BÁO CÁO CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1992 TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM
(Do ông Phan Văn Khải, Phó Chủ tịch thường trực
Hội đồng Bộ trưởng đọc tại kỳ họp thứ nhất,
Quốc hội khóa IX, ngày 19-9-1992)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin báo cáo với Quốc hội tình hình tổng quát về kinh tế - xã hội qua 9 tháng đầu năm 1992 và những việc phải làm tiếp để bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết kỳ họp cuối năm 1991 của Quốc hội khóa VIII về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1992.
I- NHỮNG NÉT LỚN VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1992 TRONG 9 THÁNG ĐẦU NĂM
Năm 1992 là năm thứ hai chúng ta phải phấn đấu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện không còn nguồn viện trợ to lớn như trước đây, và quan hệ kinh tế - thương mại với Liên Xô (cũ) giảm mạnh, trong khi Mỹ vẫn chưa từ bỏ chính sách cấm vận đối với nước ta. Bước vào năm 1992, nền kinh tế lại thêm khó khăn mới: không còn nguồn dự trữ vật tư, tài chính từ năm trước chuyển sang như năm 1991; lạm phát đang ở mức cao cùng với cơn sốt vàng và đô la.
Tuy nhiên, những cố gắng rất lớn của nhân dân ta, của Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục phát huy đà chuyển biến tích cực của mấy năm đổi mới, đặc biệt là năm 1991, đưa tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng qua đi vào thế ổn định dần và phát triển với nhịp độ khá hơn, tạo điều kiện hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1992.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện. Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân đạt mức cao nhất từ trước đến nay, tăng hơn năm trước gần 2,6 triệu tấn. Lúa Hè Thu và lúa Mùa cũng đang phát triển thuận lợi; nếu không có thiên tai đột xuất thì cả năm có thể đạt trên 23 triệu tấn lương thực. Nhu cầu lương thực trên mọi vùng của nước ta đều được bảo đảm, tạo điều kiện cho các địa phương đi vào khai thác các thế mạnh của mình, nhất là ở trung du, miền núi. 9 tháng đã xuất khẩu được 1,25 triệu tấn gạo. Khả năng cân đối lương thực năm nay cho phép xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn gạo; một số tỉnh miền Bắc và miền Trung cũng được phép xuất khẩu 25 vạn tấn để giữ giá gạo có lợi cho nông dân.
Chăn nuôi, trồng rừng, cây công nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đều tăng khá hơn năm trước.
Nông nghiệp có thể đạt thành tích phát triển cao hơn nếu chính sách mới về ruộng đất được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện kịp thời, việc tiêu thụ và bảo trợ giá nông sản được bảo đảm, chính sách tín dụng và khuyến nông được mở rộng nhanh đến hộ nông dân.
Sản xuất công nghiệp trong 9 tháng tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước và đang đi dần vào thế ổn định. Điện, dầu khí, xi măng, than, thép cán, thiếc, phân bón, công nghiệp thực phẩm, dược phẩm có tốc độ phát triển cao. Một nét mới đáng chú ý là sau 3 năm liền giảm sút, công nghiệp địa phương sang năm 1992 đã bắt đầu tăng trưởng, kể cả khu vực quốc doanh (9 tháng đầu năm tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước) và khu vực ngoài quốc doanh (tăng 6,2%). Tuy nhiên, tình trạng hàng nhập lậu và hàng giả chưa ngăn chặn được đang gây khó khăn lớn cho sự phát triển nhiều mặt hàng tiêu dùng.
Kế hoạch xây dựng cơ bản năm 1992 bằng nguồn vốn trong nước, qua 9 tháng đã thực hiện được 62,4%, riêng phần đầu tư bằng vốn ngân sách đạt 68,7%. Các mục tiêu và công trình trọng điểm được triển khai đúng tiến độ như đường dây tải điện Bắc - Nam, xây lắp tổ máy số 5, số 6 thủy điện Hòa Bình, lấp sông hai công trình thủy điện Thác Mơ và Vĩnh Sơn, xây dựng đường Hà Nội - Nội Bài, đường sắt nối với Trung Quốc, hệ thống thông tin liên lạc trong nước và viễn thông, v.v.. Phần tự đầu tư xây dựng của các tổ chức kinh tế, các ngành, các địa phương và của nhân dân tăng khá. Tuy vậy, tỷ lệ tích lũy đầu tư trong nước vẫn còn rất thấp, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trong những năm sau. Tình trạng lãng phí, thất thoát nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vẫn còn nghiêm trọng.
Về kinh tế đối ngoại, kim ngạch xuất khẩu tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước và lần đầu tiên vượt kim ngạch nhập khẩu. Thị trường được mở rộng hơn, nhưng vẫn còn hạn chế so với tiềm năng xuất khẩu của nhiều ngành kinh tế.
Kim ngạch nhập khẩu không tăng nhưng được tập trung vào các mặt hàng chủ yếu, nên nhu cầu về những vật tư quan trọng nhất như xăng dầu, sắt thép, phân bón, hóa chất,… được đáp ứng tốt hơn trước. Khuyết điểm lớn nhất là kiểm soát thiếu chặt chẽ mậu dịch biên giới, đấu tranh chống nạn buôn lậu thiếu liên tục và kiên quyết, chưa tạo được chuyển biến tích cực.
Mặc dù Mỹ còn duy trì chính sách cấm vận, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vẫn tiếp tục tăng. 9 tháng đầu năm đã cấp giấy phép cho hơn 100 dự án với tổng số vốn đầu tư khoảng 1 tỷ đô la; vốn đầu tư thực hiện ước đạt 300 triệu đô la. Từ khi có Luật đầu tư đến nay, tổng số vốn theo dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài là 3,5 tỷ đô la, trong đó khoảng 1/4 đã được thực hiện. Vốn viện trợ phát triển của các tổ chức quốc tế và của Chính phủ một số nước đã ký được từ đầu năm đến nay khoảng 161 triệu đô la.
Trên cơ sở phát triển sản xuất và đẩy lùi lạm phát, việc quản lý ngân sách nhà nước tiến bộ hơn năm trước.
Thu ngân sách trong 9 tháng đạt 73,4% kế hoạch năm đã được Quốc hội phê chuẩn, bằng 2,4 lần cùng kỳ năm trước. Thu thuế từ khu vực quốc doanh tăng 89%, nếu tính cả dầu thô và thu khấu hao cơ bản thì bằng 2,4 lần; thu ngoài khu vực quốc doanh tăng 90%.
Chi ngân sách đạt 84% kế hoạch năm được Quốc hội phê chuẩn. Số bội chi bằng 78% mức Quốc hội cho phép cả năm. Một nét mới trong năm 1992 là việc bù đắp bội chi ngân sách không còn dựa vào tiền phát hành mà được giải quyết bằng công trái và các nguồn vay khác.
Tình trạng nợ nần, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, chủ yếu là trong khu vực kinh tế quốc doanh đã được xử lý một bước. Giai đoạn I, tổng thanh toán nợ được tiến hành trong phạm vi các doanh nghiệp đang hoạt động bình thường, đã giải quyết được 95% công nợ của các doanh nghiệp này, trong đó có nhiều khoản nợ khó đòi, lưu cữu nhiều năm, góp phần lành mạnh hóa tài chính xí nghiệp. Giai đoạn II đang được xúc tiến với nhiều khó khăn hơn vì đối tượng thanh toán công nợ gồm nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, một số đã giải thể.
Kết quả kiềm chế và đẩy lùi lạm phát là một thành tựu nổi bật trong 9 tháng đầu năm 1992. Cuối năm 1991, cùng với cơn sốt vàng và đô la, chỉ số giá bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tăng hàng tháng 5-6%. Trong 9 tháng đầu năm nay, chỉ số giá đã được kéo xuống 1,5%/tháng; từ tháng 6 tới nay hạ xuống 0,1% - 0,3%/tháng. Từ tháng 3, giá vàng và đô la cũng hạ dần và mấy tháng nay tương đối ổn định. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá tăng 14% (mức phấn đấu đã trình ra Quốc hội là hạ chỉ số tăng giá từ 67% năm 1991 xuống còn 30 - 40% năm 1992). Thành tựu chống lạm phát là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nổi bật là chính sách quản lý chặt chẽ việc phát hành, cải tiến một bước công tác điều hòa lưu thông tiền tệ, xóa bao cấp qua ngân sách và tín dụng, chấn chỉnh việc quản lý ngoại hối với sự can thiệp của ngân hàng nhà nước vào thị trường vàng và đô la. Những biện pháp đó được kết hợp chặt chẽ với những cố gắng phát triển sản xuất và xuất khẩu, bảo đảm cân đối lương thực, vật tư, hàng hóa thiết yếu. Nhờ vậy, lạm phát được đẩy lùi nhưng không đi liền với suy thoái kinh tế mà ngược lại thúc đẩy một bước tăng trưởng mới về kinh tế.
Cùng với những chuyển biến tích cực về kinh tế, lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội cũng có tiến bộ trên một số mặt.
Tuy điều kiện vật chất còn hạn chế nhưng quy mô giáo dục và đào tạo vẫn được giữ vững. Công tác phổ cập giáo dục bậc tiểu học và xóa nạn mù chữ được quan tâm hơn và có kết quả khá. Các trường chuyên, lớp chọn được phát triển ở nhiều địa phương. Hình thức trường bán công, dân lập bước đầu được áp dụng, tạo thêm khả năng phát triển sự nghiệp giáo dục trong điều kiện kinh phí từ ngân sách có hạn.
Phong trào học ngoại ngữ và tin học phát triển là hiện tượng đáng khuyến khích. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, các trường công nhân kỹ thuật, các lớp dạy nghề đang được sắp xếp lại đi đôi với đổi mới chương trình, nội dung và phương thức đào tạo.
Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định tổ chức lại mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo hướng gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo và sản xuất, tăng cường đầu tư tập trung của Nhà nước đối với các cơ sở trọng điểm, đồng thời khuyến khích các tổ chức và cá nhân thuộc các thành phần kinh tế phát triển các hoạt động khoa học và công nghệ
Vấn đề lớn nhất, phải phấn đấu lâu dài trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo và khoa học là nâng cao chất lượng và hiệu quả theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống thông tin, báo chí, xuất bản được chấn chỉnh lại một bước và có sự chỉ đạo chặt chẽ hơn trước. Phạm vi phát sóng truyền hình được mở rộng tới nhiều vùng miền núi, hải đảo. Các ngành Văn hóa - Nghệ thuật chú trọng hơn đến các hoạt động góp phần giữ gìn và nâng cao tinh hoa văn hóa dân tộc, chống văn hóa độc hại. Tuy nhiên, sự phát triển văn hóa, nghệ thuật trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp phải tiếp tục giải quyết.
Hoạt động y tế hướng mạnh hơn vào củng cố y tế cơ sở, chăm sóc sức khỏe ban đầu, triển khai các chương trình y tế quốc gia, đặc biệt là chương trình tiêm chủng cho trẻ em, chống bệnh sốt rét, bướu cổ… Từ việc thực hiện chế độ bảo hiểm sức khỏe ở một số địa phương, đến nay đã tổng kết để mở rộng ra cả nước, hình thành phương thức mới trong hoạt động y tế. Nhìn chung, việc xã hội hóa y tế mới ở bước đầu còn nhiều vấn đề phải giải quyết để chống tình trạng xuống cấp của các cơ sở y tế, nâng cao chất lượng phòng bệnh, khám bệnh và chữa bệnh, chống các bệnh xã hội, nhất là ở miền núi. Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình chưa đi sâu vào các vùng và các đối tượng trọng điểm nên kết quả còn hạn chế.
Trong lĩnh vực xã hội, vấn đề giải quyết việc làm vẫn nổi lên gay gắt. Các chủ trương, chính sách cùng với phần ngân sách dành cho việc sắp xếp lại lao động thuộc khu vực nhà nước và hỗ trợ giải quyết việc làm được triển khai thực hiện rất chậm. Một nét mới trong giải quyết việc thực hiện các chính sách xã hội là: bên cạnh những cố gắng tài trợ của Nhà nước, chúng ta đã bước đầu khơi dậy khả năng của mỗi người, mỗi gia đình, của các đoàn thể và các tổ chức xã hội tự giải quyết và giúp đỡ nhau giải quyết những khó khăn về đời sống. Việc chăm sóc đời sống của các gia đình liệt sỹ, thương binh, người tàn tật, việc xóa đói giảm nghèo và các hoạt động từ thiện đa dạng, v.v. đang trở thành phong trào quần chúng, phát huy truyền thống tình nghĩa của dân tộc ta. Điều đáng lo ngại hiện nay là các tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, có loại phát triển nghiêm trọng hơn.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, điểm nổi bật đáng quan tâm là tình hình phức tạp mới do bên ngoài gây ra ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, ở Vịnh Bắc bộ, thềm lục địa, quần đảo Trường Sa. Chúng ta đã ứng phó kịp thời bằng nhiều hình thức đấu tranh chính trị, ngoại giao, tranh thủ các diễn đàn quốc tế, được các nước trong khu vực và dư luận thế giới đồng tình ủng hộ. Đồng thời, việc xây dựng các lực lượng vũ trang, nâng cao chất lượng quân đội, củng cố các khu vực phòng thủ cũng được triển khai tích cực hơn.
Công tác bảo vệ an ninh chính trị, tấn công truy quét bọn tội phạm hình sự được tiến hành liên tục, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Nhìn chung lại, tuy còn có những mặt yếu, chậm chuyển biến, nhưng những thành tựu và tiến bộ đã đạt được trong 9 tháng qua đang tạo đà mới cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giảm bớt khó khăn và cải thiện một bước đời sống của đông đảo nhân dân.
Kết quả đó có phần nhờ thời tiết năm 1992 tương đối thuận cho sản xuất nông nghiệp, nhờ sản lượng dầu thô tăng nhanh góp phần đáng kể vào việc tăng sản lượng công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu và nguồn thu ngân sách. Song, nguyên nhân chính đưa tới chuyển biến mới trong 9 tháng đầu năm là những nỗ lực của các ngành, các cấp cùng với sự quản lý, điều hành của Nhà nước theo đường lối đổi mới đã phát huy được mạnh mẽ hơn năng lực sản xuất của các đơn vị sơ sở, khai thác được tốt hơn các nguồn lực của nhân dân và các nguồn lực từ bên ngoài. Trong các nhân tố tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội năm nay, nổi lên mấy nét mới:
Qua một thời gian bị chấn động, nhiều cơ sở sản xuất - kinh doanh đã được sắp xếp lại, bắt đầu thích ứng với cơ chế thị trường.
Việc mở rộng kinh tế đối ngoại thúc đẩy các cơ sở sản xuất và dịch vụ hướng mạnh về xuất khẩu, bước đầu gắn với thị trường thế giới. Những cơ sở có quan hệ với bên ngoài về đầu tư, công nghệ hoặc thị trường là những cơ sở phát triển năng động và có hiệu quả.
Cơ chế mới về lưu thông vật tư thay cho phương thức tập trung độc quyền trước đây vừa giảm nhẹ gánh nặng cho Nhà nước, vừa bảo đảm được nguồn vật tư ổn định để duy trì và phát triển sản xuất.
Công tác quản lý và điều hành của Nhà nước đã tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về tài chính - tiền tệ, đồng thời, tiếp tục đổi mới một số chính sách cụ thể về xuất nhập khẩu, hợp tác đầu tư, giải quyết các vấn đề xã hội, tạo môi trường và điều kiện tốt hơn cho sản xuất - kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác.
II- NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH PHẢI GIẢI QUYẾT
ĐỂ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH NĂM 1992
VÀ CHUẨN BỊ TỐT CHO NĂM 1993
Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, từng lĩnh vực công tác đều có những mặt yếu và những khuyết điểm trong việc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1992. Các cấp, các ngành cần phân tích sâu sắc và tích cực khắc phục những chỗ yếu kém, đồng thời giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển để phát huy mạnh mẽ hơn những nhân tố mới, những thành tựu đã đạt được qua 9 tháng đầu năm, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 1992 và chuẩn bị cho kế hoạch 1993 với mục tiêu phấn đấu cao hơn. Dưới đây là những vấn đề cần tập trung giải quyết trước mắt :
1. Tiếp tục phấn đấu ổn định tài chính - tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái
Tuy lạm phát đã được đẩy lùi vượt mức dự tính, nhất là trong mấy tháng gần đây, song vẫn có những yếu tố có thể gây biến động bất thường về giá cả cần phải khắc phục và ngăn ngừa.
Nổi lên hàng đầu là ngân sách đang đứng trước khả năng bội chi lớn hơn dự kiến, cần có biện pháp khống chế và xử lý.
Vào giữa năm, nhiệm vụ chi ngân sách phải bổ sung thêm so với kế hoạch đầu năm gần 2000 tỷ đồng để thực hiện mấy công trình then chốt (đường dây 500 kV, lắp đặt 3 tổ tuốc bin khí ở Bà Rịa, đặt hàng 2 tổ máy cuối cùng của thủy điện Hòa Bình), tăng thêm kinh phí cho việc ứng phó với những diễn biến phức tạp mới ở biên giới và biển Đông và tăng chi cho một số nhiệm vụ chính trị. Nhiều khoản chi lớn của ngân sách như thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản, tiền tệ hóa tiền lương, giải quyết việc làm, v.v. dồn vào mấy tháng cuối năm. Mức chi bình quân một tháng trong quý 4 tăng hơn 60% so với 9 tháng đầu năm. Trong khi đó, tình trạng thất thu còn lớn, nợ ngân sách tồn đọng từ năm 1991 lên tới một nghìn tỷ đồng. Chúng ta kiên quyết chấm dứt hẳn việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Muốn vậy, cùng với đà phát triển sản xuất kinh doanh trong những tháng cuối năm, các địa phương và các ngành phải tập trung sức đẩy mạnh thu ngân sách, chống thất thu, thanh toán nợ tồn đọng và huy động vốn của nhân dân qua các hình thức công trái. Chính phủ định mức thưởng các địa phương, các ngành và cơ sở tăng thu ngân sách vượt mức kế hoạch; đồng thời, tạo thêm nguồn thu về hợp đồng dầu khí, thu hút thêm nguồn viện trợ, vay nợ nước ngoài để bù đắp mức tăng chi đầu tư xây dựng cơ bản. Về lâu dài cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng kích thích sản xuất kinh doanh đúng hướng, đồng thời tăng được tỷ lệ huy động thu nhập quốc dân vào ngân sách (hiện nay quá thấp).
Qua giai đoạn vừa làm vừa thăm dò, tới đây phải tổng kết thực tiễn để xác định cơ chế phát hành và điều hòa lưu thông tiền tệ bảo đảm đủ phương tiện thanh toán nhưng không gây lạm phát. Hệ thống ngân hàng phải thực hiện được chức năng trung tâm thanh toán, tăng nhanh việc thanh toán không dùng tiền mặt trên cơ sở bảo đảm chất lượng dịch vụ thuận tiện cho khách hàng, không để tái diễn tình trạng mất khả năng chi trả. Quy mô tín dụng trong những tháng cuối năm cần phải được kiểm soát chặt chẽ.
Cùng với những biện pháp đó, phải chủ động xử lý các cân đối về vật tư, lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu, có dự trữ cần thiết, kiên quyết chống buôn lậu, kiểm soát việc chi thưởng, liên hoan tổng kết cuối năm của các cơ sở kinh doanh.
Thông qua việc áp dụng tổng hợp các biện pháp nêu trên, phấn đấu kiềm chế lạm phát trong những tháng cuối năm và đầu năm sau không vượt quá mức bình quân tháng trong 9 tháng đầu năm nay (dưới 1,5%/tháng). Thực hiện được yêu cầu đó, chỉ số giá năm 1992 tăng khoảng 20%, thấp hơn nhiều so với dự kiến đầu năm, tạo cơ sở kéo mức lạm phát xuống dưới hai con số trước năm 1995.
Giá đô la và vàng cần và có thể giữ ổn định xoay quanh mức hiện nay, để bảo đảm cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển thuận lợi.
Trên cơ sở kiềm chế lạm phát và ổn định giá đô la, vàng cần tiếp tục xử lý lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay trên nguyên tắc thực hiện lãi suất dương, thu hút được tiền nhàn rỗi đồng thời tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, tránh những biến động đột ngột bất lợi cho sự ổn định tài chính - tiền tệ. Xóa bỏ chênh lệch lãi suất tạo kẽ hở cho việc lợi dụng vốn ngân hàng để kinh doanh tiền tệ kiếm lãi.
Cùng với các biện pháp trước mắt, cần xây dựng kế hoạch triển khai từng bước việc hình thành thị trường vốn và chuẩn bị điều kiện tiến tới đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi.
2. Tích cực thực hiện chủ trương tổ chức lại sản xuất và quản lý các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã và kinh tế hộ nông dân
Chín tháng qua, công tác này tiến hành chậm đã hạn chế việc phát huy năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Nay cần tổ chức thực hiện tích cực và khẩn trương các chủ trương, chính sách đã ban hành, đặc biệt là mấy việc lớn dưới đây:
- Xúc tiến việc sắp xếp, đăng ký lại các doanh nghiệp nhà nước. Thông qua kết quả tổng thanh toán công nợ giai đoạn I và việc tiến hành giai đoạn II, xử lý dứt điểm những doanh nghiệp không có khả năng duy trì hoạt động; đồng thời xác định rõ những doanh nghiệp nhà nước đủ điều kiện đăng ký lại chính thức đi liền với biện pháp củng cố các doanh nghiệp đó để hoạt động có hiệu quả.
Chỉ đạo chặt chẽ việc làm thí điểm cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước để rút kinh nghiệm cho việc mở rộng. Đây là một chủ trương lớn, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, song việc thực hiện có nhiều vấn đề phức tạp, phải chuẩn bị điều kiện tiến hành từng bước tích cực nhưng vững chắc.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế và tổ chức bảo đảm thực hiện chức năng của Nhà nước với tư cách người chủ sở hữu chính đối với các doanh nghiệp nhà nước.
- Để thực hiện Điều 18 của Hiến pháp năm 1992, đi đôi với việc sửa đổi, bổ sung Luật đất đai, cần tổ chức thực hiện khẩn trương và chặt chẽ chủ trương Nhà nước giao trực tiếp cho hộ nông dân quyền sử dụng ruộng đất ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận. Trên cơ sở đó, giải quyết tình trạng tranh chấp ruộng đất, thúc đẩy việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị quốc doanh và các hợp tác xã, tổng kết và mở rộng các hình thức hợp tác mới trong nông, lâm, ngư nghiệp.
Bổ sung các chính sách của Nhà nước hỗ trợ cho hộ nông dân, đặc biệt là chính sách tín dụng, chính sách khuyến nông, chính sách tiêu thụ và bảo trợ giá nông sản.
Chuẩn bị Hội nghị nông nghiệp toàn quốc họp vào cuối năm tổng kết, thảo luận các vấn đề trên và bàn phương hướng phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, để triển khai thực hiện từ đầu năm tới.
3. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ bản
Trong năm nay, phải bảo đảm việc cấp vốn và thực hiện đúng tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm đã khởi công thuộc nguồn vốn ngân sách; tích cực tìm nguồn vốn cho một số công trình then chốt phải xây dựng trong kế hoạch 1991 -1995 (trước hết là thủy điện Yaly, Sông Hinh, đường ống dẫn khí, nhà máy phân đạm, nhà máy lọc dầu, xây dựng đường số 5, đường 14B, các sân bay quốc tế, cảng nước sâu, mở rộng Nhà máy xi măng Hoàng Thạch …).
Xúc tiến việc nghiên cứu quy hoạch phát triển các địa bàn trọng điểm đã được xác định trong chiến lược đến năm 2000; khẩn trương chuẩn bị các dự án đầu tư đón trước các khả năng mới trong việc tranh thủ nguồn vốn ngoài nước.
Đi đôi với việc tập trung vốn khấu hao cơ bản của các xí nghiệp quốc doanh vào ngân sách nhà nước, cần xây dựng cơ chế bảo đảm cho các xí nghiệp có nguồn vốn tín dụng đầu tư để cải tạo và mở rộng sản xuất.
Bổ sung chính sách và biện pháp khai thác khả năng tích lũy đầu tư của các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, khuyến khích kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình tự bỏ vốn kinh doanh, nhất là đầu tư vào các ngành sản xuất; mở rộng các hình thức góp cổ phần, mua cổ phiếu, gửi tiết kiệm, mua trái phiếu và góp quỹ bảo hiểm.
4. Tích cực mở rộng thị trường
Tăng sức mua của thị trường trong nước, trước hết là sức mua của nông dân thông qua chính sách bảo trợ việc tiêu thụ nông sản.
Tạo thêm thị trường ngoài nước để đẩy mạnh xuất khẩu; tìm nơi tiêu thụ những sản phẩm xuất khẩu đang gặp khó khăn, trong đó chú ý khôi phục và mở rộng quan hệ thương mại với các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu, tạo chỗ đứng trên thị trường các nước trong khu vực gần ta và các nước cộng đồng châu Âu.
Chấn chỉnh quan hệ mậu dịch ở biên giới; ngăn chặn buôn lậu dưới các hình thức mậu dịch tiểu ngạch, tạm nhập, tái xuất.
5. Giải quyết việc làm và tiền lương
Trong nhiều vấn đề xã hội phải giải quyết, việc làm và tiền lương là hai vấn đề lớn, cấp bách, tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế - xã hội.
Ngân sách năm nay dành 830 tỷ để tài trợ cho việc sắp xếp lại lao động trong khu vực nhà nước và giải quyết việc làm. Việc triển khai thực hiện còn chậm, cần đẩy mạnh trong những tháng tới. Nguồn tài trợ của Nhà nước để giải quyết việc làm không cấp phát theo lối hành chính như trước mà căn cứ vào dự án phát triển kinh tế, trong đó, Nhà nước đầu tư một phần cần thiết, chủ yếu là để xây dựng kết cấu hạ tầng và cho vay một phần vốn sản xuất. Cơ chế đó đi liền với chính sách hỗ trợ người lao động tạo vốn và vay vốn để lập nghiệp đã đưa lại hiệu quả tốt. Cần rút kinh nghiệm thực tế để hướng dẫn xây dựng và thực hiện các dự án, tập trung vào hướng phát triển kinh tế đồi rừng và các dự án nhỏ, thích hợp với từng địa bàn.
Về tiền lương, tiếp theo các chế độ trợ cấp đã thực hiện trong 9 tháng qua để giảm bớt khó khăn cho người hưởng lương và một số đối tượng thuộc chính sách xã hội, trong quý 4, cần giải quyết về cơ bản việc tiền tệ hóa tiền lương bao gồm cả tiền nhà, chuẩn bị cho việc sửa đổi mức lương và thang lương trong năm 1993. Một yếu tố quan trọng để cải cách tiền lương là phải tích cực xúc tiến việc sắp xếp lại tổ chức, tinh giản biên chế khu vực hành chính sự nghiệp. Qua 9 tháng, mới đạt khoảng 15% yêu cầu về giảm biên chế trong năm 1992. Trong quý 4, phải coi đây là một công tác quan trọng của các cơ quan hành chính sự nghiệp, cần chỉ đạo chặt chẽ, sát với đặc điểm từng cơ quan.
6. Tạo chuyển biến rõ nét trong việc thiết lập trật tự kỷ cương, chống tham nhũng và buôn lậu
Đây là mặt yếu kém nhất trong việc thực hiện các nhiệm vụ công tác năm 1992. Qua thực tiễn, chúng ta càng thấy rõ việc thực hiện nhiệm vụ này là một quá trình đấu tranh kiên quyết, liên tục, bền bỉ và phải cố gắng đạt được một bước chuyển biến đưa lại niềm tin và tăng thêm khí thế đấu tranh của toàn xã hội. Phải xử lý nghiêm, đúng pháp luật những vụ đã phát hiện, có đủ chứng cứ. Đồng thời, phải thực hiện đồng bộ những biện pháp giải quyết vấn đề từ gốc:
Tập trung sức xây dựng luật pháp, thể chế theo cơ chế mới, xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, khắc phục những sở hở, mâu thuẫn dễ bị lợi dụng hoặc vận dụng tùy tiện.
Xây dựng quy chế công vụ mà mọi công chức phải tuân thủ, đặc biệt là trong quan hệ với công dân. Bảo đảm cho nhân dân biết rõ quy chế này để đấu tranh xóa bỏ tệ gây phiền hà, sách nhiễu người có việc đến cơ quan nhà nước.
Giải quyết cụ thể chế độ sở hữu và trách nhiệm quản lý tài sản của doanh nghiệp nhà nước, xây dựng nền nếp quản lý, kiểm tra tài chính doanh nghiệp.
Tích cực giải quyết việc làm và cải cách tiền lương.
Kiện toàn và làm trong sạch các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật.
Những biện pháp này đã được đề ra nhiều lần. Điều quan trọng là tổ chức phối hợp giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong một chương trình hành động cụ thể, đưa lại kết quả thiết thực.
Các vấn đề nêu trên được tập trung giải quyết không những thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1992 mà còn góp phần chuẩn bị tích cực cho năm 1993.
Sau hai năm phấn đấu vượt qua thử thách gay gắt, năm 1993, là năm bản lề của kế hoạch năm năm phải củng cố vững chắc hơn sự ổn định chính trị và môi trường kinh tế vĩ mô, đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, giải quyết tích cực hơn các vấn đề xã hội cấp bách.
Trên cơ sở định hướng của chiến lược đến năm 2000 và kế hoạch năm năm 1991 - 1995 và phân tích, dự đoán các khả năng mới, kế hoạch năm 1993 của các ngành, các cấp và của toàn bộ nền kinh tế phải cụ thể hóa mục tiêu và hướng phát triển ưu tiên, chuẩn bị các dự án đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế. Yêu cầu quan trọng nhất trong việc xây dựng kế hoạch 1993 là phải đi vào các giải pháp cụ thể bảo đảm thực hiện mục tiêu, phương hướng đã đề ra, trong đó chú trọng:
Tạo nguồn và khơi luồng vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn để xây dựng các công trình then chốt.
Phân tích và dự báo thị trường, khai thông việc tiêu thụ sản phẩm.
Bố trí chặt chẽ các cân đối tài chính và cân đối vật tư hàng hóa thiết yếu, chuẩn bị phần gối đầu cho năm sau.
Bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, hoàn chỉnh thêm một bước cơ chế mới nhằm khai thác các tiềm năng và phát triển lực lượng sản xuất.
Xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp, thể chế, thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội.
Trong phạm vi kiểm điểm tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1992 trong 9 tháng đầu năm, Báo cáo này chỉ trình bày những nét lớn và nêu một số vấn đề cần giải quyết trước mắt, không nêu tất cả các mặt hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Kết thúc năm 1992, Chính phủ sẽ báo cáo toàn diện tình hình cả năm và nhiệm vụ kế hoạch năm 1993 trình Quốc hội xem xét trong kỳ họp sau.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội