VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

   

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ TỔNG QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1960
(Do ông Hoàng Anh, Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày
tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá II, ngày 24-10-1961)

 

Thưa các vị đại biểu,

Tôi xin thay mặt Chính phủ báo cáo trước Quốc hội quyết toán ngân sách năm 1960.

Trong kỳ họp Quốc hội tháng 4 năm 1961 Chính phủ đã báo cáo những nét chính về tình hình chấp hành ngân sách nhà nước năm 1960.

Đến nay, các Bộ, các ngành và các địa phương đã làm xong quyết toán.

Dưới đây chúng tôi xin báo cáo bản quyết toán chính thức của Nhà nước năm 1960.

Về thu: kế hoạch đầu năm 1.445.806.000đ; quyết toán 1.480.232.495đ46 bằng 102,3% kế hoạch, so với năm 1959 bằng 122,1%.

Về chi: kế hoạch đầu năm 1.445.806.000đ; quyết toán 1.470.919.721đ09 bằng 101,7% kế hoạch, so với năm 1959 bằng 129,2%.

Số thu nhiều hơn chi 9.312.774đ37 thuộc kết dư của ngân sách địa phương.

So sánh số liệu quyết toán chính thức với số ước tính trước đây có sự thay đổi như sau:

THU: Quyết toán là:            1.480.232.495đ46

Tháng 4 ước tính:                1.430.349.700đ00

Tăng:                                         49.882.795đ46

Do tăng thêm:

Về số thu về viện trợ và vay nước ngoài:      32.225.785đ72

Thu trong nước tăng thêm:                           17.657.009đ74

Trong đó:

Thu về thuế tăng:                                        2.196.388đ45

Thu khác tăng:                                          17.312.154đ75

Thu về xí nghiệp sự nghiệp giảm:            1.851.546đ54

Số thu trong nước, quyết toán tăng 17.657.009đ74, một phần là do, qua xác định lại các số liệu, số thu tăng thêm về thuế 2.196.388đ45, so với số liệu tính hồi tháng 4; nhưng chủ yếu là do một số ngành đã động viên được những nguồn vốn ngoài số cấp phát ngân sách để chi dùng: Bộ Quốc phòng 10.692.694đ00; các Bộ Kinh tế 4.133.779đ18; các Bộ Văn hóa xã hội 354.856đ43. Các số tiền này trong lúc làm quyết toán mới tổng hợp được, theo nguyên tắc quản lý tài chính, đều phải ghi vào quyết toán ngân sách năm 1960. Số tiền ghi thu về Bộ Quốc phòng là do thu lại của các xí nghiệp quốc phòng quản lý theo chế độ hạch toán kinh tế, thu về vận chuyển hàng hóa cho các cơ quan khác, thu về các hoạt động của bộ đội tham gia sản xuất làm đường, thu về bán tài sản cũ v.v.; số tiền ghi về các Bộ khác là do thu hồi các khoản chi của những năm trước.

Số thu về viện trợ và vay ngoài nước tăng 32.225.785đ72 là do tăng về số tiền ngân sách nhà nước tạm sử dụng vào tiền hàng nhập siêu năm 1960, chưa phải thanh toán cho các nước bạn.

CHI: Quyết toán là:                                    1.470.919.721đ09

Tháng 4 ước tính:                                       1.423.770.300đ00

Tăng:                                                         47.149.421đ09

Số chi về kiến thiết kinh tế tăng:            35.412.132đ10

Số chi về văn xã tăng:                               1.821.953đ75

Số chi về quốc phòng, hành chính và chi khác tăng: 9.915.335đ24

Phần lớn số chi tăng trên đây là vốn kiến thiết cơ bản: 32.999.749đ94. Số tiền này đã cấp ra trong năm 1960 và phải quyết toán vào số chi kiến thiết cơ bản của ngân sách năm 1960. Nhưng một số khá lớn không sử dụng hết, đã chuyển sang năm 1961.

PHẦN THU

Tổng số thu năm 1960 đã quyết toán là: 1.480.232.495đ46. Phần thu trong nước (không thể kết dư) là: 1.185.939.496đ66 bằng 106,1% dự trù đầu năm, chiếm tỷ trọng 80,1% tổng số thu ngân sách. Phần thu về viện trợ và vay quyết toán là: 249.458.485đ72 bằng 87% dự trù đầu năm, chiếm tỷ trọng 16,85% tổng số thu ngân sách.

Thu trong nước:

Như Chính phủ đã báo cáo trước Quốc hội, vụ đông xuân năm 1960 thất bát đã làm giảm số thu trong nước không ít, nhưng nhờ nhiều khoản thu về xí nghiệp tăng lên, nên số thu trong nước vượt dự trù 6,1%.

Thu
trong nước

Số dự toán

Số thực hiện

Tỷ lệ

So với
dự toán

So với năm 1959

Tổng số

Thu XN và SN

Thu về thuế

Thu nhập khác

1.117.445.000đ

733.872.000

362.618.000

20.955.000

1.185.939.496đ66

802.424.353đ46

349.904.588đ45

33.610.554đ75

106,1%

109,3

96,4

160,3

119,6%

129,1

102,7

116,7

Thu xí nghiệp và sự nghiệp. Thực hiện vượt dự toán 9,3%, so với năm 1959 tăng 29,1%.

Số thu về sự nghiệp và xí nghiệp vượt dự trù là nhờ sản lượng của nhiều ngành thực hiện vượt mức kế hoạch đầu năm; về mặt phấn đấu hạ giá thành, hạ phí lưu thông cũng có nhiều tiến bộ. Công tác quản lý năm 1960 có nhiều tiến bộ hơn trước. Phong trào thi đua hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật trong nhiều xí nghiệp đã thu được kết quả tốt - nâng cao được công suất thiết bị, tiết kiệm được nguyên liệu, tiết kiệm được nhân lực, hạ được giá thành và tăng thêm nhiều tích lũy cho nhà nước.

Tuy nhiên, còn nhiều khả năng chưa được khai thác.

Về sản xuất có nhiều Bộ hoàn thành được vượt mức kế hoạch sản lượng nhưng phẩm chất sản phẩm kém chưa bảo đảm kế hoạch mặt hàng nhà nước giao; tỷ lệ than cám ở các mỏ than còn cao; sản phẩm đúc ngành cơ khí có lúc hư hỏng trên 30%; nhà máy dệt Nam Định, sản lượng chung vượt kế hoạch, nhưng chăn hụt mức 5,36%, lụa hụt 2,27% v.v..

Trong ngành giao thông, thời gian máy móc bị hư hỏng phải ngừng sản xuất còn nhiều: ngành vận tải ô tô, tính trung bình mỗi xe chỉ chạy 4 giờ một ngày, ngành vận tải đường sông cả năm chỉ hoạt động trung bình được năm tháng.

Chung trong các ngành kinh tế, việc quản lý nhân lực chưa tốt. Việc làm thêm ca kíp trong các xí nghiệp sản xuất là một hiện tượng phổ biến, trong khi tổng số ngày công vắng mặt tăng lên nhiều.

Bộ Công nghiệp nhẹ đã tăng thêm ca kíp bằng 20% tổng số ngày công làm việc thực tế, trong khi đó tổng số ngày công vắng mặt bằng 11,03% số ngày công theo chế độ. Bộ Công nghiệp nặng 75% tổng số tăng về sản lượng là do làm thêm ca kíp trong khi đó thì tổng số ngày công vắng mặt bằng 15,5% tổng số ngày công theo chế độ.

Chi về quản lý hành chính trong các ngành sản xuất nhiều nơi còn quá cao. Bộ Công nghiệp nặng vượt 8,2% so với kế hoạch. Có ngành như Điện lực đã vượt đến 25,9%.

Thu về thuế:

Số thu về thuế quyết toán là 349.904.588đ45 bằng 96,4% kế hoạch và so với năm 1959 tăng 2,7%. Thuế thu hụt so với kế hoạch chủ yếu là do ảnh hưởng của vụ đông xuân thất bát; thuế doanh nghiệp chỉ đạt 97,1% kế hoạch, thuế lợi tức doanh nghiệp 98,3%, thuế sát sinh 94,5%, thuế nông nghiệp 97,7% và thuế rượu 57,7% kế hoạch.

Thu về viện trợ và vay:

Số thu ngoài nước đã quyết toán là 249.458.485đ72 bằng 87% so với dự toán, trong đó phần viện trợ và vay thực hiện là 81,9% chủ yếu là do thiết bị không nhập được, kế hoạch là 228.396.000đ thu được là 187.185.074đ89, phần sử dụng nhập siêu kế hoạch là 58.000.000đ20 thực hiện là 62.273.410đ83 bằng 107,3%; số sử dụng nhập siêu này sang năm 1961, sẽ thanh toán vào tiền vay.

PHẦN CHI

Tổng số chi năm 1960 quyết toán là 1.470.919.721đ09 bằng 101,7% kế hoạch so với năm 1959 tăng 29,2%.

Loại chi

Số dự toán

Số thực chi

Tỷ lệ thực chi so với dự toán

60/59

Tổng số

Chi về kiến thiết KT

Chi về VHGD xã hội

Chi về quốc phòng và quản lý hành chính

Chi về trả nợ

Chi phí khác

Tổng dự bị phí

1.445.806.000đ

830.905.000

161.055.000

354.145.000

 

20.409.000

54.331.000

24.961.000

1.470.919.721đ09

902.674.235đ10

160.807.353đ75

337.379.769đ42

 

17.547.934đ67

52.510.428đ15

101,7%

108,6

99,8

95,3

 

85,9

96,6

129,2%

132,9

135,8

115,6

 

436,6

116,8

Trừ loại chi về kiến thiết kinh tế vượt dự toán đầu năm, các loại chi khác đều thực hiện dưới kế hoạch.

Chi về kiến thiết kinh tế: vượt 8,6%, tăng hơn năm 1959,32,9% và chiếm tỷ trọng 61,37%, cao hơn tỷ trọng trong dự toán ngân sách (57,5%), cao hơn tỷ trọng dành cho kiến thiết kinh tế năm 1959 (59,4%).

Sở dĩ chi về kiến thiết kinh tế vượt kế hoạch nhiều là do ngân sách phải chi thêm để thỏa mãn nhiều yêu cầu mới; giúp đỡ nông dân vượt qua những khó khăn trong sản xuất và đời sống, tăng thêm vốn cho ngân hàng mở rộng cho vay và thương nghiệp mở rộng ứng trước thu mua, bán chịu phân bón, cấp thêm vốn lưu động cho xí nghiệp để dự trữ vật tư nhập ngoài kế hoạch, tăng thêm vốn dự trữ vật tư của Nhà nước, cấp thêm kinh phí cho các địa phương làm thủy lợi…

Trong tổng số chi về kiến thiết kinh tế, số chi về công nghiệp vượt 11,9%, thủy lợi vượt 19%, ngân hàng vượt 33,1%, dự trữ nhà nước vượt 17,3%.

Chi về văn xã: bằng 99,8% kế hoạch, tăng 35,8% so với năm 1959 và chiếm tỷ trọng 10,9% trong ngân sách mặc dầu chưa đạt kế hoạch phân chi về sự nghiệp văn xã đã tăng với tốc độ khá nhanh:

Ngân sách trung ương so với năm 1959:

Chi về sự nghiệp văn hóa tăng 78%

Chi về sự nghiệp giáo dục tăng 82%

Chi về sự nghiệp y tế tăng 25%

Nghiên cứu khoa học 31%

Chi về hành chính và quốc phòng bằng 95,3% dự toán.

Trong tổng số chi ngân sách năm 1960, chi về kiến thiết cơ bản là 798tr203, chiếm tỷ trọng 54,26% tổng số chi của Nhà nước so với kế hoạch bằng 102,1%, so với năm 1959 tăng 38,1%. Cấp phát vượt mức kế hoạch một phần do phải tăng thêm tiền chuẩn bị cho năm sau, trả tiền thiết kế và thiết bị ngoài nước nhập ngoài kế hoạch, một phần quan trọng là cấp phát kiến thiết cơ bản chưa được chặt chẽ.

Qua quyết toán ngân sách năm 1960, 72,2% vốn ngân sách đã được tập trung vào sự nghiệp kiến thiết kinh tế và phát triển văn hóa.

Tỷ trọng ấy rất là lớn, năm 1959 chỉ tập trung có 70,1% vốn ngân sách vào sự nghiệp kinh tế và văn hóa xã hội. Những nhu cầu vốn cần thiết của kế hoạch nhà nước cũng như những nhu cầu vốn đột xuất phục vụ cho sản xuất đông xuân cuối 1960, đều được bảo đảm.

Nhìn chung ngân sách năm 1960 từ đầu rất khẩn trương. Trong quá trình chấp hành do vụ đông xuân thất bát, số thu bị hụt nhiều, ngân sách lại phải chi thêm để thỏa mãn nhiều yêu cầu mới, nhưng đến cuối năm nhờ sự nỗ lực của nhân dân, cán bộ và công nhân viên ra sức hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước nên kế hoạch thu chi căn bản giữ được thăng bằng.

Quyết toán ngân sách năm 1960 chứng tỏ khả năng của nền kinh tế chúng ta rất lớn, và phương hướng phân phối và sử dụng vốn của Nhà nước là đúng. Nhưng tỷ trọng năm 1960 lúc làm dự trù ngân sách chưa đánh giá được đầy đủ những khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, công tác quản lý kinh tế, quản lý tài chính còn thiếu chặt chẽ, nên chưa khai thác được đầy đủ những yếu tố tích cực để tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách. Việc thẩm tra và phân tích các báo cáo quyết toán đã xác minh những nhận định trong báo cáo của Chính phủ và trong nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước năm 1960 trong kỳ họp tháng 4 năm 1961 là hoàn toàn chính xác.

Chúng tôi xin trân trọng đề nghị Quốc hội xét và phê chuẩn bản quyết toán ngân sách nhà nước năm 1960 đính kèm.

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.

 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang