp so với yêu
cầu và hiện nay do sản xuất nông nghiệp năm 1960 sút kém vì thiên tai,
cho nên ở một số nơi nhân dân đang gặp một số khó khăn về lương thực và
một vài loại thực phẩm. Để giải quyết những khó khăn đó, Chính phủ đã áp
dụng nhiều biện pháp tích cực nhằm ổn định đời sống nhân dân, phát triển
sản xuất. Tiểu ban chúng tôi đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ tích cực
theo dõi, kiểm tra sự thực hiện các biện pháp ấy.
Miền Bắc nước ta phải tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
một nền kinh tế vô cùng lạc hậu, di sản khốc hại của chế độ cũ. Mấy năm
qua, đi đôi với việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã ra sức phát
triển sản xuất và đạt thành tích to lớn nhưng thời gian chưa đủ để có
thể cải biến một cách căn bản cơ sở lạc hậu của nền kinh tế.
Việc hoàn thành cải tạo quan
hệ sản xuất là một chuyển biến cách mạng to lớn nhưng mới chỉ tạo ra
những khả năng để đẩy mạnh sản xuất. Về nông nghiệp chẳng hạn, ngay sau
khi cải tạo xã hội chủ nghĩa thì mỗi người nông dân chỉ có "vài ba sào
đất, một cầy chìa vôi và một phần con trâu", kỹ thuật lạc hậu trên một
mức độ rất lớn càng bị động, lệ thuộc thiên nhiên.
Chúng ta cần phải thấy hết
những nguyên nhân sâu xa, khách quan ấy của tình trạng đời sống còn khó
khăn ấy, để đứng trên quan điểm cách mạng mà ra sức phấn đấu với
quyết tâm cao, với thái độ tích cực, thực tế. Đến nay, công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định thì
nhiệm vụ phát triển sản xuất trở thành nhiệm vụ quan trọng bậc nhất
trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội
không phải chỉ xây dựng quan hệ sản xuất mới, mà điều cốt yếu là phát
huy tác dụng tích cực của quan hệ sản xuất mới mà xây dựng một nền
sản xuất hiện đại, trên cơ sở kỹ thuật cao, bảo đảm năng suất lao động
không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng cả trong công nghiệp và nông
nghiệp do đó mà không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân.
Quá trình phát triển sản xuất
để thoát khỏi sự lạc hậu, để bảo đảm đời sống cao về vật chất và văn hóa
của nhân dân là cả một quá trình phấn đấu gian khổ và lâu dài, đòi hỏi
mọi người chúng ta phải nêu cao ý thức làm chủ, nêu cao tinh thần cần
kiệm xây dựng nước nhà, ra sức lao động sản xuất.
Kinh nghiệm những năm vừa
qua, kinh nghiệm còn nóng hổi của năm 1960 cho ta thấy rằng nếu mỗi
người chúng ta nêu cao tinh thần cách mạng, vững vàng, tỉnh táo, quyết
tâm phấn đấu gian khổ, vượt mọi khó khăn trong sản xuất và trong đời
sống, đồng thời có sự chỉ đạo sát đúng, thì chúng ta có thể vững bước
tiến lên, khắc phục khó khăn xây dựng đời sống ngày càng tươi đẹp cho
chúng ta.
Trong hoàn cảnh vừa làm, vừa
học, trong việc lãnh đạo, trong công tác chúng ta còn phạm một số khuyết
điểm, ảnh hưởng không tốt đến phát triển sản xuất, chúng ta cần ra sức
khắc phục để có thể vươn lên mạnh mẽ hơn nữa.
Vấn đề
thứ hai:
Toàn thể nhân dân chúng ta ở
miền Bắc đều vô cùng phấn khởi tiếp thu những nghị quyết của Đại hội
Đảng lần thứ III về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối chung của Đảng là
biểu hiện tập trung và toàn diện những yêu cầu cơ bản của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là con đường đúng đắn nhất để đưa
nhân dân ta đến một đời sống ấm no, hạnh phúc.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
mở ra một thời kỳ mới trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và là
một bước rất quan trọng trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1961 là năm bắt đầu kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất, do đó có một ý nghĩa và vị trí rất quan trọng.
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhận định của Chính phủ cho
rằng "năm 1961 đòi hỏi chúng ta phải có những cố gắng và những tiến bộ
phi thường để đáp ứng những yêu cầu mới và những nhiệm vụ mới của sự
nghiệp cách mạng".
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí
với những nhiệm vụ và phương hướng chung của kế hoạch đã nêu ra trong
bản báo cáo của Chính phủ:
- Tích cực củng cố và phát
triển hợp tác xã để đẩy mạnh sản xuất.
- Ra sức đẩy mạnh hơn nữa
nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
- Thực hiện một bước ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ.
- Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ xây
dựng cơ bản, tập trung lực lượng vào các công trình trọng điểm.
- Đẩy mạnh hoạt động cân đối,
nhịp nhàng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Ra sức phát triển sự nghiệp
giáo dục, y tế, văn hóa.
- Tăng cường Nhà nước dân chủ
nhân dân.
Trong khi nghiên cứu, thảo
luận Báo cáo của Chính phủ, Tiểu ban chúng tôi không đi sâu vào các chỉ
tiêu cụ thể thuộc trách nhiệm của Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc
hội, nhưng tất cả các đoàn cũng như Tiểu ban chúng tôi đều đặc biệt quan
tâm đến vấn đề phát triển nông nghiệp.
Tiểu ban chúng tôi có mời vị
đại diện Chính phủ cho biết rõ thêm về tình hình thực tế, trên cơ sở đó
đã thảo luận và đi đến nhất trí về những điểm sau đây:
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội mấy năm qua ngày càng chứng minh sự đúng đắn của sự nhận định của
Đảng và Chính phủ nói rằng trong xã hội ta, nắm vững quan hệ đúng đắn
giữa công nghiệp và nông nghiệp là một trong những điểm cơ bản để làm
tốt cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nông nghiệp
là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Công nghiệp và nông nghiệp thúc đẩy lẫn nhau. Trong khi chúng ta
lấy công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm thì nông
nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp. Vì thế chúng ta không một
phút nào được xem nhẹ nông nghiệp. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với cách
đặt vấn đề của Chính phủ "một tay nắm vững công nghiệp, một tay nắm
vững nông nghiệp".
Nhờ đường lối đúng của Đảng,
nhờ sự cố gắng tích cực của các cơ quan Chính phủ có trách nhiệm, nhờ sự
nỗ lực phi thường của đồng bào nông dân, chúng ta đã đạt được những
thành tựu lớn lao về mặt sản xuất nông nghiệp. Nhưng so với yêu cầu ngày
càng tăng của nhân dân, so với đòi hỏi ngày càng lớn lao của sự nghiệp
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải còn ra sức phấn đấu,
ra sức nỗ lực hơn nữa, trong một thời gian khá lâu dài nữa thì mới có
thể giải quyết vấn đề lương thực và vấn đề cây công nghiệp một cách căn
bản.
Qua thực tế ở các địa phương
đã được phản ảnh, qua báo cáo bổ sung của vị đại diện Chính phủ cho Tiểu
ban, chúng tôi thấy rằng chính trong vấn đề phát triển sản xuất nông
nghiệp, mấy năm nay mặc dù thắng lợi to lớn, không phải mọi việc đều
trôi chảy. Đã có lúc chúng ta chủ quan về khả năng giải quyết vấn đề
lương thực. Chúng ta đang gặp nhiều mâu thuẫn, có nhiều vấn đề phức tạp
cần phải thấy rõ, giải quyết đúng, kịp thời, nhằm đẩy mạnh một cách mạnh
mẽ, vững chắc, căn bản hơn nữa.
Sức lao động còn thừa khá
nhiều mà chưa sử dụng hết; khả năng tiềm tàng của đất đai, sông ngòi,
đồi bãi, nguồn phân bón, khả năng sản xuất nông cụ cũng còn nhiều nhưng
trình độ khoa học, kỹ thuật của ta còn quá kém, nông cụ lao động còn lạc
hậu, công cụ cải tiến còn chưa có mấy; hợp tác xã còn ở bậc thấp, quản
lý còn yếu.
Trong quan hệ sản xuất ở nông
thôn đã có chuyển biến căn bản, nhưng tư tưởng, tổ chức, chính sách của
chúng ta chưa chuyển kịp, chính vì vậy mà chúng ta chưa vận dụng được
triệt để những nhân tố thắng lợi mới do quan hệ sản xuất mới mang lại để
ra sức phát triển sản xuất hơn nữa, nhất là cải tiến kỹ thuật, tăng năng
suất, phát huy tính hơn hẳn của quan hệ sản xuất mới để đẩy mạnh công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trái lại có nơi có lúc hầu như tách rời
vấn đề hợp tác hóa với phát triển sản xuất.
Những vấn đề cơ bản, lâu dài
trong nông nghiệp chưa được nghiên cứu một cách thật sâu sắc cụ thể. Ví
dụ: thủy lợi là vấn đề rất quan trọng. Phương châm "ba chính" do Chính
phủ đề ra về căn bản là đúng. Nhưng bên cạnh việc nhân dân làm là chính,
thủy lợi nhỏ là chính, v.v., thì Nhà nước phải làm gì, nhằm vào những
vùng nào, với những kế hoạch như thế nào cho sát với đặc điểm từng vùng,
kịp thời vụ trồng trọt của nhân dân v.v.. Ví dụ nữa: muốn cho nhân dân
dùng phân hóa học được tốt, một mặt phải định giá cả cho vừa phải, đồng
thời phải nghiên cứu và chỉ dẫn cách sử dụng một cách chính xác tỉ mỉ,
đất gì cây gì thì dùng phân gì, tỷ lệ, liều lượng bao nhiêu, thời gian
dùng lúc nào v.v., mới làm cho đất tốt, cây tốt. Làm không đúng như thế
thì sẽ xấu đất, chết cây v.v..
Mỗi một vấn đề trong nông
nghiệp đều như thế. Muốn khuyến khích trồng cây công nghiệp đồng thời
với việc tuyên truyền cổ động thì còn phải định giá cả thu mua, giải
quyết vấn đề giống, chỉ dẫn về kỹ thuật, phải đưa chính sách thu mua,
giá cả vào lúc nào cho đúng, không phải đưa chính sách khi sắp thu hoạch
mà trước mùa mới có tác dụng khuyến khích một cách thiết thực v.v..
Hoặc như một vấn đề tỉ mỉ
hơn: muốn khuyến khích nông dân bán lợn trên 50 cân chẳng hạn cũng cần
phải hiểu vì sao, vì những nguyên nhân thực tế gì mà nông dân không
thích nuôi lợn đến lứa ấy (quá lứa ấy thì lợn chậm lớn, ăn nhiều, nuôi
tốn kém hơn v.v..). Do đó phải định giá như thế nào, có phương pháp thu
mua như thế nào, có chính sách khuyến khích như thế nào mới có tác dụng
thúc đẩy thực sự…
Cũng một ví dụ nữa: chính
sách thu mua lương thực của Nhà nước căn bản là đúng hoặc chủ trương
phân cấp chia vùng sản xuất cũng là đúng nhưng biện pháp cụ thể, phương
pháp thi hành cũng phải đúng đắn, nếu không thì không khỏi xảy ra những
lệch lạc khuyết điểm gây khó khăn cho nông dân, ảnh hưởng xấu đến sản
xuất nông nghiệp.
Còn có thể kể rất nhiều ví dụ
như thế, nói lên những điều chúng ta chưa giải quyết được thật tốt. Điều
cần nhấn mạnh là nhận thức về sự quan trọng của nông nghiệp và vai trò
của nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trong tình hình riêng của nước ta còn chưa thật đầy đủ. Nhận thức
ấy một khi có đủ còn phải được thể hiện trong toàn bộ các biện pháp
chính sách cụ thể và sự chỉ đạo thực hiện các biện pháp chính sách cụ
thể ấy. Chúng ta phải thấy hết tầm quan trọng và tính chất phức tạp của
vấn đề để tích cực giải quyết.
Đây là một vấn đề được thảo
luận sôi nổi trong các đoàn, cũng như trong Tiểu ban chúng tôi. Sau khi
thảo luận, Tiểu ban chúng tôi nhất trí đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ
một số vấn đề
sau đây:
a) Tăng cường giáo dục một
cách sâu sắc nhằm làm cho mọi người quán triệt vị trí và vai trò rất
quan trọng của nông nghiệp, những phương châm phát triển nông nghiệp
trong thời kỳ quá độ xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong hoàn cảnh riêng
của miền Bắc nước ta, một nước có nền kinh tế rất lạc hậu, nhưng đồng
thời có nhiều thuận lợi lớn về thiên nhiên, về khí hậu, nhất là có quan
hệ sản xuất mới mở ra những khả năng lớn lao cho sự phát triển của sản
xuất nông nghiệp, thấy hết khó khăn đồng thời cũng thấy hết thuận lợi để
tin tưởng, cố gắng phấn đấu một cách liên tục, bền bỉ, kiên quyết.
b) Trên cơ sở nhận thức ấy,
cần tổ chức nghiên cứu kế hoạch phát triển nông nghiệp một cách lâu dài,
toàn diện hơn, nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản về đất đai, phân bón,
thủy lợi, về tư tưởng cũng như về tổ chức, về chính sách cũng như về kỹ
thuật, về lãnh đạo cũng như chỉ đạo cụ thể đối với từng vùng, từng
ngành, từng loại, v.v., nhằm khắc phục thiên nhiên một cách lâu dài, có
hiệu quả hơn, không phải chỉ chạy theo kế hoạch từng vụ.
c) Cần làm cho mọi ngành có ý
thức phục vụ tích cực, cụ thể cho nông nghiệp, mạnh dạn đầu tư vào nông
nghiệp với một tỷ lệ thích đáng.
Công nghiệp cần thấy nhiệm vụ
phải trang bị cho nông nghiệp, có kế hoạch sản xuất máy móc, nông cụ cải
tiến, phân bón cho nông nghiệp.
- Về khoa học - kỹ thuật cần
hướng dẫn nông dân đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, sử dụng nông cụ cải tiến,
phân bón, thuốc trừ sâu.
- Về thủy lợi, cần có kế
hoạch xây dựng các công trình đại, trung thủy lợi, đồng thời với việc
thực hiện phương châm "hạ chính" trong thủy lợi;
- Thương nghiệp cần có chính
sách giá cả tổ chức thu mua hợp lý, góp phần thúc đẩy nông dân tích cực
sản xuất.
- Ngân hàng cần có chính sách
cho vay (mức lãi, thể lệ thích đáng).
- Giáo dục cần tích cực mở
trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cho hợp tác xã, v.v..
- Các ngành văn học, nghệ
thuật cũng cần có phương hướng và kế hoạch phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp.
Điều cần nhắc lại ở đây là
quan hệ sản xuất ở nông thôn đã đổi mới, nhân vật trung tâm ở nông thôn
hiện nay là người xã viên hợp tác xã, cho nên cách nhìn và mọi
chính sách, tổ chức cần phải chuyển cho kịp thời mới phục vụ tốt, kịp
thời cho nông nghiệp.
Đối tượng của mọi chính sách
là hợp tác xã nông nghiệp và việc xây dựng kế hoạh sản xuất, thu mua,…
cũng đều phải dựa trên hợp tác xã.
Hiện nay một số chính sách có
ảnh hưởng lớn đến phát triển sản xuất nông nghiệp chưa được điều chỉnh
cho kịp với sự chuyển biến của tình hình, đó là một thiếu sót quan trọng
cần được chú ý đặc biệt, kịp thời khắc phục.
Tiểu ban chúng tôi hoan
nghênh Chính phủ đặt vấn đề "giúp đỡ hợp tác xã là một nhiệm vụ rất
quan trọng của Nhà nước" "tăng cường giúp đỡ về mọi mặt của Nhà
nước đối với hợp tác xã nông nghiệp" và hoan nghênh việc Chính phủ
đề ra mọi chính sách và biện pháp về các mặt nhằm giúp đỡ hợp tác xã,
đặc biệt là trong chính sách thu mua và cung cấp của ngành thương
nghiệp, chính sách cho vay vốn của ngân hàng.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội
lưu ý Chính phủ tích cực theo dõi sự thực hiện các chủ trương hoàn toàn
đúng đắn trên đây cho có kết quả tốt và mong rằng các cán bộ và cơ quan
nhà nước sẽ rút ra được những bài học, những kinh nghiệm bổ ích trong
khi kiểm điểm hoạt động của ngành mình trong thời gian kế hoạch ba năm
vừa qua.
Đồng thời chúng tôi cũng thấy
cần nhắc lại đây sự quan hệ giữa Nhà nước và hợp tác xã trên hai mặt:
Nhà nước hết lòng hết sức giúp đỡ hợp tác xã, hợp tác xã và xã viên phải
thi hành đầy đủ mọi chính sách của Chính phủ. Như thế để tăng cường sự
nhất trí giữa Nhà nước và hợp tác xã, gây một luồng phấn khởi mạnh mẽ,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Về vấn đề
thứ ba:
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn
nhất trí với nhận định của Chính phủ về vai trò, trách nhiệm của Nhà
nước trước những chuyển biến cách mạng về quan hệ sản xuất và cơ cấu
kinh tế, trước những chuyển biến cách mạng về xã hội, về sự cần thiết
phải tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân.
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn
tán thành cách đặt vấn đề của Chính phủ trên cả hai mặt: "trong lúc
chúng ta giáo dục mọi người dân phải biết làm tròn trách nhiệm làm chủ
của mình, chúng ta cũng đòi hỏi Nhà nước dân chủ nhân dân làm tròn trách
nhiệm, thể hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân".
Đặt vấn đề như thế là toàn
diện, đúng đắn. Chúng tôi thấy cần đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ đến
một số vấn đề sau đây:
a) Chính phủ cần đặc biệt
quan tâm đến việc tăng cường quản lý nhà nước, quản lý kinh tế nói
chung, thực hiện sự chỉ đạo tập trung đồng thời sự phối hợp, điều hòa
giữa các Bộ, các ngành, các đơn vị, các địa phương, giải quyết tốt những
vấn đề khó khăn trước mắt do sự phát triển kinh tế nhanh chóng đặt ra
như vấn đề nguyên vật liệu cho các xí nghiệp, công trường, vấn đề thi
hành chế độ trách nhiệm trong công tác, chế độ hợp đồng, Luật công đoàn
v.v..
b) Cần có kế hoạch toàn diện,
lâu dài về đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề,
chú trọng dành một tỷ lệ thích đáng cho phụ nữ, có chính sách bồi
dưỡng cán bộ xã;
c) Tăng cường việc kiểm tra
về mọi mặt trong việc thi hành pháp luật nhà nước, các chế độ công tác,
tài chính, tích cực hơn nữa trong việc chống quan liêu, lãng phí, tham
ô.
d) Cán bộ phải đi đường lối
quần chúng, thực hiện đúng quan điểm quần chúng, tôn trọng pháp chế dân
chủ, kiên quyết chống tác phong quan liêu mệnh lệnh đối với nhân dân,
luôn luôn nâng cao trình độ tư tưởng và nghiệp vụ của mình khiêm tốn học
tập và áp dụng một cách sáng tạo kỹ thuật tiên tiến của Liên Xô và các
nước anh em khác.
e) Ngoài những vấn đề trên
đây, các vị nữ đại biểu Quốc hội trong Tiểu ban đã thiết tha đề nghị
Quốc hội lưu ý Chính phủ đến vấn đề giáo dục, nuôi dạy chăm sóc các cháu
thiếu nhi tương lai của dân tộc. Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn nhất trí
với đề nghị ấy.
Tóm lại, đường lối chung đã
có, trách nhiệm của Nhà nước là phải tăng cường tổ chức thực hiện.
Trong lúc quan hệ sản xuất và
xã hội đã có những biến chuyển cách mạng sâu sắc, cần phải xây dựng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động những tư tưởng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với chế độ chính trị và quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc, phù hợp
với yêu cầu phát triển của cách mạng.
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn
nhất trí với việc Đảng và Chính phủ đề ra đợt chỉnh huấn mùa xuân nhằm
đạt các yêu cầu về tư tưởng như trên, làm cho cán bộ cơ quan nhà nước,
các nhà khoa học - kỹ thuật hiểu rõ quy luật khách quan, các quan điểm
cơ bản về xây dựng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó kiểm điểm tất cả hoạt
động của ngành mình, phát huy ưu điểm, phê phán và khắc phục khuyết điểm
sai lầm, trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, tạo một đà phấn
khởi mới đưa cách mạng ở miền Bắc tiến lên giành những thắng lợi mới.
II- VỀ PHONG TRÀO YÊU
NƯỚC CỦA ĐỒNG BÀO TA
Ở MIỀN NAM VÀ SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn
nhất trí với những nhận định của Chính phủ về phong trào yêu nước ở miền
Nam Việt Nam về những âm mưu và hoạt động phá hoại Hiệp định Giơnevơ một
cách nghiêm trọng của đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm.
Tiểu ban chúng tôi cũng hoàn
toàn nhất trí với quan điểm của Chính phủ "kiên quyết phấn đấu để Hiệp
định Giơnevơ được thi hành đầy đủ và nghiêm chỉnh", nhất là những điều
khoản về việc thực hiện thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình
theo tinh thần của Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thời gian qua, phong trào yêu
nước của đồng bào ta ở miền Nam đã phát triển mạnh mẽ và rộng rãi trong
các tầng lớp nhân dân ở khắp các nơi với rất nhiều hình thức đấu tranh
ngày càng phong phú nhằm thực hiện những quyền lợi cơ bản và cấp bách
nhất của nhân dân ta ở miền Nam; quyền làm ăn sinh sống, quyền tự do dân
chủ, quyền độc lập dân tộc, quyền hòa bình thống nhất Tổ quốc. Chế độ
thối nát và bất lực của Mỹ - Diệm đang ở trong tình trạng khủng hoảng
kéo dài. Chế độ bán nước hại dân đó chẳng những bị toàn thể đồng bào ta
ở miền Nam mà cũng bị nhân dân thế giới lên án.
Sự ra đời của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với một cương lĩnh đấu tranh phù hợp
với nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân ở miền Nam, phù hợp với xu thế
tiến bộ của thế giới ngày nay đánh dấu một bước tiến mới của phong trào.
Dưới ngọn cờ của Mặt trận, các lực lượng yêu nước ở miền Nam chắc chắn
sẽ tập hợp ngày càng đông đảo hơn nữa để phấn đấu cho những mục tiêu mà
Mặt trận đã đề ra.
Trò tuyển cử Tổng thống bịp
bợm của Mỹ - Diệm vừa kết thúc trong khủng bố, càn quét, gian lận ở miền
Nam càng làm cho mọi người thấy rõ bản chất phản động của chúng và chẳng
những không cứu vãn được mà còn thúc đẩy quá trình sụp đổ của chúng.
Cuộc đấu tranh chống Mỹ -
Diệm, thống nhất nước nhà của nhân dân ta đã và đang được sự đồng tình
ủng hộ ngày càng rộng rãi của nhân dân và Chính phủ các nước yêu chuộng
hòa bình trên thế giới.
Trong lúc Tiểu ban làm việc
chúng tôi được tin thêm là Hội đồng đoàn kết nhân dân Á - Phi họp ở Băng
Đung cùng một lúc với kỳ họp này của Quốc hội ta sau khi nghe báo cáo
của đồng chí Hoàng Quốc Việt, Trưởng Đoàn đại biểu Việt Nam, đã có quyết
nghị "đòi đế quốc Mỹ chấm dứt ngay sự can thiệp vào miền Nam Việt Nam"
và cũng lấy ngày 20-7-1961 làm "ngày toàn thể nhân dân Á - Phi đoàn kết
tích cực với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành thống nhất đất
nước".
Chúng tôi đề nghị Quốc hội ta
hoan nghênh những kết quả của khóa họp Hội đồng đoàn kết nhân dân Á -
Phi, hoan nghênh nhiệt tình của các bạn Á - Phi đối với cuộc đấu tranh
của ta. Chúng ta cũng tỏ lòng biết ơn Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa vừa ra tuyên bố ngày 13-4-1961 ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào ta
ở miền Nam, cuộc đấu tranh của nhân dân ta để thống nhất đất nước.
Một lần nữa đó là những cổ vũ
to lớn đối với nhân dân ta, những bằng chứng hùng hồn về tính chất chính
nghĩa của cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm, thống nhất nước nhà của nhân
dân ta, bác bỏ một cách đích đáng những luận điệu xằng bậy của đế quốc
Mỹ và những kẻ theo hùa với chế độ Mỹ vu khống phong trào đấu tranh của
nhân dân ta.
"Ai là thủ phạm gây ra tình
hình hiện nay ở miền Nam? Rõ ràng không phải là một "thiểu số người vũ
trang" hay "miền Bắc" mà đích danh là đế quốc Mỹ và con chó săn trung
thành của chúng là Ngô Đình Diệm. Bọn chúng đã đặt lên đầu nhân dân miền
Nam một chế độ thuộc địa đen tối nhất, dã man nhất; dưới chế độ đó con
đường sống còn duy nhất của mọi người dân bình thường là phải đấu tranh
để cứu lấy mình, cứu nhà, cứu nước".
Đó là câu trả lời đanh thép
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhân dân miền Nam, trong lời Tuyên bố
ngày 09-4-1961 về việc đế quốc Mỹ và khối xâm lược Đông Nam Á tăng cường
can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Lần đầu tiên, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng đã đưa ra những con số nói lên tội ác tày trời của Mỹ - Diệm đối
với nhân dân miền Nam "bắt giam 27 vạn người trong các nhà lao chính
thức, giết chết 75.000 người, làm bị thương 16.625 người, bắt giam và
tra tấn thành thương tật phế nhân rồi thả trên 50 vạn người". Đó là
những con số vượt xa những con số mà từ trước đến nay chúng ta công bố
trên miền Bắc.
Chúng ta cực lực phản đối
những hành động khủng bố tàn sát cực kỳ dã man của bọn Mỹ - Diệm!
Chúng ta cực lực lên án những
hành động vi phạm liên tiếp và ngày càng nghiêm trọng của chúng đối với
tất cả các điều khoản chính trị và quân sự của Hiệp định Giơnevơ, gây
tình trạng chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ.
Chúng ta cực lực phản đối
việc hội nghị của khối quân sự Đông Nam Á mới đây đã bàn đến cái gọi là
vấn đề miền Nam Việt Nam có đại diện của chính quyền Ngô Đình Diệm tham
dự, chúng ta coi đó là một sự can thiệp trắng trợn vào tình hình nước ta
trái với Hiệp định Giơnevơ.
Chúng ta tuyên bố rằng cuộc
đấu tranh để giành quyền sống, để giành độc lập, dân chủ của đồng bào ta
ở miền Nam là quyền thiêng liêng của đồng bào ta, một cuộc đấu tranh yêu
nước chính nghĩa mà không một nước ngoài nào được can thiệp.
Chúng ta cũng tuyên bố rằng
thống nhất Tổ quốc là nguyện vọng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, là
trách nhiệm của chính quyền hai miền thực sự coi trọng quyền lợi của Tổ
quốc và nguyện vọng của nhân dân, không một nước ngoài nào được can
thiệp vào ! Mọi vấn đề của dân tộc Việt Nam đều do dân tộc Việt Nam cùng
nhau thương lượng, thảo luận để giải quyết, theo tinh thần của Bản cương
lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Phải tiến tới có sự hiệp
thương giữa chính quyền hai miền theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ,
phải lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền vì những lợi ích rất
thiết thực của đồng bào ta ở hai miền!
Nhân dân Việt Nam trước sau
như một kiên quyết phấn đấu để Hiệp định Giơnevơ được thi hành đầy đủ và
nghiêm chỉnh, vì hòa bình thống nhất độc lập dân chủ của nước Việt Nam
và vì hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Phong trào đấu tranh của đồng
bào miền Nam từ chỗ bị đánh phá ác liệt đã vùng dậy thành những làn sóng
căm phẫn lôi cuốn hàng triệu người vào những cuộc đấu tranh to lớn, sôi
nổi, làm thất bại một phần lớn các chính sách phản nước hại dân của Mỹ -
Diệm, làm tan rã một phần lớn cơ sở chính quyền của chúng ở nông thôn,
làm cho chúng ngày càng bị cô lập, suy yếu, làm cho nội bộ của chúng
ngày càng thêm phân hóa sâu sắc. Sự vùng dậy của đồng bào miền Nam sau
6, 7 năm trời bị dìm trong máu lửa nói lên sức sống mãnh liệt của dân
tộc Việt Nam, một dân tộc kiên cường bất khuất.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội
biểu dương tinh thần đoàn kết đấu tranh anh dũng bất khuất của đồng bào
miền Nam!
Nhân dân ta ở miền Nam nhất
định sẽ đánh bại bọn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng. Miền Nam
nước ta nhất định sẽ được giải phóng! Nước Việt Nam nhất định sẽ thống
nhất!
III- VỀ TÌNH HÌNH
QUỐC TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
CỦA NƯỚC TA
Tiểu ban chúng tôi hoàn toàn
nhất trí với đường lối và hoạt động ngoại giao của Chính phủ đã tiến
hành trong thời gian qua và vui mừng nhận thấy rằng quan hệ đối ngoại
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được mở rộng, uy tín và địa vị của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được nâng cao thêm một bước.
Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh và ủng
hộ bản Tuyên bố và Lời kêu gọi của Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công
nhân tại Mạc Tư Khoa
tháng 11 năm 1960.
Chúng ta phấn khởi nhận thấy
rằng lực lượng của chủ nghĩa xã hội đang ngày càng tỏ rõ hơn hẳn lực
lượng của chủ nghĩa đế quốc, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang trở thành
nhân tố quyết định sự phát triển của thời đại ngày nay, phong trào giải
phóng dân tộc lên mạnh đang làm cho chủ nghĩa thực dân tan rã không cứu
vãn được. Chủ nghĩa đế quốc bước vào giai đoạn khủng hoảng mới. Tuy
nhiên bản chất của chúng vẫn không thay đổi và cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ là một cuộc đấu
tranh gay go, phức tạp. Chúng ta cần phải luôn luôn đề cao cảnh giác,
nâng cao ý chí chiến đấu để kiên quyết, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng của chúng ta.
Chúng ta vô cùng phấn khởi
nhận thấy sự tăng cường đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm cho hòa bình thế giới.
Thành tựu tuyệt vời, kỳ diệu
của nền khoa học Liên Xô trong việc phóng thành công con tầu vệ tinh
"Phương Đông" với người công dân Xô viết Gagarin lên vũ trụ và trở về
trái đất an toàn đã là một niềm phấn khởi chung cho toàn thế giới cũng
như cho nhân dân ta, một tin vui đến đúng lúc Quốc hội ta họp. Việc
người đầu tiên lên vũ trụ là một công dân Xô viết, người công dân một
nước xã hội chủ nghĩa, người công dân của một nước trước đây không bao
nhiêu năm kinh tế rất lạc hậu nhân dân "không có giầy đi, áo mặc" văn
hóa rất kém “gần như hoàn toàn mù chữ", phải phấn đấu với muôn ngàn khó
khăn gian khổ mới có ngày nay, trở thành nước đi đầu thế giới về khoa
học - kỹ thuật là một điều cổ vũ lớn lao đối với chúng ta, nâng cao
quyết tâm của chúng ta, khích lệ chúng ta khắc phục mọi khó khăn trước
mắt, vững bước tiến lên theo con đường của những người "chọc trời", con
đường hạnh phúc, ấm no cho nhân dân, con đường quang vinh cho Tổ quốc,
cho dân tộc.
Một lần nữa chúng tôi đề nghị
Quốc hội hoan nghênh kỳ công vĩ đại của nền khoa học Xô viết, của nhân
dân Liên Xô, của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin bách thắng!
Chúng ta vui mừng nhận thấy
một điều quý báu là mặc dầu bọn Mỹ - Diệm ra sức chạy vạy, bịp bợm, nhân
dân châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh ngày càng nhận rõ rệt rằng Chính
phủ ta, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là người tiêu biểu
những quyền dân tộc của cả nước ta, cả dân tộc ta, càng có cảm tình với
sự nghiệp hòa bình thống nhất đất nước ta. Nước Việt Nam là Điện Biên
Phủ, là Hồ Chí Minh, là tự do, độc lập, là hạnh phúc, hòa bình chúng
không thể nào lừa bịp ai được.
Việc gần đây nước ta kiến lập
quan hệ ngoại giao và quan hệ hữu nghị với các nước Á - Phi và Mỹ
latinh, tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á là một sự tiến triển
quan trọng. Chúng ta kính gửi đến nhân dân châu Á và châu Phi và châu Mỹ
latinh lời chào anh em nhiệt liệt và lòng biết ơn sâu sắc của mình.
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí
với đường lối của Chính phủ nhằm phát triển những mối quan hệ hữu nghị
với Vương quốc Lào, ủng hộ Chính phủ hợp pháp của Lào do Hoàng thân
Souvan Phouma làm Thủ tướng, ủng hộ nhân dân Lào anh em trong cuộc đấu
tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ và các nước tay sai. Chúng tôi
tán thành chủ trương của Chính phủ đồng tình ủng hộ những cố gắng bảo vệ
nền độc lập và thống nhất lãnh thổ của nhân dân Cônggô. Chúng ta vô cùng
căm phẫn và nghiêm khắc lên án sự xâm lược trắng trợn của đế quốc Mỹ đối
với nước Cộng hòa Cuba. Chúng ta nhiệt liệt ủng hộ cuộc chiến đấu chống
xâm lược của nhân dân Cuba anh dũng.
Trước sau như một, nhân dân
Việt Nam ta vẫn sẽ sát cánh với nhân dân toàn thế giới, kiên quyết tiến
hành cuộc đấu tranh vĩ đại chống chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ,
tiếp tục tích cực góp phần vào sự nghiệp củng cố hòa bình, độc lập dân
tộc, tự do dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các nước.
Thưa Quốc
hội,
Chúng ta họp Quốc hội trong
lúc ở khắp miền Bắc đang dâng lên một cao trào nhiệt tình lao động của
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong lúc
phong trào cách mạng ở miền Nam có những chuyển biến căn bản.
Chúng ta được cái may mắn họp
kỳ họp này cùng với chuyến bay kỳ diệu đầu tiên của con người vào vũ
trụ, con người đó lại là một công dân Xô viết, đi trong con tàu vũ trụ
"Phương Đông", trong không khí tưng bừng phấn khởi của toàn nhân loại và
nhất là của trên một nghìn triệu con người trong phe xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh, chào mừng thành công vĩ đại của nền khoa học
Xô viết, của chủ nghĩa cộng sản, "Phương Đông" báo hiệu những thắng lợi
mới, to lớn, tuyệt vời hơn nữa của Liên Xô, của phe ta, đồng thời cũng
báo hiệu những thất bại, chua cay của đế quốc Mỹ, những thất vọng chua
cay của những ai còn tin Mỹ, theo Mỹ. Hơn bao giờ hết chúng ta càng có
thêm lý do, càng có thêm cơ sở để tin tưởng vào sự đúng đắn của đường
lối của Đảng, tin tưởng vào những khả năng vô tận của chúng ta, những
con người lao động được giải phóng trên miền Bắc đang có điều kiện để
phát huy sức sản xuất đi đến chế ngự, chiến thắng thiên nhiên!
Chúng ta còn gặp nhiều khó
khăn, chúng ta còn nhiều nhược điểm, nhưng với lòng tin tưởng tuyệt đối
ở sự lãnh đạo của Đảng, ở đường lối chung của Đảng, với quyết tâm của
toàn dân nhất định chúng ta sẽ thắng lợi trong kế hoạch 5 năm, trong kế
hoạch 1961 cũng như chúng ta đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch ba năm.
Trong tinh thần tin tưởng,
phấn khởi ấy. Tiểu ban chúng tôi nhất trí tán thành toàn bộ nhận định
chủ trương trong báo cáo của Chính phủ và đề nghị Quốc hội biểu quyết
thông qua bản báo cáo ấy.