VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

 

BÁO CÁO CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
TẠI KỲ HỌP THỨ 3, QUỐC HỘI KHOÁ II, NGÀY 24-10-1961
(Do Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội
Nguyễn Xiển trình bày
)

 

Thưa các vị đại biểu,

Trong sáu tháng qua, từ kỳ họp thứ 2 của Quốc hội đến nay, song song với đà tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, chúng ta có nhiều tiến bộ trong việc kiện toàn bộ máy nhà nước, làm cho Nhà nước của chúng ta ngày càng làm tốt nhiệm vụ chuyên chính dân chủ nhân dân.

Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn đã được Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội quy định, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cố gắng hướng mọi hoạt động của mình nhằm thiết thực góp phần vào việc kiện toàn bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân, chủ yếu là nhằm kiện toàn chế độ pháp chế dân chủ, phát huy tác dụng của các cơ quan dân cử và tạo điều kiện thuận lợi để đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước.

Từ kỳ họp trước đến kỳ họp này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã họp 15 lần, đã thông qua 41 nghị quyết gồm có một số pháp lệnh và những quyết định về tặng thưởng huân chương, bổ nhiệm các nhân viên cao cấp của Nhà nước, phê chuẩn hiệp ước ký với nước ngoài, biểu thị thái độ đối với các vấn đề quốc tế, ân xá ân giảm, v.v..

Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách và Ủy ban dân tộc của Quốc hội đã giúp đắc lực cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc nghiên cứu các vấn đề đã được nêu ra trước Ủy ban, thẩm tra các dự án, chuẩn bị các đề án.

Từ ngày 10 đến 17-10-1961, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiếp đón đoàn đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Hunggari do đồng chí Phó Chủ tịch Quốc hội Vatsơ Itstơvar dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta. Nhân dân ta đã nhiệt liệt đón tiếp đoàn đại biểu Quốc hội của nước anh em. Cuộc đi thăm của đoàn đã góp phần thắt chặt hơn nữa mối tình hữu nghị sẵn có giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Hunggari. Quốc hội ta hết sức vui mừng nhận thấy mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân và Quốc hội Việt Nam với nhân dân và Quốc hội Hunggari ngày càng củng cố và phát triển.

Ngày 21-10-1961, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có nhận được “Lời kêu gọi của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc gửi tất cả các Quốc hội trên thế giới về vấn đề ký ngay một hòa ước với nước Đức”. Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc về vấn đề Đức và vấn đề Tây Béclanh1 và đề nghị Quốc hội ta sẽ tỏ rõ thái độ của mình về những vấn đề đó trong kỳ họp này.

Ngày 28-7-1961, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có nhận được điện của Quốc hội nước Cộng hòa Tuynidi tố cáo việc Pháp vũ trang xâm lược Tuynidi, và kêu gọi Quốc hội ta ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Tuynidi. Như các vị đã biết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tỏ rõ thái độ về vấn đề này.

Dưới đây Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo một số vấn đề quan trọng về công tác của Uỷ ban trong thời gian vừa qua:

I. ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ,
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VÀ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

1. Đối với hoạt động của Hội đồng Chính phủ

Trong thời gian từ kỳ họp trước đến nay, ngoài những thông báo thường kỳ về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhận được những đề án của Hội đồng Chính phủ về các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban thường vụ Quốc hội và nghe báo cáo về một số vấn đề quan trọng trong công tác của Chính phủ.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghe báo cáo về:

- Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước sáu tháng đầu năm 1961 và đề nghị điều chỉnh một số chỉ tiêu của kế hoạch;

- Tình hình tài chính sáu tháng đầu năm 1961 và đề nghị phương hướng điều chỉnh ngân sách năm 1961;

- Tình hình lương thực và những chủ trương mới của Chính phủ về thu mua lương thực v.v..

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã hoan nghênh sự cố gắng của Chính phủ trong việc lãnh đạo các ngành, các cấp thực hiện kế hoạch nhà nước trong những điều kiện khó khăn và tán thành việc điều chỉnh một số chỉ tiêu để giữ vững sự cân đối của kế hoạch và bảo đảm thăng bằng thu chi. Đồng thời, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã lưu ý Chính phủ ra sức khắc phục những thiếu sót còn tồn tại trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và chấp hành ngân sách.

Vấn đề lương thực, một vấn đề mà trong kỳ họp trước Quốc hội đã đặc biệt quan tâm, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tán thành chính sách lương thực của Chính phủ nhằm mục đích vừa bảo đảm nhu cầu của Nhà nước và quản lý tốt thị trường thóc gạo, vừa khuyến khích nhân dân hăng hái sản xuất. Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã lưu ý Chính phủ tăng cường chỉ đạo việc thực hiện chính sách lương thực, kiểm tra, đôn đốc chặt chẽ để kịp thời phát hiện và uốn nắn những lệch lạc có thể xảy ra.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghe báo cáo về các hoạt động ngoại giao của Chính phủ như:

- Việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ ta đi thăm hữu nghị các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc;

- Việc Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ ta đi đàm phám và ký kết về kinh tế và thương mại với Chính phủ các nước Liên Xô, Trung Quốc, Hunggari, Rumani, Ba Lan, Tiệp Khắc, Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Anbani;

- Việc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm dẫn đầu một đoàn ngoại giao của Chính phủ ta đi thăm một số nước châu Phi;

- Việc Chính phủ ta cử đoàn đại biểu tham dự Hội nghị Giơnevơ mở rộng để giải quyết vấn đề Lào.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nhiệt liệt hoan nghênh kết quả tốt đẹp của cuộc đi thăm một số nước anh em của đoàn đại biểu Chính phủ và nhận định rằng cuộc đi thăm đó đã góp phần quan trọng vào việc củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhận định rằng các cuộc đàm phám và ký kết về kinh tế và thương mại giữa Chính phủ ta và Chính phủ các nước anh em tiến hành vào lúc chúng ta bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất có một ý nghĩa rất lớn. Nó tạo điều kiện để phát huy tinh thần tự lực cánh sinh của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững chắc cho công cuộc đấu tranh nhằm hòa bình thống nhất nước nhà, đồng thời góp phần vào việc củng cố phe xã hội chủ nghĩa. Để thi hành tốt các Hiệp định đã ký kết, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã lưu ý Chính phủ tổ chức chu đáo việc thu nhận và sử dụng tốt các thiết bị, nguyên liệu, hàng hóa do các nước anh em giúp đỡ, đồng thời có kế hoạch tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế, để có điều kiện và khả năng sử dụng tốt viện trợ của các nước anh em.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhận định rằng cuộc đi thăm một số nước châu Phi của đoàn ngoại giao của Chính phủ là một thắng lợi quan trọng trong việc tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của Chính phủ và nhân dân các nước châu Phi đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, và đã góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước đó.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tán thành chủ trương của Chính phủ về vấn đề Lào và việc Chính phủ cử đoàn đại biểu tham dự Hội nghị Giơnevơ mở rộng để hòa bình giải quyết vấn đề Lào.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã khai thác các bản tham luận đọc tại kỳ họp trước và các thư kiến nghị của các đại biểu Quốc hội, rút ra những vấn đề lớn gửi Chính phủ nghiên cứu, sử dụng và giải quyết.

Tóm lại, trong quan hệ với Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã theo dõi các hoạt động của Chính phủ về nội chính cũng như về ngoại giao, theo dõi sự phát triển của tình hình trong nước và ngoài nước, kịp thời giải quyết những vấn đề quan trọng của Nhà nước.

2. Đối với hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân

Nói chung, trong nhiều phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được mời đến tham dự.

Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã báo cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác của mình trong 6 tháng đầu năm 1961.

Trọng tâm công tác của Tòa án nhân dân tối cao, trong thời gian qua là việc xây dựng và kiện toàn tổ chức. Căn cứ vào Pháp lệnh về tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn các địa phương bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân, nghiên cứu thực hiện việc mở rộng thẩm quyền cho các Tòa án nhân dân huyện.

Tòa án nhân dân tối cao đã có nhiều cố gắng trong việc đào tạo và điều chỉnh cán bộ.

Công tác giám đốc xét xử của Tòa án nhân dân tối cao đã thu được kết quả đáng kể. Về hình sự, việc xét xử của Tòa án nhân dân các cấp tương đối được nhanh chóng và kịp thời.

Trong tổ chức nhà nước của ta, Viện kiểm sát nhân dân là một ngành mới, được thành lập sau khi nước ta đã có Hiến pháp mới.

Trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vừa đẩy mạnh công tác kiểm sát, vừa đẩy mạnh việc xây dựng ngành.

Nói chung, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương đã được thành lập. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chú trọng bồi dưỡng cán bộ về mọi mặt tư tưởng, chính trị và nghiệp vụ, xây dựng tổ chức và lề lối làm việc, đặt quan hệ công tác với các cơ quan nhà nước; tuyên truyền, giải thích về ý nghĩa, mục đích của việc thành lập kiểm sát nhân dân cũng như về nhiệm vụ và tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân.

Ngoài việc đấu tranh chống các phần tử phản cách mạng, phá hoại hiện hành, bảo vệ kinh tế, bảo vệ trật tự an ninh, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chú ý kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, công trường, nông trường, xí nghiệp, hợp tác xã.

Theo dõi hoạt động của hai ngành Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, chúng tôi nhận thấy rằng trong thời gian vừa qua hai ngành này đã có nhiều cố gắng và thu được một số kết quả tốt trong việc thi hành chức năng của mình, cũng như trong việc xây dựng tổ chức của ngành. Tuy nhiên, một số điều rất rõ là tổ chức chưa được nâng lên ngang mức yêu cầu của nhiệm vụ công tác. Tòa án nhân dân đã được thành lập từ trung ương đến huyện, nhưng số thẩm phán và cán bộ chuyên môn còn thiếu nhiều. Về ngành kiểm sát thì còn một số ít huyện và châu chưa thành lập được tổ chức kiểm sát. Ở một số địa phương còn có những thiếu sót như: có nơi Uỷ ban hành chính hoặc Tòa án nhân dân kiêm luôn công việc của Viện kiểm sát, có nơi Uỷ ban hành chính báo cáo thay cho Tòa án trước hội nghị của Hội đồng nhân dân, v.v..

Sự hoạt động có hiệu lực của các Tòa án nhân dân và của Viện kiểm sát nhân dân là một nhân tố quan trọng để bảo đảm cho pháp chế dân chủ của ta được tôn trọng, bảo đảm cho nhân dân thực hiện đầy đủ và kịp thời quyền chuyên chính đối với những kẻ phá hoại sự nghiệp cách mạng, phá hoại lợi ích của nhân dân.

Trong dịp này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội lưu ý các cấp hành chính, các Hội đồng nhân dân địa phương hãy hết sức giúp đỡ Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoàn thành xây dựng hệ thống tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân và tạo cho Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp những điều kiện thuận tiện để thực hiện chức năng của mình.

II. VỀ CÔNG TÁC PHÁP LUẬT

Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ rõ là phải “xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa và giáo dục mọi người tôn trọng pháp luật”.

Để thực hiện Nghị quyết của Đại hội và phát huy tác dụng của pháp chế dân chủ trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã đề ra một chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh cho năm 1961 và đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước hữu quan để thực hiện chương trình đó. Uỷ ban dự án pháp luật và Uỷ ban dân tộc của Quốc hội đã họp nhiều lần để thẩm tra các dự án nghị quyết, dự án pháp lệnh.

Trong thời gian qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua một nghị quyết và ba pháp lệnh và đã phê chuẩn một quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

1. Nghị quyết ngày 20-6-1961 về việc giáo dục cải tạo những phần tử có những hành động nguy hại cho xã hội

Nghị quyết này quy định việc giáo dục cải tạo những phần tử phản cách mạng và bọn lưu manh chuyên nghiệp đã được giáo dục nhiều lần mà không chịu hối cải, nhưng xét không cần đưa ra Tòa án xét xử. Trong thời gian giáo dục cải tạo, những người được giáo dục cải tạo không bị coi như phạm nhân có án phạt tù, họ được hưởng một chế độ thích đáng về lao động, học tập, ăn ở, nhưng phải tuân theo kỷ luật giáo dục cải tạo.

Nghị quyết này nhằm mục đích ngăn ngừa những hành động phá hoại của những phần tử xấu nói trên để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, đồng thời nhằm giáo dục cải tạo những phần tử ấy bằng lao động sản xuất, học tập nghề nghiệp, cải tạo tư tưởng để trở thành người có ích cho xã hội.

2. Pháp lệnh ngày 09-8-1961 quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Công an nhân dân vũ trang

Công an nhân dân vũ trang được thành lập từ tháng 03-1959 và đã lập được nhiều thành tích. Nhưng đến ngày 09-8-1961 Nhà nước ta chưa quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Công an nhân dân vũ trang. Vì vậy, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về chế độ phục vụ của sĩ quan Công an nhân dân vũ trang, một quy định cần thiết nhằm đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang ngày càng vững mạnh.

Pháp lệnh đã căn cứ vào Luật ngày 29-4-1958 về chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân, đồng thời đã xuất phát từ những đặc điểm về nhiệm vụ và tổ chức của Công an nhân dân vũ trang mà quy định về: nguồn bổ sung đội ngũ sĩ quan công an nhân dân vũ trang; quyền phong, thăng, giáng cấp bậc; quyền bổ nhiệm, giáng chức, bãi chức, quyền quyết định cho sĩ quan công an nhân dân vũ trang được xuất ngũ, chuyển sang ngạch dự bị, giải ngạch dự bị; quyền đình chỉ chức vụ, hạn tuổi phục vụ cao nhất của công an nhân dân vũ trang v.v..

3. Pháp lệnh ngày 12-9-1961 đặt Huân chương và Huy chương Chiến sĩ vẻ vang

Trước đây, chúng ta đã có Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công để khen thưởng những thành tích xuất sắc trong từng trận chiến đấu hoặc từng đợt công tác, Huân chương và Huy chương Chiến thắng để khen thưởng tổng kết thành tích chiến đấu và xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang trong thời kỳ kháng chiến.

Pháp lệnh ngày 12-9-1961 đặt ra Huân chương và Huy chương Chiến sĩ vẻ vang để tặng thưởng cán bộ và chiến sĩ có công trong việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang từ ngày hòa bình được lập lại, nhằm mục đích động viên và phát huy tinh thần thi đua yêu nước sẵn có trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang, đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang của nhân dân, đưa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy và hiện đại.

4. Pháp lệnh ngày 27-9-1961 quy định việc quản lý của Nhà nước với công tác phòng cháy và chữa cháy

Miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn. Những khối lượng lớn hàng hóa, sản phẩm, nguyên vật liệu, máy móc và của cải được tập trung trong các kho tàng, xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã, việc sử dụng điện lực, các hóa chất, chất nổ, chất dễ cháy trong sản xuất và trong việc phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân ngày càng tăng; các khu nhà của Nhà nước và của nhân dân ngày càng tập trung đông đảo. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường công tác phòng cháy và chữa cháy và tăng cường việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy và chữa cháy.

Vì vậy, Pháp lệnh ngày 27-9-1961 quy định rõ việc phòng cháy và chữa cháy là nghĩa vụ chung của công dân, phòng cháy và chữa cháy trong các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng, công trường, nông trường là nghĩa vụ của toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức và trước hết là trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị ấy. Pháp lệnh giao việc quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy cho Bộ Nội vụ và các Uỷ ban hành chính các cấp phụ trách, quy định hệ thống cơ quan chuyên môn về phòng cháy và chữa cháy ở các cấp để giúp Bộ Nội vụ và các Uỷ ban hành chính và quy định việc thành lập những đội phòng cháy và chữa cháy có tính chất nghĩa vụ của nhân dân và các đội chữa cháy chuyên nghiệp. Pháp lệnh cũng quy định việc khen thưởng những đơn vị hoặc cá nhân có thành tích phòng cháy hoặc chữa cháy và các biện pháp xử lý cần thiết đối với những vụ vi phạm pháp lệnh của Nhà nước và những quy định của cơ quan hành chính về phòng cháy và chữa cháy.

Căn cứ vào Pháp lệnh này, Hội đồng Chính phủ sẽ ra những quy định cần thiết và lãnh đạo việc xây dựng một chế độ giám sát thích hợp và có hiệu lực của Nhà nước đối với việc phòng cháy và chữa cháy nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân.

5. Quyết định ngày 9-9-1961 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Ngày 27-9-1961, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức cụ thể của bộ máy làm việc và về biên chế của Tòa án nhân dân tối cao và tổng số biên chế của các Tòa án nhân dân địa phương nhằm mục đích kiện toàn bộ máy làm việc của Tòa án nhân dân tối cao và tăng cường lực lượng cán bộ cho các Tòa án nhân dân để cho các Tòa án nhân dân có thể thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ của mình.

Ngoài ra, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nhận được đề nghị của Hội đồng nhân dân Khu tự trị Thái - Mèo về điều lệ tổ chức Tòa án nhân dân các cấp trong Khu tự trị Thái - Mèo và đã giao cho Uỷ ban dự án pháp luật và Uỷ ban dân tộc cùng nghiên cứu để đề xuất ý kiến. Uỷ ban dự án pháp luật và Uỷ ban dân tộc đã cử đại diện và cán bộ lên Khu tự trị Thái - Mèo để điều tra tình hình tổ chức và yêu cầu về tổ chức Tòa án nhân dân tại Khu tự trị này và đã họp hội nghị liên tịch để xét bản đề nghị về điều lệ nói trên.

Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, công tác pháp luật đã được đẩy mạnh hơn trước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan đã có nhiều cố gắng và làm việc khẩn trương.

Trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước cần chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng pháp chế dân chủ của ta, nghiên cứu yêu cầu về pháp chế của mỗi ngành để có thể đặt một chương trình công tác pháp luật lâu dài và có kế hoạch tiến hành từng bước.

Đi đôi với việc xây dựng pháp luật, trong thời gian vừa qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã chú ý đến việc tuyên truyền giáo dục cho cán bộ và nhân dân tôn trọng pháp luật của Nhà nước. Sau mỗi khi thông qua một pháp lệnh, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã họp hội nghị báo chí để phổ biến mục đích, ý nghĩa và nội dung của pháp lệnh. Do đài phát thanh và các báo hàng ngày, các pháp lệnh đã được phổ biến đến cán bộ và nhân dân.

Nhìn chung, từ trước đến nay cán bộ và nhân dân ta đều có thái độ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nhưng qua các đơn khiếu nại của nhân dân gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và qua báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì chúng ta thấy những hiện tượng vi phạm pháp luật vẫn còn khá nhiều trong một số cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường và hợp tác xã.

Về trật tự an ninh, đáng chú ý nhất là những việc vi phạm luật lệ giao thông, gây ra tai nạn, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, đến tài sản và tính mạng của nhân dân.

Về kinh tế tài chính, có nhiều vụ tham ô, lãng phí đã xẩy ra trong một số cơ quan kinh tế tài chính, có những vụ nghiêm trọng.

Sau hai năm thi hành Luật hôn nhân và gia đình, những việc cưỡng ép hôn nhân còn xẩy ra ở một số nơi; trong nhiều gia đình, tình hình vợ chồng đối xử với nhau và quan hệ giữa cha mẹ và các con chưa được tốt.

Về việc xây dựng trường học dân lập, có một số địa phương tự tiện quyên góp, không theo đúng thủ tục pháp luật và thường dùng những hình thức gò ép, bổ bán, không đi đường lối quần chúng.

Trong một số nông trường đã xẩy ra những vụ vi phạm pháp luật, như lạm sát trâu bò, bắn chết trâu bò ở ngoài vào nông trường ăn cỏ, chặt cây cối và phá đường đi của nhân dân.

Trong các hợp tác xã còn có trường hợp ban quản trị dùng các hình thức mệnh lệnh đối với một số người xin ra hợp tác xã hoặc gò ép một số hộ riêng lẻ vào hợp tác xã, vi phạm nguyên tắc tự nguyện đã được quy định rõ ràng trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước.

Có nông trường và hợp tác xã tự tiện đặt ra những khoản phạt tiền, phạt dầu hỏa, phạt công điểm đối với nông trường viên và xã viên.

Nguyên nhân của những việc vi phạm pháp chế nói trên, một mặt là do cán bộ và nhân dân ta chưa có đầy đủ ý thức và tinh thần trách nhiệm trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, mặt khác cũng do việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật của ta chưa được sâu rộng và thường xuyên, việc giám sát của Nhà nước và của nhân dân chưa được chặt chẽ.

Trong thời gian tới, chúng ta phải chú ý giáo dục cán bộ và nhân dân tôn trọng pháp luật của Nhà nước, đồng thời tăng cường việc giám sát của Nhà nước và của nhân dân. Bằng các phương tiện sẵn có như đài phát thanh, sách báo và các cuộc nói chuyện, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc này phải cố gắng làm cho cán bộ và nhân dân hiểu rõ pháp luật của Nhà nước, do đó tự nguyện chấp hành và giám đốc người khác chấp hành. Các Viện kiểm sát nhân dân cần tăng cường công tác kiểm soát việc tuân theo pháp luật và có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những việc vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng. Vấn đề này, các vị đại biểu Quốc hội có thể góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân tôn trọng pháp luật của Nhà nước, góp ý kiến với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời báo cáo cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội biết những việc vi phạm pháp luật.

III. VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

Trong thời gian vừa qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nhận được thư của hai đoàn đại biểu Quốc hội và của cá nhân 40 đại biểu Quốc hội. Nhiều đại biểu Quốc hội ở Hà Nội hoặc ở địa phương về công tác ở thủ đô đã đến trực tiếp với bộ phận thường trực của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Các vị đại biểu Quốc hội đã báo cáo với Uỷ ban thường vụ Quốc hội về hoạt động của mình, về tình hình ở địa phương, về những yêu cầu hoặc khiếu nại của nhân dân, góp ý kiến về các chính sách của Nhà nước và việc thi hành các chính sách đó.

Qua sự phản ánh tình hình và góp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, chúng tôi nhận thấy các vị nói chung đều bận công tác chuyên môn, nhưng một số vị đã dành thì giờ làm nhiệm vụ đại biểu, khéo kết hợp công tác chuyên môn với nhiệm vụ đại biểu, đã chú ý thắt chặt quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và nhân dân, tích cực tham gia các cuộc hội nghị của Hội đồng nhân dân địa phương, thiết thực quan tâm đến việc giải quyết những khó khăn của nhân dân, đến việc kiểm tra thực hiện các chính sách của Nhà nước. Nhưng cũng có một số vị đại biểu không thu xếp được thì giờ để năng tiếp xúc với nhân dân và giữ liên hệ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Nói chung, hoạt động của các đại biểu Quốc hội không đều và nhiều khi còn hình thức, tác dụng của người đại biểu Quốc hội trong sinh hoạt chính trị hàng ngày của nhân dân còn bị hạn chế nhiều.

Đó là do quan niệm của mỗi đại biểu về vai trò và nhiệm vụ thường xuyên của mình không giống nhau; đó cũng là do chúng ta chưa có một quy chế hoạt động chung cho các đại biểu Quốc hội; trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội có nói đến quyền hạn và nhiệm vụ của các đại biểu Quốc hội, song những điểm đó chưa được cụ thể hóa. Mặt khác, cũng phải nhận rằng sự đòi hỏi của nhân dân, sự quan tâm của chính quyền và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương đối với hoạt động của đại biểu Quốc hội chưa được đúng mức.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, việc phát huy vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, việc động viên quần chúng tham gia quản lý nhà nước, xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa là một nhân tố thúc đẩy quan trọng. Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân là những người mà nhân dân cử ra thay mặt cho mình để tham gia quản lý nhà nước cần thấu suốt tinh thần Hiến pháp mới và tinh thần nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam.

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quyền lực đó được thể hiện trong các luật pháp, các nghị quyết mà Quốc hội thông qua tại các kỳ họp. Cho nên các kỳ họp là sinh hoạt quan trọng của Quốc hội. Tuy nhiên, những người đại biểu Quốc hội là đại biểu thường xuyên của nhân dân trong một nhiệm kỳ là bốn năm. Cho nên người đại biểu Quốc hội bất kỳ ở cương vị công tác nào cũng không nên tách rời công tác chuyên môn của mình với nhiệm vụ đại biểu. Vấn đề quan trọng là kết hợp nhiệm vụ chuyên môn và nhiệm vụ đại biểu Quốc hội như thế nào cho có hiệu quả tốt. Về vấn đề này, chúng tôi mong rằng các vị đại biểu Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội nghiên cứu, thảo luận để cùng nhau tìm biện pháp phát huy hơn nữa tác dụng của người đại biểu Quốc hội.

Tại kỳ họp lần trước của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã trình bày với Quốc hội về sự cần thiết phải có những quy định nhằm làm cho hoạt động của các đại biểu Quốc hội đi vào nền nếp, thu được nhiều kết quả thiết thực và do đó tác dụng của Quốc hội được phát huy hơn nữa.

Nhằm mục đích trên, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã giao cho Ban thư ký của Uỷ ban căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, căn cứ vào những kinh nghiệm công tác Quốc hội của ta từ trước đến nay mà dự thảo ra “những điều quy định về hoạt động của đại biểu Quốc hội”, nêu lên những nhiệm vụ công tác cụ thể của các vị đại biểu Quốc hội. Chúng tôi mong rằng trong kỳ họp này, các đoàn đại biểu Quốc hội sẽ góp thêm nhiều ý kiến xây dựng bản dự thảo đó.

Để phát huy tác dụng của Quốc hội, ngoài việc các đại biểu Quốc hội phải đem hết tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình để phục vụ nhân dân, thì việc nhân dân giám sát các đại biểu Quốc hội và việc các cơ quan chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở địa phương giúp đỡ các đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ là những điều rất cần thiết. Một mặt, các đại biểu Quốc hội trong khi làm nhiệm vụ cần phải tranh thủ sự giám đốc và giúp đỡ của nhân dân. Mặt khác, nhân dân cần đề cao hơn nữa tinh thần làm chủ nhà nước, chú trọng giám sát những đại biểu mình đã bầu ra; các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân cần thấy rõ vai trò, địa vị, tác dụng của người đại biểu Quốc hội để tích cực và thiết thực giúp đỡ cho các vị đó làm nhiệm vụ.

IV. VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG

Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta để kiện toàn Nhà nước dân chủ nhân dân là phải xây dựng củng cố hệ thống Hội đồng nhân dân, tăng cường hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, làm cho các Hội đồng nhân dân sinh hoạt đều đặn và có nội dung phong phú, thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương.

 Trong thời gian vừa qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quan tâm đến hoạt động của các Hội đồng nhân dân. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã theo dõi việc bảo đảm cho các Hội đồng nhân dân mãn nhiệm kỳ được bầu lại theo đúng pháp luật nhà nước và việc bầu cử các Hội đồng nhân dân huyện, châu được theo đúng quy định của Hiến pháp mới, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phân công các Uỷ viên của Uỷ ban và đã cử cán bộ, chuyên viên về tham dự hội nghị Hội đồng nhân dân tại nhiều thành phố, tỉnh, huyện trực tiếp bàn bạc với một số Uỷ ban hành chính địa phương về công tác của Hội đồng nhân dân. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức việc nghiên cứu các biên bản, báo cáo, nghị quyết của các Hội đồng nhân dân gửi đến. Nhiều vị trong các đoàn đại biểu Quốc hội địa phương cũng đã tham dự hội nghị Hội đồng nhân dân và sau đó có phản ánh tình hình công tác lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Những việc trên đây đã bước đầu góp phần xây dựng quan hệ giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân, đã giúp cho các địa phương nhận thức được rõ hơn ý nghĩa và tác dụng của Hội đồng nhân dân trong tổ chức và sinh hoạt của Nhà nước chúng ta và giúp cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội hiểu thêm về hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.

Từ ngày ban hành Pháp lệnh về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (23-1-1961) đến nay, các địa phương đã lần lượt bầu lại Hội đồng nhân dân các cấp đã hết nhiệm kỳ và lần đầu tiên đã bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp khu phố. Riêng tỉnh Hòa Bình đã bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh trước đây chưa bầu.

Tổng số Hội đồng nhân dân các cấp mới bầu xong là:

5.050 Hội đồng nhân dân xã và thị trấn;

228 Hội đồng nhân dân huyện;

32 Hội đồng nhân dân thị xã;

7 Hội đồng nhân dân khu phố;

1 Hội đồng nhân dân thành phố thuộc tỉnh;

1 Hội đồng nhân dân tỉnh;

2 Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương.

Số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp hiện nay là một con số rất lớn. Ví dụ:

Tỉnh Nam Định đã bầu: 476 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và thành phố; 7.288 đại biểu Hội đồng nhân dân xã và thị trấn.

Tỉnh Vĩnh Phúc đã bầu: 372 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và thị xã; 4.755 đại biểu Hội đồng nhân dân xã.

Thành phố Hà Nội đã bầu: 135 đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố; 391 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và khu phố; 2.999 đại biểu Hội đồng nhân dân xã và thị trấn.

Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người thuộc các tầng lớp nhân dân lao động, đại diện cho lực lượng sản xuất mới, cho mọi mặt hoạt động của địa phương. Tùy theo đặc điểm của từng địa phương, thành phần Hội đồng nhân dân gồm có công nhân, nông dân, cán bộ kỹ thuật, cán bộ các ngành hoạt động văn hóa và xã hội, anh hùng lao động và chiến sĩ thi đua, đại biểu các dân tộc thiểu số, cán bộ miền Nam tập kết, đại biểu đồng bào theo phật giáo và thiên chúa giáo, kiều bào mới về nước, v.v., thành phần các Hội đồng nhân dân nói chung phản ánh được chính sách Mặt trận Dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông làm cơ sở và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhưng cũng có một số Hội đồng nhân dân có ít, thậm chí không có đại biểu phụ nữ. Nói chung, các Hội đồng nhân dân đã được tăng cường về số lượng và chất lượng, có thể phát huy được vai trò và tác dụng của nó.

Qua các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp vừa rồi, ý thức làm chủ của nhân dân ta đã được nâng cao thêm một bước, nhận thức của nhân dân về chức năng của chính quyền được rõ hơn.

Với việc bầu cử Hội đồng nhân dân huyện, chúng ta có một hệ thống tổ chức chính quyền hoàn chỉnh, có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính ở tất cả các đơn vị hành chính theo đúng Hiến pháp đã quy định.

Hệ thống đó đã góp phần tăng cường mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân địa phương. Nó đã có tác dụng nhất định trong việc động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn mới.

Nhưng tác động của Hội đồng nhân dân ở mỗi địa phương được phát huy nhiều hay ít là tùy theo nhận thức của địa phương về vai trò của Hội đồng nhân dân và sự cố gắng của địa phương để cải tiến công tác của Hội đồng nhân dân.

Số đông Hội đồng nhân dân các cấp họp đều theo đúng quy định. Nhiều Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài hai kỳ họp thường lệ hàng năm, còn họp phiên bất thường mỗi khi tình hình địa phương đòi hỏi. Trái lại, cũng có một số Hội đồng nhân dân tỉnh hoặc xã sinh hoạt không đều hoặc sinh hoạt chiếu lệ.

Hội nghị Hội đồng nhân dân thường bàn về kế hoạch và ngân sách của địa phương, về những vấn đề phát triển sản xuất, phát triển văn hóa, về vấn đề hợp tác hóa và về những công tác đột xuất trong từng thời gian.

Trong các cuộc họp của Hội đồng nhân dân, nhiều Uỷ ban hành chính đã nghiêm chỉnh báo cáo công tác đã làm và công tác dự kiến, các đại biểu thảo luận sôi nổi, góp nhiều ý kiến một cách thiết thực. Uỷ ban hành chính cùng các ngành chuyên môn đã căn cứ vào những ý kiến đó mà chỉnh lý các đề án và cải tiến công tác.

Trái lại, nhiều địa phương vẫn coi nhẹ Hội đồng nhân dân, chưa thật tin tưởng vào tác dụng của Hội dông nhân dân, cho nên chưa có những cố gắng cần thiết để cải tiến công tác và đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng nhân dân. Những thiếu sót biểu hiện trên nhiều mặt. Ví dụ:

Việc chuẩn bị hội nghị thiếu chu đáo: Báo cáo của Uỷ ban hành chính đọc trước Hội đồng nhân dân không được toàn thể Uỷ ban hành chính thông qua; đại biểu Hội đồng nhân dân đi dự hội nghị không biết phải chuẩn bị gì trước. Lãnh đạo hội nghị thiếu chặt chẽ, hội nghị kéo dài, những ý kiến không tập trung vào vấn đề chủ yếu; việc ghi chép những ý kiến của hội nghị không đầy đủ. Nhiều ủy viên Ủy ban hành chính và phụ trách các ngành chuyên môn không đến dự hội nghị. Một số thủ tục của hội nghị không được tôn trọng v.v..

Nhiều đại biểu Hội đồng nhân dân chưa nhận thức được đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình đối với hội nghị; có đại biểu không đến dự hội nghị lấy lý do là những vấn đề của hội nghị Hội đồng nhân dân đã được bàn kỹ ở Uỷ ban hành chính. Có đại biểu trong Hội đồng nhân dân tỉnh cho rằng mình không đủ khả năng để bổ sung báo cáo và đề án công tác do Uỷ ban hành chính tỉnh đã trình bày. Việc nhận xét, phê phán những sai lầm thiếu sót của Uỷ ban hành chính cũng như việc phản ánh ý kiến, nguyện vọng của cử tri chưa được tiến hành một cách nghiêm túc. Kết quả là việc thông qua báo cáo của Ủy ban hành chính và dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân hầu như chỉ có tính chất hình thức. Có nhiều địa phương, hội nghị Hội đồng nhân dân xã đã biến thành hội nghị quân, dân, chính với mục đích chủ yếu là phổ biến các nhiệm vụ công tác, nên đã mất tính chất hội nghị của một cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Hoạt động của Hội đồng nhân dân thường đóng khung vào các kỳ họp. Giữa hai kỳ họp, quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri còn lỏng lẻo. Những địa phương có chú ý đến vấn đề thì cũng chỉ mới tổ chức được cho một số đại biểu Hội đồng nhân dân báo cáo tinh thần và kết quả của Hội nghị Hội đồng nhân dân với cử tri. Còn về việc tìm hiểu ý kiến và nguyện vọng của cử tri cũng như về việc nắm tình hình địa phương để kịp thời nêu vấn đề với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thì số đông các đại biểu chưa thực hiện được.

Tóm lại, ở nhiều địa phương, vai trò của Hội đồng nhân dân chưa được đề cao và công tác của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung chưa được thật tốt.

Để khắc phục tình trạng đó, cần tiến hành một cuộc vận động sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm: Hội đồng nhân dân phải là nơi tập trung “ý chí mạnh mẽ, trí tuệ dồi dào” của nhân dân địa phương, có quyền quyết định những vấn đề thuộc về quốc kế, dân sinh của địa phương, có quyền giám sát, đôn đốc Uỷ ban hành chính cùng cấp trong việc chỉ đạo thực hiện những nghị quyết của mình và của cơ quan nhà nước cấp trên.

Cần tổ chức cho đại biểu Hội đồng nhân dân (kể cả các đại biểu được bầu vào Uỷ ban hành chính) nghiên cứu kỹ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính đã được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật để hiểu rõ ý nghĩa chính trị của những vấn đề này và hiểu rõ mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, giữa đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri.

Sau đó hướng dẫn Hội đồng nhân dân căn cứ vào những nguyên tắc trong các văn bản đó và những kinh nghiệm đã có mà xây dựng nội quy của Hội đồng nhân dân (như một số địa phương đã làm), nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong sinh hoạt của Hội đồng nhân dân các cấp, trong quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, giữa đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri v.v..

Triệt để thi hành nội quy đã xây dựng. Qua các kỳ họp rút kinh nghiệm bổ sung nội quy cho được hoàn chỉnh hơn.

Đồng thời, cần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đại biểu Hội đồng nhân dân. Mỗi đại biểu cần nhận rõ nhiệm vụ của mình đối với cử tri và đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Cần phê phán tư trưởng tự ti, ỷ lại của một số đại biểu, nhất là những đại biểu không thoát ly sản xuất.

Sau hội nghị Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân trong một đơn vị bầu cử cần phân công phụ trách một khu vực nhất định để báo cáo với cử tri về nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên cử tri chấp hành nghị quyết và lắng nghe ý kiến của cử tri trong quá trình thực hiện nghị quyết.

Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp trên cần phân công tham dự hội nghị Hội đồng nhân dân cấp dưới.

Đẩy mạnh thường xuyên giáo dục cho nhân dân về nhiệm vụ của họ đối với Hội đồng nhân dân. Trước các kỳ họp của Hội đồng nhân dân cần phát huy tinh thần làm chủ Nhà nước của nhân dân, cụ thể là khuyến khích nhân dân liên hệ với đại biểu của mình để góp ý kiến về những công việc của địa phương mình.

Cần tổng kết kinh nghiệm hoạt động của Hội đông nhân dân và xây dựng từng bước kế hoạch công tác của Hội đồng nhân dân.

Cần nghiên cứu gấp để trình Quốc hội trong kỳ họp tới dự thảo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp, nhằm quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính từng cấp, để thay thế cho Luật tổ chức chính quyền địa phương số 110 ngày 31-5-1958 có nhiều điểm không phù hợp với Hiến pháp mới và yêu cầu của tình hình hiện nay nữa.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội đề nghị các đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, các vị đại biểu Quốc hội quan tâm hơn nữa đến hoạt động của Hội đồng nhân dân địa phương; một mặt, trực tiếp góp ý kiến với Hội đồng nhân dân địa phương, mặt khác giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội nắm được tình hình và tổng kết kinh nghiệm hoạt động của Hội đồng nhân dân để đưa dần sinh hoạt của các Hội đồng nhân dân vào nền nếp.

Kết quả của cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân vừa qua với những số liệu báo cáo ở trên cho ta thấy các đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương là một lực lượng rất lớn về số lượng cũng như về chất lượng. Bồi dưỡng và sử dụng thích đáng năng lực của tất cả các đại biểu, không bỏ sót người nào, thì Hội đồng nhân dân nhất định sẽ “đại diện cho ý chí mạnh mẽ và trí tuệ dồi dào của nhân dân, có đầy đủ điều kiện để đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà đến thành công rực rỡ” như Đại hội Đảng lần thứ III đã chỉ rõ.

5. Về việc giải quyết những thư từ của nhân dân

Trong thời gian vừa qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nhận được trên 200 bức thư của nhân dân và đã 23 lần trực tiếp với những người đến đưa đơn hoặc bày tỏ nguyện vọng. Tất cả các việc do nhân dân nêu lên đều được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh. Có những việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội trực tiếp bàn bạc với cơ quan có liên quan để giải quyết. Có những việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao cho các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương hoặc giao cho Ủy ban hành chính khu tự trị, thành phố, tỉnh giải quyết rồi báo cáo lại.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhận thấy cần lưu ý các cơ quan nhà nước các cấp phải quan tâm hơn nữa đến việc giải quyết đúng đắn và kịp thời những thư từ của nhân dân gửi đến cho mình.

Việc nghiên cứu nghiêm chỉnh và giải quyết kịp thời và đúng đắn những nguyện vọng chính đáng của nhân dân nêu ra trong các thư từ của nhân dân là biểu thị tinh thần phụ trách của các cơ quan nhà nước đối với nhân dân, là thiết thực phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, thiết thực giải quyết những khó khăn trở ngại trong đời sống của nhân dân, do đó mà làm cho nhân dân thấy rõ Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.

Việc nghiên cứu và giải quyết các thư từ của nhân dân còn có tác dụng giúp cho chính quyền nắm được sát và đúng tình hình chấp hành chính sách của Nhà nước, ảnh hưởng của các chính sách đó đối với đời sống của nhân dân, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, sai lầm của cán bộ và của cơ quan nhà nước, kịp thời bổ sung các chính sách.

Việc nhân dân gửi thư hoặc trực tiếp đến cơ quan nhà nước để khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, đề nghị biểu thị lòng tin cậy của nhân dân đối với chính quyền của mình, đồng thời đó cũng là một trong những hình thức tích cực của nhân dân tham gia việc quản lý nhà nước.

Riêng đối với sự khiếu tố của người dân, kinh nghiệm mấy năm nay cho ta thấy rằng phần lớn những thư khiếu tố của nhân dân gửi đến cơ quan nhà nước đều đúng sự thật; cũng có một số phản ánh đúng về hiện tượng, nhưng sai về nhận xét bản chất của vấn đề. Cá biệt cũng có những bức thư nêu vấn đề không đúng sự thật và người gửi không có động cơ tốt.

Cơ quan nhà nước chúng ta nhất thiết phải hết sức quan tâm đến việc giải quyết đúng đắn và kịp thời những thư khiếu tố của nhân dân. Đó là trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân. Điều 29 của Hiến pháp đã ghi rõ: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước. Những khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng, người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”.

Từ trước đến nay, chúng ta đã cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ này. Chính phủ đã có nhiều thông tư, chỉ thị hướng dẫn các ngành, các cấp. Đặc biệt quan trọng là Thông tư số 436-TTg, ngày 13-9-1958, “quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chính quyền trong việc giải quyết các loại thư khiếu nại, tố giác ”.

Thi hành Thông tư này, các cấp chính quyền đã tăng cường tổ chức phụ trách giải quyết các thư khiếu tố của nhân dân. Ở Trung ương, công tác xét khiếu tố của Ủy ban Thanh tra Trung ương được tăng cường. Ở các Bộ đã lần lượt thành lập Ban thanh tra của Bộ; các Ban thanh tra chịu trách nhiệm với Bộ trưởng về việc xét và giải quyết các thư khiếu tố. Ở các địa phương, các Ban thanh tra đã được giao nhiệm vụ cụ thể phải giúp Uỷ ban hành chính trong việc xét và giải quyết các thư khiếu tố. Ở các cấp chính quyền nào không có Ban thanh tra và ở các cơ quan doanh nghiệp của Nhà nước thì một ủy viên của Uỷ ban hành chính hoặc thủ trưởng cơ quan chịu trách nhiệm về việc xét và giải quyết các khiếu tố.

Từ khi ngành kiểm sát nhân dân được thành lập, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng xem việc xét và giải quyết các thư khiếu tố của nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng của ngành. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như ở Viện kiểm sát nhân dân địa phương đều tổ chức việc tiếp xúc với nhân dân, tiếp nhận, nghiên cứu và giải quyết những khiếu tố của nhân dân.

Nhờ những cố gắng đó mà công tác xét và giải quyết các khiếu tố có nhiều tiến bộ. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban Thanh tra Trung ương, một số Bộ và một số địa phương đã giải quyết được nhiều vụ khiếu tố, trong đó có những vụ thật khó khăn, phức tạp, đem lại nhiều phấn khởi và tin tưởng cho quần chúng.

Song những tiến bộ trên đây chưa biểu hiện đều ở các ngành các cấp, chưa phổ cập đến các huyện và xã, nhất là chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.

Thực tế cho chúng ta thấy rằng dân chủ càng được mở rộng, ý thức làm chủ của nhân dân càng được nâng cao thì việc nhân dân trực tiếp phát biểu ý kiến với cơ quan nhà nước càng nhiều và chất lượng càng tốt.

Thế nhưng nhiều nơi ở Trung ương cũng như ở địa phương còn xem thường việc xét và giải quyết các khiếu tố của nhân dân, coi đó là một việc phụ, lúc nào rảnh thì làm, làm cũng tốt, không làm cũng không sao; vì vậy có tình trạng những thư khiếu tố của nhân dân gửi đến để đọng tháng này qua tháng khác, thậm chí năm này sang năm khác, mặc dù người khiếu tố nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. Thậm chí có cơ quan, những địa phương không quan tâm đến việc giải quyết và trả lời những khiếu tố của nhân dân do Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Uỷ ban Thanh tra Trung ương gửi đến yêu cầu giải quyết.

Hiện nay, nhiều thư khiếu tố của nhân dân không được xem xét một cách cẩn thận; nhiều vấn đề thuộc quyền lợi chính đáng của nhân dân nêu trong thư không được giải quyết thỏa đáng. Cá biệt còn có những trường hợp người bị khiếu tố bị làm khó dễ. Tình trạng đó cần được khắc phục vì nó trái ngược với tính chất dân chủ thật sự của chế độ ta.

Về vấn đề này, các vị đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cần tạo cơ hội tiếp xúc với nhân dân và cố gắng góp phần làm cho những khiếu nại, tố cáo, yêu cầu và đề nghị của nhân dân được giải quyết kịp thời và đúng đắn.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là mấy vấn đề về công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà chúng tôi thấy cần báo cáo trước Quốc hội trong kỳ họp này. Những vấn đề đó có quan hệ đến việc mở rộng và phát huy dân chủ, kiện toàn Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta. Chúng tôi mong rằng những vấn đề đó được sự chú ý đúng mức của Quốc hội, của Chính phủ và của toàn thể nhân dân ta. Được như thế thì trong thời gian tới công tác nhà nước của chúng ta sẽ thu được nhiều tiến bộ lớn hơn nữa.

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.


1. Tây Béclin (BT).

 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang