PHÁP LỆNH
VỀ VIỆC BẦU CỬ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP NĂM 1961
Căn cứ vào Hiến
pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
Để nhân dân sử dụng
quyền làm chủ nước nhà và xây dựng cơ quan quyền lực nhà nước của mình ở địa
phương;
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp như sau:
CHƯƠNG I
NGUYÊN TẮC
CHUNG
Điều 1.
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành theo nguyên tắc phổ
thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Điều 2.
Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phân biệt dân tộc, nòi giống,
nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình
độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền
bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp.
Điều 3.
Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp theo Điều 2 của Pháp lệnh này.
Điều 4.
Những người bị tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử, ứng cử và những
người mất trí không có quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp.
Điều 5.
Kinh phí về tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do ngân sách
nhà nước chịu.
CHƯƠNG II
DANH SÁCH CỬ
TRI
Điều 6.
Lúc lập danh sách cử tri, những công dân có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp đều được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi cư trú.
Mỗi cử tri chỉ được
ghi tên vào một danh sách cử tri.
Điều 7.
Danh sách cử tri do các Uỷ ban hành chính thị xã, thị trấn, khu phố, xã lập
theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri ở
các đơn vị quân đội và công an nhân dân vũ trang do các ban chỉ huy đơn vị
quân đội và công an nhân dân vũ trang lập cho mỗi khu vực bỏ phiếu.
Điều 8.
Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử phải niêm yết danh sách cử tri tại
trụ sở các Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã hoặc ở những nơi
công cộng của khu vực bỏ phiếu. Đồng thời phải thông báo cho nhân dân biết
việc niêm yết đó để nhân dân tham gia kiểm tra danh sách.
Điều 9.
Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm, thiếu sót thì trong thời
hạn 20 ngày kể từ ngày niêm yết, nhân dân có quyền khiếu nại hoặc báo cáo
bằng giấy hay là bằng miệng với cơ quan lập danh sách. Cơ quan lập danh sách
cử tri phải ghi vào một quyển sổ những điều khiếu nại và báo cáo. Trong thời
hạn ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại và báo cáo cơ quan lập danh sách
phải giải quyết.
Nếu người khiếu nại
hoặc báo cáo chưa đồng ý về cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên
tòa án nhân dân huyện, châu, thị xã, khu phố hoặc thành phố. Trong thời hạn
ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, các tòa án nhân dân nói trên phải
giải quyết; quyết định của tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng.
Điều 10.
Từ khi công bố danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào đổi nơi
cư trú thì có quyền xin giấy chứng nhận của Uỷ ban hành chính nơi cư trú để
được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu nơi cư trú mới. Khi
cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban hành chính phải ghi ngay vào danh sách cử tri
bên cạnh tên người cử tri đó: “ đi bỏ phiếu nơi khác”.
CHƯƠNG III
SỐ ĐẠI BIỂU HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 11.
Nay quy định số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp như sau:
1. Hội đồng nhân dân thị
trấn và xã
Thị trấn và xã miền
xuôi có từ 2.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 20 đại biểu; có trên 2.000 nhân
khẩu thì ngoài số 20 đại biểu tính cho 2.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 200
nhân khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 35
đại biểu.
Thị trấn và xã miền
núi và hải đảo có từ 700 nhân khẩu trở xuống bầu cử 20 đại biểu, có trên 700
nhân khẩu, thì ngoài số 20 đại biểu tính cho 700 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm
150 đến 200 nhân khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không
được quá 35 đại biểu.
Các thị trấn và xã
miền xuôi và miền núi có trên 6.000 nhân khẩu thì có thể bầu tới 40 đại
biểu, nhưng số đại biểu thị trấn và xã không được nhiều hơn số đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp trên trực tiếp.
Các xã dưới 300
nhân khẩu có thể bầu dưới 20 đại biểu.
2. Hội đồng nhân dân khu
phố
Khu phố có từ
20.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 30 đại biểu; có trên 20.000 nhân khẩu, thì
ngoài số 30 đại biểu tính cho 20.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 2.500 nhân
khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại
biểu.
3. Hội đồng nhân dân thị
xã
Thị xã có từ 10.000
nhân khẩu trở xuống bầu cử 30 đại biểu; có trên 10.000 nhân khẩu, thì ngoài
số 30 đại biểu tính cho 10.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 1.500 nhân khẩu
thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu.
4. Hội đồng nhân dân
huyện và châu
Huyện miền xuôi có
từ 50.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 35 đại biểu; có trên 50.000 nhân khẩu,
thì ngoài số 35 đại biểu tính cho 50.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 4.000
nhân khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số nói chung không được
quá 50 đại biểu.
Châu và huyện miền
núi và hải đảo có từ 10.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 30 đại biểu; có trên
10.000 nhân khẩu, thì ngoài số 30 đại biểu tính cho 10.000 nhân khẩu đầu
tiên, cứ thêm từ 1.500 đến 2.000 nhân khẩu thì được bầu thêm một đại biểu,
nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu.
5. Hội đồng nhân dân tỉnh
Tỉnh miền xuôi có
từ 250.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 50 đại biểu; có trên 250.000 nhân
khẩu, thì ngoài số 50 đại biểu tính cho 250.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm
20.000 nhân khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được
quá 120 đại biểu.
Tỉnh miền núi có từ
80.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 50 đại biểu; có trên 80.000 nhân khẩu, thì
ngoài số 50 đại biểu tính cho 80.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 10.000 nhân
khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 120 đại
biểu.
6. Hội đồng nhân dân
thành phố
Thành phố có từ
60.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 50 đại biểu; có trên 60.000 nhân khẩu, thì
ngoài số 50 đại biểu tính cho 60.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 10.000 nhân
khẩu thì được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 140 đại
biểu.
7. Hội đồng nhân dân khu
tự trị
Khu tự trị tùy theo
tình hình dân số và dân tộc ở từng nơi cứ từ 2.000 đến 10.000 nhân khẩu thì
bầu cử một đại biểu nhưng tổng số không được quá 150 đại biểu.
8. Hội đồng nhân dân khu
Hồng Quảng và khu vực Vĩnh Linh
Số đại biểu Hội
đồng nhân dân khu Hồng Quảng quy định như đối với các thành phố.
Số đại biểu Hội
đồng nhân dân khu vực Vĩnh Linh quy định như đối với các tỉnh miền xuôi.
Điều 12.
Đối với các địa phương có nhiều dân tộc thiểu số sống xen kẽ, có các khu vực
công nghiệp tập trung hoặc nông trường, để cho các dân tộc thiểu số và công
nhân có số đại biểu thích đáng trong Hội đồng nhân dân, Chính phủ có thể
châm trước các tỷ lệ nói trên trong phạm vi mức tối đa đã quy định.
CHƯƠNG IV
ĐƠN VỊ BẦU CỬ
VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 13.
Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bầu theo đơn vị bầu cử.
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân xã là thôn hay là liên xóm.
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân thị trấn là đường phố hay là liên xóm.
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân thị xã là liên tiểu khu hay là liên xã (nếu có xã
ngoại thị).
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân khu phố là tiểu khu hay là liên tiểu khu.
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân huyện, châu là xã hay là liên xã và thị trấn.
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân tỉnh là huyện, thị xã và thành phố (nếu có thành phố
thuộc tỉnh).
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân thành phố là khu phố ở nội thành và huyện ở ngoại
thành.
Đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị là huyện hoặc liên huyện, châu và thị xã.
Trong các đơn vị
nói trên đơn vị nào được bầu từ 10 đại biểu trở lên thì có thể chia thành
hai đơn vị bầu cử hoặc nhiều hơn.
Điều 14.
Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc
trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương, danh sách các đơn vị và số đại
biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban hành chính khu tự trị, thành phố trực thuộc
trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương đề nghị, Chính phủ duyệt y.
Số đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh trực thuộc, khu tự trị, huyện, châu, thành
phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, thị trấn, xã, danh sách các đơn vị và số
đại biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban hành chính cùng cấp đề nghị, Uỷ ban hành
chính cấp trên trực tiếp duyệt y.
Điều 15.
Các đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào phải được Uỷ ban hành
chính cấp ấy công bố chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử.
Điều 16.
Để nhân dân đi bỏ phiếu được thuận tiện, mỗi đơn vị bầu cử có thể chia thành
nhiều khu vực bỏ phiếu, mỗi khu vực bao gồm từ 500 đến 2.500 nhân khẩu.
Đặc biệt ở những
nơi như miền núi, hải đảo v.v… có những thôn xóm cách xa nhau thì dù số nhân
khẩu chưa tới 500 người, cũng có thể lập một khu vực bỏ phiếu.
Các bệnh viện, nhà
đỡ đẻ, nhà an dưỡng, nhà nuôi người tàn tật có từ 50 cử tri trở lên, thì có
thể tổ chức thành khu vực bỏ phiếu riêng.
Điều 17.
Việc chia khu vực bỏ phiếu do các Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị
trấn, xã định và phải được Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Điều 18.
Các đơn vị quân đội và công an nhân dân vũ trang sẽ tổ chức thành khu vực bỏ
phiếu riêng.
CHƯƠNG V
HỘI ĐỒNG BẦU
CỬ, BAN BẦU CỬ, TỔ BẦU CỬ,
HỘI ĐỒNG GIÁM SÁT VIỆC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THỊ TRẤN VÀ XÃ
Điều 19.
Những tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp gồm có:
Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử.
Riêng đối với việc
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã thì ngoài những tổ chức nói
trên, ở cấp huyện, châu, thành phố thuộc tỉnh, thị xã có thể thành lập Hội
đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã để giúp
đỡ và hướng dẫn cho cuộc bầu cử ở thị trấn và xã tiến hành được tốt.
Điều 20.
Hội đồng bầu cử.
Chậm nhất là 40
ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào, thì Uỷ ban hành
chính cấp ấy thành lập một Hội đồng bầu cử gồm đại biểu các chính đảng và
các đoàn thể trong địa phương để:
a) Kiểm tra và đôn
đốc việc thi hành luật lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong địa
phương;
b) Xét và giải
quyết những khiếu nại của nhân dân về công tác của các Ban bầu cử và Tổ bầu
cử.
c) Tiếp nhận đơn
ứng cử, lập và niêm yết danh sách những người ứng cử, xét và giải quyết
những khiếu nại về việc lập danh sách người ứng cử;
d) Tiếp nhận phiếu
bầu cử của Uỷ ban hành chính cùng cấp để phân phối cho các Ban bầu cử, chậm
nhất là 10 ngày trước ngày bầu cử;
đ) Tiếp nhận và
kiểm tra biên bản bầu cử do các Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả
cuộc bầu cử trong địa phương;
e) Tuyên bố kết quả
cuộc bầu cử;
g) Chuyển giao Uỷ
ban hành chính cùng cấp biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ tài liệu về
cuộc bầu cử.
Hội đồng bầu cử gồm
từ 7 đến 21 người. Hội đồng bầu ra một chủ tịch, một hoặc nhiều phó chủ tịch
và một hoặc nhiều thư ký.
Danh sách Hội đồng
bầu cử cấp khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc
trung ương phải được Chính phủ phê chuẩn.
Danh sách Hội đồng
bầu cử các cấp khác phải được Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp phê
chuẩn.
Điều 21.
Ban bầu cử
Chậm nhất là 30
ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào, thì Uỷ ban hành
chính cấp ấy thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử gồm đại biểu các
chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong địa phương để:
a) Kiểm tra và đôn
đốc các Tổ bầu cử chấp hành đúng luật lệ bầu cử;
b) Kiểm tra việc
lập và niêm yết danh sách cử tri;
c) Tiếp nhận phiếu
bầu cử của Hội đồng bầu cử để phân phối cho các Tổ bầu cử chậm nhất là 7
ngày trước ngày bầu cử;
d) Kiểm tra và đôn
đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu;
đ) Kiểm tra công
việc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu;
e) Tiếp nhận và
kiểm tra biên bản kiểm phiếu do các Tổ bầu cử gửi đến làm biên bản ghi kết
quả bầu cử trong đơn vị để gửi lên Hội đồng bầu cử.
Ban bầu cử gồm từ 5
đến 15 người. Ban bầu cử bầu ra một trưởng ban, một hoặc nhiều phó ban và
một hoặc nhiều thư ký.
Điều 22.
Tổ bầu cử
Chậm nhất là 20
ngày trước ngày bầu cử, các Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã
thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử gồm đại biểu các đoàn thể
nhân dân trong địa phương để:
a) Phụ trách công
tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu;
b) Bố trí phòng bỏ
phiếu và chuẩn bị hòm bỏ phiếu;
c) Phát phiếu bầu
cử có đóng dấu của Tổ bầu cử cho các cử tri;
d) Bảo đảm trật tự
trong phòng bỏ phiếu;
đ) Kiểm phiếu và
làm biên bản kiểm phiếu để gửi lên Ban bầu cử;
e) Chuyển giao biên
bản kiểm phiếu và tất cả những phiếu bầu cho Uỷ ban hành chính thị xã, khu
phố, thị trấn, xã.
Tổ bầu cử gồm từ 5
đến 11 người. Tổ bầu cử bầu ra một tổ trưởng, một tổ phó, một hoặc nhiều thư
ký.
Các đơn vị quân đội
và công an nhân dân vũ trang thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử
gồm từ 5 đến 9 đại biểu quân đội hoặc của công an nhân dân vũ trang, thời
hạn thành lập và nhiệm vụ quyền hạn như trên.
Điều 23.
Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã.
Trước ngày bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã, Uỷ ban hành chính huyện, châu,
thành phố thuộc tỉnh, thị xã có thể thành lập Hội đồng giám sát việc bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã ở huyện, châu, thành phố thuộc
tỉnh hoặc thị xã gồm đại biểu các chính đảng và các đoàn thể nhân dân trong
địa phương để:
a) Hướng dẫn và
kiểm tra việc thi hành luật lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và
xã trong địa phương;
b) Tiếp nhận và
kiểm tra biên bản bầu cử do các Hội đồng bầu cử thị trấn và xã gửi lên;
c) Xét và giải
quyết những khiếu nại về công tác của Hội đồng bầu cử thị trấn và xã.
Hội đồng giám sát
việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã gồm từ 7 đến 15 người.
Hội đồng bầu ra một chủ tịch, một hoặc nhiều phó chủ tịch và một hoặc nhiều
thư ký.
Danh sách Hội đồng
giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã phải được Uỷ
ban hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Điều 24.
Hội đồng bầu
cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử và Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân thị trấn và xã không được vận động bầu cử cho những người ra ứng
cử. Những tổ chức đó hết nhiệm vụ sau khi cuộc bầu cử kết thúc.
CHƯƠNG VI
ỨNG CỬ
Điều 25.
Mỗi khi có cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các chính đảng, các đoàn
thể nhân dân có thể riêng biệt hoặc liên hiệp giới thiệu người ra ứng cử. Cá
nhân có quyền tự ra ứng cử.
Điều 26.
Mỗi người ứng cử chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
Điều 27.
Người ứng cử không được tham gia vào Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử
và Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã.
Điều 28.
Chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử, các chính đảng, các đoàn thể nhân
dân giới thiệu người ra ứng cử phải nộp tại Hội đồng bầu cử:
1. Giấy giới thiệu
người ứng cử;
2. Giấy chứng nhận
người ứng cử có đủ điều kiện ứng cử;
3. Đơn ứng cử của
những người được giới thiệu có ghi tên, tuổi, nghề nghiệp, nguyên quán, địa
chỉ, nơi ra ứng cử.
Chậm nhất là 25
ngày trước ngày bầu cử, cá nhân tự ra ứng cử phải nộp tại Hội đồng bầu cử
đơn ứng cử và giấy chứng nhận có đủ điều kiện ứng cử.
Khi nhận đơn ứng cử
Hội đồng bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Điều 29.
Khi hết hạn nộp đơn ứng cử, Hội đồng bầu cử phải lập danh sách những người
ứng cử theo từng đơn vị bầu cử và công bố danh sách đó ít nhất là 20 ngày
trước ngày bầu cử.
Điều 30.
Kể từ ngày danh sách người ứng cử được công bố, ai thấy trong danh sách có
sai lầm, thiếu sót thì có quyền khiếu nại hoặc báo cáo bằng giấy hay bằng
miệng với Hội đồng bầu cử, Hội đồng bầu cử phải ghi những khiếu nại và báo
cáo ấy vào một quyển sổ. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu
nại và báo cáo, Hội đồng bầu cử phải giải quyết; quyết định của Hội đồng bầu
cử là quyết định cuối cùng.
Điều 31.
Các chính đảng, các đoàn thể nhân dân, cũng như mỗi công dân Việt Nam đều có
quyền, trong phạm vi pháp luật tự do cổ động bằng mít tinh, hội nghị, báo
chí và mọi hình thức khác để giới thiệu người ứng cử.
Người ứng cử có
quyền tự do cổ động cho bản thân mình trong phạm vi pháp luật.
CHƯƠNG VII
TRÌNH TỰ BẦU
CỬ
Mục 1
NGÀY BẦU CỬ
Điều 32.
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải tiến hành trong khoảng
thời gian từ hai tháng trước đến một tháng sau khi Hội đồng nhân dân khóa
trước hết nhiệm kỳ.
Điều 33.
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ và phải được ấn định và
công bố ít nhất là 60 ngày trước khi
bầu cử.
Chính phủ ấn định
ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc
trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương và ấn định thời gian tiến hành bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khác.
Căn cứ vào đó:
- Uỷ ban hành chính
khu tự trị Việt Bắc ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh ở
khu tự trị.
- Uỷ ban hành chính
khu tự trị Thái - Mèo ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân châu,
thị xã, thị trấn, xã ở khu
tự trị.
- Uỷ ban hành chính
thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban hành chính tỉnh ấn định ngày bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, thị
trấn, xã.
Điều 34.
Trường hợp đặc biệt không thể tiến hành bầu cử trong thời gian đã quy định ở
Điều 32 thì Chính phủ phải báo cáo với Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đề nghị
Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét định.
Điều 35.
Trong thời gian 15 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông
báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu và thời gian bỏ phiếu bằng
niêm yết, phát thanh và bằng mọi phương tiện thông thường ở địa phương.
Mục 2
THỂ THỨC BỎ PHIẾU
Điều 36.
Cuộc bỏ phiếu tiến hành từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối. Tùy tình hình địa
phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn
giờ quy định, nhưng không được kéo dài quá 10 giờ đêm.
Điều 37.
Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người bầu thay, không bầu bằng
cách gửi thư.
Mỗi cử tri chỉ có
quyền bỏ một phiếu.
Điều 38.
Cử tri không biết chữ hoặc tàn tật không tự viết phiếu được thì có thể nhờ
người viết hộ nhưng phải tự bỏ phiếu, nếu vì tàn tật mà không tự bỏ phiếu
được thì cử tri có thể nhờ người bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Cử tri ốm đau, già
yếu, tàn tật, không đến phòng bỏ phiếu được thì có thể đề nghị Tổ bầu cử
mang hòm phiếu và phiếu bầu đến tận chỗ ở để bỏ phiếu. Trong trường hợp này
Tổ bầu cử có thể tổ chức hòm phiếu phụ đem đến chỗ ở của cử tri để nhận
phiếu bầu.
Điều 39.
Lúc cử tri viết phiếu không ai được đến gần để xem, kể cả nhân viên Tổ bầu
cử.
Điều 40.
Nếu viết hỏng, cử tri có thể đề nghị Tổ bầu cử đổi cho một phiếu khác.
Điều 41.
Cấm tuyên truyền cổ động cho người ứng cử tại phòng bỏ phiếu.
Điều 42.
Để bảo đảm trật tự cho việc bỏ phiếu, mọi người đều phải tuân theo nội quy
của phòng bỏ phiếu.
Điều 43.
Khi đã hết giờ bỏ phiếu mà còn một số cử tri có mặt ở phòng bỏ phiếu chưa
kịp bỏ phiếu thì cần để cho số cử tri đó bỏ phiếu xong rồi mới tuyên bố kết
thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều 44.
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu phải tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp
bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong
các giấy tờ và hòm phiếu lại rồi báo cáo cho Ban bầu cử biết đồng thời phải
khắc phục khó khăn để tiếp tục cuộc bỏ phiếu.
Điều 45.
Nếu vì lý do đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo
cho Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử xét định.
CHƯƠNG VIII
KẾT
QUẢ BẦU CỬ
Mục 1
KIỂM PHIẾU
Điều 46.
Phiếu bầu phải được đếm và kiểm soát tại phòng bỏ phiếu. Lúc kiểm phiếu, Tổ
bầu cử phải mời hai cử tri không ra ứng cử có mặt tại đó để chứng kiến.
Người ứng cử hoặc
người được ủy nhiệm thay mặt người ứng cử và các phóng viên báo chí, điện
ảnh, nhiếp ảnh được vào xem kiểm phiếu.
Điều 47.
Những phiếu sau đây là không hợp lệ:
1. Không phải là
phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
2. Không có dấu của
Tổ bầu cử;
3. Ghi tên người
ứng cử quá số đại biểu được bầu.
Điều 48.
Trong trường
hợp phiếu bầu có ghi tên một hay nhiều người không ra ứng cử thì tên những
người này không được tính.
Tổ bầu cử không
được xóa hoặc chữa các tên ghi trong phiếu bầu.
Điều 49.
Khi nghi ngờ phiếu nào không hợp lệ thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra toàn Tổ
giải quyết.
Điều 50.
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận giải quyết
và ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được thì
phải đưa lên Ban bầu cử để giải quyết.
Điều 51.
Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản trong đó có ghi:
- Tổng số cử
tri;
- Số cử tri đã
đi bầu;
- Số phiếu hợp
lệ;
- Số phiếu
không hợp lệ;
- Số phiếu
trắng;
- Số phiếu bầu
cho mỗi người ứng cử;
- Những khiếu
nại và cách giải quyết, những khiếu nại chưa được giải quyết.
Biên bản làm thành
hai bản có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến
cuộc kiểm phiếu. Một bản gửi đến Ban bầu cử, một bản gửi đến Uỷ ban hành
chính thị xã, khu phố, thị trấn hoặc xã.
Mục 2
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Ở ĐƠN VỊ BẦU CỬ;
BẦU LẠI HOẶC BẦU THÊM
Điều 52.
Sau khi nhận được biên bản của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên
bản đó và xác định kết quả bầu cử của các khu vực bỏ phiếu thuộc đơn vị bầu
cử của mình.
Biên bản phải ghi
rõ:
- Số đại biểu
Hội đồng nhân dân ấn định cho mỗi đơn vị bầu cử;
- Số người ứng
cử;
- Tổng số cử
tri trong đơn vị bầu cử;
- Số cử tri đã
đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ cử tri đã đi bầu so với tổng số cử
tri;
- Số phiếu hợp
lệ;
- Số phiếu
không hợp lệ;
- Số phiếu
trắng;
- Số phiếu bầu
cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách
những người trúng cử;
- Những khiếu
nại do Tổ bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại do Ban bầu cử giải
quyết, những khiếu nại chuyển lên cấp trên để giải quyết.
Biên bản làm thành
hai bản có chữ ký của trưởng ban, phó trưởng ban và thư ký. Một bản gửi đến
Hội đồng bầu cử, một bản gửi đến Uỷ ban hành chính cùng cấp với Ban bầu cử.
Điều 53.
Những người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì
trúng cử; nếu có nhiều người được số phiếu ngang nhau thì người nhiều tuổi
hơn được trúng cử.
Điều 54.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử chưa đủ số đại biểu đã quy
định thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm này vào biên bản và báo cáo ngay cho
Hội đồng bầu cử để quyết định bầu thêm số đại biểu còn thiếu, chậm nhất
không được quá 15 ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử thêm cử
tri chỉ chọn bầu trong số người đã ra ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu.
Điều 55.
Trong mỗi đơn vị bầu cử, nếu số phiếu bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi
trong danh sách thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm này vào biên bản và báo cáo
ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu lại, chậm nhất không quá 15
ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu
trong số người đã ra ứng cử kỳ đầu.
Điều 56.
Việc bầu lại hoặc bầu thêm vẫn theo danh sách cử tri đã được sắp xếp trong
cuộc bầu cử đầu tiên và phải theo những điều đã được quy định trong Pháp
lệnh này.
CHƯƠNG IX
TỔNG KẾT CUỘC
BẦU CỬ
Điều 57.
Sau khi nhận được biên bản của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại
nếu có, Hội đồng bầu cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử.
Hội đồng bầu cử
tuyên bố kết quả cuộc bầu cử chậm nhất là:
- 5 ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân thị trấn, khu phố, thị xã và xã;
- 7 ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi;
- 9 ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân châu, huyện miền núi, tỉnh miền
xuôi và thành phố;
- 12 ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân tỉnh ở khu tự trị và miền núi;
- 20 ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân khu tự trị.
Điều 58.
Biên bản tổng kết ghi rõ:
- Tổng số đại
biểu Hội đồng nhân dân;
- Tổng số người
ứng cử;
- Tổng số cử
tri;
- Số cử tri đã
đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số
cử tri;
- Số phiếu hợp
lệ;
- Số phiếu
không hợp lệ;
- Số phiếu
trắng;
- Danh sách
những người trúng cử và số phiếu bầu cho mỗi người trúng cử;
- Các việc quan
trọng đã xẩy ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành
hai bản có chữ ký của chủ tịch, các phó chủ tịch và thư ký của Hội đồng bầu
cử, một bản gửi đến Uỷ ban hành chính cấp bầu Hội đồng nhân dân; một bản gửi
lên Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp. Nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc
trung ương thì gửi biên bản lên Chính phủ; nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân thị trấn và xã thì ngoài biên bản gửi lên Uỷ ban hành chính
cấp trên trực tiếp còn phải gửi một bản cho Hội đồng giám sát việc bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã.
Sau khi kiểm tra
biên bản của Hội đồng bầu cử thị trấn, xã và giải quyết những khiếu nại nếu
có, Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã
làm bản nhận xét gửi đến Uỷ ban hành chính cùng cấp kèm theo hồ sơ.
Điều 59.
Trong phiên họp đầu tiên Hội đồng nhân dân cử ra Ban thẩm tra tư cách đại
biểu.
Căn cứ vào báo cáo
của Ban thẩm tra tư cách đại biểu, Hội đồng nhân dân quyết định xác nhận tư
cách đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình.
Điều 60.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định hủy bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân nào có những điều không hợp pháp nghiêm trọng. Chính phủ ấn định
ngày bầu cử lại Hội đồng nhân dân ấy.
CHƯƠNG
X
HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NHỮNG NGƯỜI VI PHẠM
QUYỀN TỰ DO BẦU CỬ VÀ ỨNG CỬ
Điều 61.
Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại đến
quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân, thì tùy mức độ nặng nhẹ mà có thể
bị cảnh cáo hoặc phạt tù nặng nhất là hai năm.
Điều 62.
Nhân viên nào trong các Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử, Hội đồng
giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã và nhân viên
nào trong các tổ chức chính quyền phạm tội giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu
hoặc dùng mọi thủ đoạn khác để làm sai lạc kết quả cuộc bầu cử thì tùy mức
độ nặng nhẹ mà có thể bị cảnh cáo hoặc phạt tù nặng nhất là ba năm.
Điều 63.
Mọi người đều có quyền và bổn phận tố cáo các việc làm trái phép trong lúc
bầu cử. Ai cản trở hoặc trả thù người tố cáo thì tùy mức độ nặng nhẹ mà có
thể bị cảnh cáo hoặc bị phạt tù nặng nhất là 3 năm.
Chương
XI
ĐIỀU KHOẢN CUỐI
CÙNG
Điều 64.
Pháp lệnh này thay cho Sắc luật số 004-SL ngày 20 tháng 7 năm 1957.
Hà Nội, ngày 18
tháng 01 năm 1961
UỶ BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chủ tịch
TRƯỜNG CHINH