VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

 

PHÁP LỆNH QUY ĐỊNH CỤ THỂ
VỀ TỔ CHỨC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VÀ TỔ CHỨC
CỦA CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG NĂM 1961

 

Căn cứ vào Điều 98 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Luật tổ chức tòa án nhân dân ngày 14-7-1960;

Để kiện toàn Tòa án nhân dân các cấp, tăng cường tính chất nhân dân của tổ chức Tòa án nhân dân và bảo đảm cho việc xét xử được chính xác và đúng pháp luật;

Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương như sau:

CHƯƠNG I

TỔ CHỨC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Điều 1. Tòa án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó chánh án, các thẩm phán và thẩm phán dự khuyết.

Tòa án nhân dân tối cao có những tổ chức sau đây:

- Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

- Các tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao;

- Các Tòa hình sự, Tòa dân sự và Tòa quân sự;

- Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao;

- Hội đồng toàn thể thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Điều 2. Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao([1]) có nhiệm vụ:

a) Xét những vụ án quan trọng hoặc phức tạp;

b) Xét những kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với những bản án hoặc những quyết định của các Tòa chuyên trách và Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao;

c) Hướng dẫn các Tòa án áp dụng pháp luật và đường lối chính sách xét xử;

d) Quyết định việc bố trí các thẩm phán trong các Tòa của Tòa án nhân dân tối cao;

đ) Thảo luận những dự án luật, dự án pháp lệnh mà Tòa án nhân dân tối cao sẽ trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội; thảo luận những vấn đề pháp luật cần đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải thích;

e) Tổng kết kinh nghiệm xét xử.

Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có từ chín đến mười một ủy viên.

Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp ít nhất mỗi tháng hai lần và quyết định theo đa số

Điều 3. Các Tòa hình sự và Tòa dân sự của Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền:

a) Sơ thẩm đồng thời là trung thẩm những vụ án do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao và những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dưới nhưng Tòa án nhân dân tối cao xét thấy cần lấy lên để xử;

b) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của các Tòa án nhân dân khu tự trị bị chống án hoặc bị kháng nghị;

c) Xử lại những vụ án do Tòa mình hoặc Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giao cho xử lại;

Xử lại những vụ án do Tòa án nhân dân cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị.

Điều 4. Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân có thẩm quyền:

a) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của các Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương bị chống án hoặc bị kháng nghị;

b) Xử lại những vụ án do Tòa mình đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giao cho xử lại.

Điều 5. Hội đồng toàn thể thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ duyệt lại các bản án tử hình của Tòa án nhân dân các cấp, căn cứ vào Điều 9 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

Điều 6. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:

a) Báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

b) Chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban thẩm phán và Hội đồng toàn thể thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Chủ tọa phiên tòa của các Tòa chuyên trách và Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao, nếu xét thấy cần thiết;

c) Kháng nghị những bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp nhưng phát hiện có sai lầm;

d) Tổ chức thống kê tư pháp toàn quốc;

đ) Tổ chức việc tổng kết và phổ biến kinh nghiệm xét xử;

e) Đôn đốc việc thi hành các nghị quyết của Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Đôn đốc việc thực hiện chương trình công tác toàn ngành;

g) Điều hòa công việc giữa các Tòa, các Vụ và các bộ phận khác của Tòa án nhân dân tối cao;

h) Tổ chức việc kiểm tra công tác của các Tòa án nhân dân địa phương;

i) Chỉ định các thẩm phán xét xử tại các phiên tòa của các Tòa chuyên trách hoặc Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao trong trường hợp các Tòa này thiếu thẩm phán để mở phiên tòa;

k) Chỉ đạo công tác nghiên cứu pháp luật và nghiên cứu đường lối, chính sách xét xử;

Chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp, công tác đào tạo và giáo dục cán bộ tòa án và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân;

l) Bổ nhiệm và bãi miễn Chánh văn phòng, Phó văn phòng, Vụ trưởng, Phó vụ trưởng và những chức vụ tương đương trong tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao.

Các Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao giúp Chánh án làm nhiệm vụ và có thể được ủy nhiệm thay Chánh án khi Chánh án vắng mặt.

Điều 7. Các tòa án chuyên trách và Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao gồm có Chánh tòa, Phó chánh tòa và các thẩm phán.

Các Chánh tòa của các Tòa chuyên trách và Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:

a) Điều khiển công tác của Tòa;

b) Chỉ định các thẩm phán cho các phiên tòa; chủ tọa phiên tòa hoặc chỉ định một thẩm phán chủ tọa phiên tòa;

c) Báo cáo công tác của Tòa với Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Phó chánh tòa giúp Chánh tòa làm nhiệm vụ và có thể được ủy nhiệm thay Chánh tòa khi Chánh tòa vắng mặt.

Điều 8. Tổ chức cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế của Tòa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

CHƯƠNG II

TỔ CHỨC CỦA CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG

Điều 9. Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền:

a) Sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương và những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của các Tòa án đó nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp cần lấy lên để xử;

b) Sơ thẩm những vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử;

c) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương bị chống án hoặc bị kháng nghị;

d) Xử lại những vụ án do Tòa án mình hoặc Tòa án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng Tòa án nhân dân tối cao giao cho xử lại.

Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, huấn luyện thư ký tòa án cho địa phương, huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và tổ chức việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Điều 10. Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ:

a) Xét những vụ án quan trọng hoặc phức tạp;

b) Xét và báo cáo lên Tòa án nhân dân tối cao những vụ án do Tòa mình hoặc Tòa án cấp dưới xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm;

c) Hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng pháp luật và đường lối chính sách xét xử;

d) Phân công cho các thẩm phán trong Tòa án;

đ) Tổng kết kinh nghiệm xét xử.

Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương họp ít nhất mỗi tháng hai lần và quyết định theo đa số.

Điều 11. Chánh án Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ:

a) Báo cáo công tác của Toà án trước Hội đồng nhân dân cùng cấp;

b) Chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban thẩm phán;

c) Chỉ định các thẩm phán để mở phiên tòa; lập danh sách hội thẩm nhân dân cho các phiên tòa; chủ tọa phiên tòa hoặc chỉ định một thẩm phán chủ tọa phiên tòa;

d) Tổ chức thống kê tư pháp;

đ) Tổ chức việc tổng kết và phổ biến kinh nghiệm xét xử;

e) Đôn đốc việc thi hành các nghị quyết của Uỷ ban thẩm phán;

g) Điều hòa công tác giữa các bộ phận của Tòa án;

h) Tổ chức việc kiểm tra công tác của các Toà án nhân dân cấp dưới;

i) Chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, công tác huấn luyện thư ký Tòa án cho địa phương, công tác huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ và có thể được ủy nhiệm thay Chánh án khi Chánh án vắng mặt.

Điều 12. Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền:

a) Hòa giải những việc tranh chấp về dân sự;

b) Phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa;

c) Sơ thẩm những vụ án dân sự;

d) Sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống.

Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hòa giải ở các thị trấn và xã và tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Điều 13. Chánh án Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ:

a) Báo cáo công tác của Toà án trước Hội đồng nhân dân cùng cấp;

b) Lập danh sách hội thẩm nhân dân cho các phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hoặc chỉ định thẩm phán chủ tọa phiên tòa;

c) Xét và báo cáo lên Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương những vụ án do Tòa án mình đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện có sai lầm;

d) Tổ chức thống kê tư pháp;

đ) Tổ chức việc tổng kết kinh nghiệm xét xử;

e) Hướng dẫn công tác tư pháp ở các thị trấn và xã;

Tổ chức việc kiểm tra công tác tư pháp ở các thị trấn và xã;

g) Phân công cho các thẩm phán trong Tòa án

h) Chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ và có thể được ủy nhiệm thay Chánh án khi Chánh án vắng mặt.

Điều 14. Tổ chức cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế cụ thể của các Tòa án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định chung về bộ máy làm việc và biên chế của các cơ quan nhà nước.

Tổng số biên chế của các Tòa án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

CHƯƠNG III

VIỆC BẦU CỬ THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG

Điều 15. Chánh án, Phó chánh án và các thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Các ủy viên Uỷ ban thẩm phán của các Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Chánh án, Phó chánh án, các thẩm phán và ủy viên Uỷ ban thẩm phán có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.

Số thẩm phán của các Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, kể cả Chánh án và Phó chánh án, có từ bốn đến bẩy người. Số ủy viên Uỷ ban thẩm phán của các Tòa án nhân dân đó có từ ba đến năm người.

Số thẩm phán của các Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương, kể cả Chánh án và Phó chánh án, không quá ba người.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể về số thẩm phán và ủy viên Uỷ ban thẩm phán cần bầu cho mỗi Tòa án nhân dân địa phương trong phạm vi quy định nói trên.

CHƯƠNG IV

VIỆC BẦU CỬ HỘI THẨM NHÂN DÂN
VÀ CHẾ ĐỘ CÔNG TÁC CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN

Điều 16. Khi Tòa án nhân dân tối cao xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia thì hội thẩm nhân dân do Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử ra, căn cứ vào sự giới thiệu của các đoàn thể nhân dân ở Trung ương.

Điều 17. Các hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương các cấp là hai năm.

Điều 18. Số hội thẩm nhân dân của mỗi Tòa án nhân dân địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân cấp ấy căn cứ vào sự hướng dẫn của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao mà đề nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

Danh sách những người ứng cử hội thẩm nhân dân của mỗi Tòa án nhân dân địa phương do đoàn thể nhân dân cùng cấp giới thiệu.

Điều 19. Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm đến Tòa để làm nhiệm vụ của mình theo đúng ngày, giờ mà Tòa án nhân dân đã định.

Các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã có cán bộ, công nhân, viên chức, xã viên làm hội thẩm nhân dân, phải tạo điều kiện thuận tiện cho hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ.

Điều 20. Trong thời gian làm nhiệm vụ ở Tòa án, nếu hội thẩm nhân dân là những người ăn lương của Nhà nước thì vẫn được hưởng tiền lương của mình nếu hội thẩm nhân dân không phải là những người ăn lương của Nhà nước thì được hưởng một khoản phụ cấp do Nhà nước đài thọ.

CHƯƠNG V

ĐIỀU KHOẢN PHỤ

Điều 21. Ở các khu vực tự trị, tổ chức cụ thể của các Tòa án nhân dân địa phương các cấp sẽ do Hội đồng nhân dân khu tự trị căn cứ vào Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và pháp lệnh này mà quy định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Điều 22. Về tổ chức của các Tòa án quân sự, sẽ có quy định riêng.

 

Pháp lệnh này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 23 tháng 3 năm 1961

 

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Chủ tịch

TRƯỜNG CHINH


 

[1]. Theo luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14-7-1960 (Điều 13 và Điều 26): Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, các Phó Chánh án và một số thẩm phán Tòa án nhân dân. Chánh án do Quốc hội bầu ra và bãi miễn. Các Phó Chánh án và các ủy viên khác của Uỷ ban do Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn.

 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang