VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 1 1992-1993

 

TỜ TRÌNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VỀ DỰ ÁN LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN

(Do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Phạm Hưng
đọc tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX, ngày 19-9-1992)

Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội khóa VII thông qua ngày 03-7-1981 và được sửa đổi, bổ sung (một số điều) theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân do Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 22-12-1988.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao xin trình Dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân để Quốc hội xem xét và quyết định.

Trong quá trình soạn thảo Dự án Luật này, Tòa án nhân dân tối cao đã dựa trên các căn cứ sau đây:

- Quan điểm của Đảng ta về đổi mới hệ thống chính trị (như Nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó…);

- Hiến pháp năm 1992;

- Sự kế thừa các Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, năm 1981;

- Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án trong hơn 45 năm qua, đặc biệt là từ năm 1981 đến nay.

Dự án Luật này đã được Tòa án nhân dân tối cao, tất cả các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự các cấp thảo luận nhiều lần. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã tổ chức nhiều cuộc họp để đại diện các cơ quan Trung ương và các cơ quan chủ chốt ở các địa phương (như các Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc của tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) góp ý kiến. Ủy ban pháp luật của Quốc hội đã thẩm tra Dự án Luật này tại các phiên họp trong các ngày 05-11-1991, 13 và 17-02-1992, 20-3-1992, 12 và 14-7-1992. Hội đồng Nhà nước tại phiên họp ngày 26-5-1992 đã xem xét và cho ý kiến về Dự án Luật này. Hội nghị các Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương họp từ ngày 10 đến 12-8-1992 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng triệu tập đã góp ý kiến về Dự án Luật này.

Tiếp thu ý kiến của các cơ quan nói trên, Tòa án nhân dân tối cao đã chính lý thành Dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân trình Quốc hội khóa IX xem xét và quyết định.

Sau đây, Tòa án nhân dân tối cao xin trình một số nội dung
cụ thể:

I- VỀ CƠ CẤU CỦA DỰ ÁN LUẬT

1. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 có 4 chương, nay Dự án Luật có 6 chương:

- Phần lớn nội dung của Chương I Luật năm 1981 về những nguyên tắc cơ bản và những quy định chung được chuyển sang Chương I của Dự án Luật.

- Chương II của Luật năm 1981 quy định về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân địa phương được tách thành hai chương trong Dự án Luật là Chương II về Tòa án nhân dân tối cao và Chương III về các Tòa án nhân dân địa phương.

- Phần lớn nội dung của Chương III và Chương IV của Luật năm 1981 được chuyển sang Chương V và Chương VI của Dự án Luật.

- Bổ sung một chương mới là Chương IV về các Tòa án quân sự.

2. Dự án Luật có 47 điều:

a) Dự án Luật bỏ các quy định tại các điều 11, 12, 15, 27a, 38 của Luật năm 1981 vì:

- Điều 11 Luật năm 1981 về quyền kháng cáo, kháng nghị, Điều 12 Luật năm 1981 về việc xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật là những quy định thuần túy về tố tụng nay đã được pháp luật về tố tụng quy định, nên không cần quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân thành những điều riêng biệt.

- Nội dung Điều 15 Luật năm 1981 về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, nay đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

- Quy định tại Điều 27a Luật năm 1981 về nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án quân sự cấp cao nay để quy định đầy đủ hơn trong Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự.

- Nội dung Điều 38 Luật năm 1981 về thư ký và chuyên viên pháp lý của Tòa án nay được quy định tại các điều 19, 29 và 33 của Dự án Luật.

b) Trong Dự án Luật có bổ sung một số quy định mới tại các điều 35, 36, 37, 43, 45 vì các lý do sau đây:

- Các quy định tại các điều 35, 36, 37 của Dự án Luật là những quy định chung về các Tòa án quân sự làm cơ sở cho việc sửa đổi Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự sau này.

- Quy định tại Điều 43 là cơ sở để Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về Quy chế Thẩm phán, Hội thẩm và Chấp hành viên, trong đó sẽ quy định cụ thể tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, Chấp hành viên, bầu, cử các Hội thẩm, các quyền và nghĩa vụ của họ.

- Quy định tại Điều 45 là căn cứ để các Tòa án có kinh phí hoạt động.

Các vấn đề nêu trên, qua nhiều lần thảo luận đã có sự nhất trí cao của các cơ quan Trung ương và các cơ quan chủ chốt ở địa phương.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
ĐÃ ĐƯỢC NHẤT TRÍ

Phần lớn các điều của Dự án Luật kế thừa nội dung của Luật hiện hành nhưng có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tinh thần đổi mới hoặc sửa về khái niệm, câu chữ cho chính xác hơn như:

1. Đoạn 1 Điều 1: Luật hiện hành quy định: “Các Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nay sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Điều 127 Hiến pháp năm 1992 như sau: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do Luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Điều 4 về Hội thẩm: Luật hiện hành chỉ quy định: “Việc xét xử ở Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia”, nay bổ sung thêm như sau: “Việc xét xử của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật tố tụng”. Luật hiện hành quy định chế độ bầu Hội thẩm, nay bổ sung thêm quy định mới về chế độ cử Hội thẩm để áp dụng đối với các Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao và các Hội thẩm quân nhân.

Điều 5 về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, nay bổ sung thêm quy định mới là “không một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm”. Việc bổ sung quy định này nhằm cụ thể hóa thêm nội dung của quy định cũ, bảo đảm cho Thẩm phán và Hội thẩm không bị các sức ép khi xét xử. Điều 3 Pháp lệnh Trọng tài kinh tế và Điều 3 Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân cũng đã có các quy định tương tự như vậy đối với Trọng tài viên và Thanh tra viên.

2. Về chế độ bầu, cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm (Điều 40):

Theo Luật năm 1981 thì các Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao và các Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự Trung ương do Hội đồng Nhà nước cử. Dự án Luật, đề nghị để Ủy ban thường vụ Quốc hội cử và miễn nhiệm, bãi nhiệm các Hội thẩm này.

Đối với các Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương thì vẫn do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và miễn nhiệm, bãi nhiệm như quy định của Luật hiện hành.

Theo Luật năm 1981 thì Hội thẩm quân nhân của các Tòa án quân sự quân khu và khu vực do các đơn vị trong lực lượng vũ trang nhân dân bầu ra. Thực tiễn cho thấy, việc bầu Hội thẩm quân nhân không phù hợp với tổ chức và cơ chế trong quân đội. Do đó, Dự án Luật đề nghị là Hội thẩm quân nhân của các Tòa án quân sự quân khu và khu vực do Chủ nhiệm Chính trị cấp trên cử và miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Nhiệm kỳ của các Hội thẩm quy định thống nhất là năm năm, tương đương với nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Trên cơ sở đó, Điều 40 của Dự án Luật có nội dung như sau:

“Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và do Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự Trung ương do Ủy ban thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và do Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của Cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục và cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực do Chủ nhiệm Chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục và cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của Cơ quan chính trị sư đoàn và cấp tương đương và do Chủ nhiệm Chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục và cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân là năm năm.

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp”.

3. Về thành phần Hội đồng Thẩm phán (Điều 20):

Theo Điều 24 Luật hiện hành thì thành phần Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có: Chánh án, các Phó Chánh án, các Chánh Tòa, Phó Chánh Tòa các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao, các Thẩm phán Tòa hình sự và Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao và một số Thẩm phán Tòa án quân sự cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cử. Nay xét thấy, việc quy định tất cả Thẩm phán Tòa hình sự và Tòa dân sự đều là thành viên của Hội đồng Thẩm phán, còn tất cả các Thẩm phán ở các Tòa phúc thẩm lại không có ai tham gia Hội đồng Thẩm phán là không hợp lý. Do đó, tại Điều 20 của Dự án Luật đã quy định lại như sau:

“Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các Chánh Tòa, Phó Chánh Tòa của Tòa án nhân dân tối cao và một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ định”.

4. Về nhiệm vụ của Chánh án (Điều 26 và Điều 32):

Về nhiệm vụ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được bổ sung thêm một số điểm về tổ chức việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Hội thẩm và cán bộ Tòa án, chỉ đạo việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh mà Tòa án nhân dân tối cao được phân công soạn thảo (Điều 26 của Dự án Luật).

Về nhiệm vụ của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng được bổ sung việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Hội thẩm và cán bộ Tòa án (Điều 32).

5. Về các Tòa án quân sự (Chương 4):

Dự án Luật bổ sung một chương mới gồm các điều 34, 35, 36, trong đó quy định những vấn đề chung nhất và có tính chất đặc thù của các Tòa án quân sự như vấn đề đổi tên “Tòa án quân sự cấp cao” thành “Tòa án quân sự Trung ương” cho thống nhất với tên gọi của Viện kiểm sát quân sự Trung ương; xác định Chánh án Tòa án quân sự Trung ương là Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Sau khi Dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua, Tòa án nhân dân tối cao sẽ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Dự án Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự, trong đó sẽ quy định đầy đủ, cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của các Tòa án quân sự các cấp.

III- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU

1. Về chế độ bổ nhiệm Thẩm phán (Điều 39):

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; các Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (trong đó có Chánh án, các Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương) do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; còn việc bổ nhiêm, miễn nhiệm và cách chức các Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự quân khu và khu vực thì Hiến pháp chưa quy định mà giao cho Luật quy định. Vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng qua nhiều lần thảo luận, đến nay, đa số ý kiến đề nghị chọn phương án Chủ tịch nước bổ nhiệm tất cả các Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán các Tòa án địa phương và các Tòa án quân sự, vì các Thẩm phán Tòa án các cấp khi xét xử đều nhân danh nhà nước, đồng thời, để đề cao vị trí và uy tín chính trị cho các Thẩm phán. Tuy nhiên, cũng còn băn khoăn là Chủ tịch nước sẽ mất nhiều thời gian cho loại công việc này nên đề nghị: Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức các Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự các cấp. Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán các Tòa án nhân dân cấp huyện. Chúng tôi xin trình cả hai phương án để Quốc hội xem xét và quyết định.

Thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

Nhiệm kỳ của Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự là năm năm.

Tòa án nhân dân tối cao đang soạn thảo Dự án Pháp lệnh về quy chế Thẩm phán để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành sau khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua. Trong quy chế Thẩm phán sẽ quy định cụ thể về tiêu chuẩn Thẩm phán, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán. Sau này, việc đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán sẽ căn cứ vào danh sách đã được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán tuyển chọn. Thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn và thể thức hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán sẽ được quy định trong Quy chế Thẩm phán do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành.

2. Vấn đề quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức:

Đây là vấn đề gay cấn nhất. Qua nhiều lần thảo luận và lấy ý kiến các cơ quan Trung ương và các cơ quan chủ chốt ở địa phương thì thấy rằng: hầu hết các Tòa án địa phương và đa số các cơ quan chủ chốt ở địa phương cũng như các cơ quan Trung ương đều thấy là nên để Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức là hợp lý. Ủy ban pháp luật Quốc hội khóa VIII trong phiên họp ngày 14-7-1992 và Hội đồng Nhà nước tại các phiên họp ngày 26-6-1992 và 30-7-1992 cũng đề nghị nên sửa Điều 16 giao việc quản lý Tòa án địa phương về mặt tổ chức cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nhưng cũng có những ý kiến đề nghị để Bộ Tư pháp tiếp tục quản lý. Theo lời phát biểu của đồng chí Chủ tịch Quốc hội khóa VIII tại phiên họp trù bị ngày 16-9-1992, thì Hội đồng Nhà nước đề nghị việc quản lý Tòa án địa phương vẫn giao cho Bộ Tư pháp như hiện nay. Vì vậy, chúng tôi xin trình Quốc hội hai phương án để Quốc hội xem xét và quyết định.

Phương án 1: giữ nội dung của Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, tức là việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó, nhưng cần bổ sung nội dung mới là “Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”.

Phương án 2: bỏ Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981.

Chúng tôi xin trình Quốc hội ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này như sau:

a) Nội dung quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức bao gồm các vấn đề như: tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ; bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động cho các Tòa án; thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ. Tóm lại, nội dung chủ yếu của vấn đề quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức là vấn đề cán bộ và kinh phí hoạt động.

Đối với bất cứ ngành nào, cơ quan nào, muốn hoàn thành được nhiệm vụ chính trị, thì cần phải có tổ chức. Việc quản lý tổ chức phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Người chịu trách nhiệm về nhiệm vụ chính trị của ngành Tòa án nhưng lại không quản lý tổ chức các Tòa án địa phương thì không có gì bảo đảm cho việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị đó.

Do đặc thù của ngành Tòa án, nhiệm vụ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thẩm phán được giao cho Chủ tịch nước (và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, nếu Quốc hội quyết định theo phương án hai của Điều 39 Dự án Luật). Nhưng việc quản lý các mặt khác về tổ chức (trừ việc bổ nhiệm Thẩm phán) thì vẫn phải do Thủ trưởng cơ quan là Chánh án trực tiếp thực hiện. Chánh án phải biết phẩm chất và năng lực của từng Thẩm phán và cán bộ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm v.v..

Trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án cấp tỉnh thông qua các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình như xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, thanh tra, kiểm tra, chỉ đạo nghiệp vụ, v.v. có điều kiện hiểu rõ và nắm vững tình hình cán bộ, nhu cầu về biên chế, trụ sở, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, do đó, có thể phối hợp với các cơ quan hữu quan ở địa phương và Trung ương giải quyết kịp thời các yêu cầu đó để các Tòa án địa phương có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị.

Ngành Tư pháp trong cùng một lúc vừa phải chăm lo về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí cho các cơ quan Tư pháp, lại vừa phải chăm lo về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí cho các Tòa án địa phương thì không thể làm tốt việc chăm lo cho các Tòa án địa phương được.

Việc các cơ quan tư pháp quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức còn dẫn đến tình trạng là ngành Tư pháp có những việc làm trùng lặp, chồng chéo với việc làm thuộc nhiệm vụ của ngành Tòa án như kiểm tra công tác xét xử của các Tòa án địa phương. Còn các Tòa án địa phương thì phải chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, phải báo cáo công tác, phải đi họp sơ kết, tổng kết công tác với cấp trên của cả hai ngành. Tất cả những việc đó đã gây mất nhiều thời gian và tốn kém không cần thiết cho các Tòa án địa phương.

b) Việc giao cho các cơ quan tư pháp quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức cũng không phù hợp với quan điểm của Đảng ta và Hiến pháp nước ta:

- Quan điểm của Đảng ta là cơ quan nào quản lý công việc thì cơ quan đó quản lý cán bộ. Quan điểm này đã được xác định trong Quyết định số 23/QĐ-TW ngày 24-11-1987 của Bộ Chính trị là “Trách nhiệm quản lý cán bộ phải gắn với trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Phải xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ chính trị để bố trí, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đồng thời thông qua việc thực hiện nhiệm vụ chính trị để quản lý cán bộ. Cơ quan nào chịu trách nhiệm trước cấp ủy về quản lý công việc thì đồng thời có trách nhiệm trước cấp ủy về quản lý cán bộ”.

Tách rời việc quản lý cán bộ với quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị là trái với Quyết định nói trên của Đảng.

- Điều 112 của Hiến pháp năm 1992 về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ và Điều 114 của Hiến pháp năm 1992 về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ đều không quy định về việc Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức. Do đó, nếu giao cho các cơ quan Tư pháp thuộc Chính phủ quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức là trái với Hiến pháp.

c) Có ý kiến cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức thì sẽ hình thành hệ thống khép kín. Theo chúng tôi, tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án có sự lãnh đạo của Đảng (trực tiếp là cấp ủy cùng cấp), sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; ngoài ra còn có sự kiểm sát rất chặt chẽ của các Viện kiểm sát, sự tham gia tố tụng của luật sư và nhiều người khác. Do đó, tổ chức và hoạt động của Tòa án không thể khép kín được.

Trong công tác cán bộ của ngành Tòa án thì quan trọng nhất là việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Sau này, việc tuyển chọn chủ yếu do các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán thực hiện, việc bổ nhiệm Thẩm phán do Chủ tịch nước thực hiện. Việc đào tạo kiến thức pháp lý cho cán bộ Tòa án chủ yếu do các trường và khoa pháp lý của trường đại học đảm nhiệm, còn việc quy hoạch cán bộ, bồi dưỡng toàn diện về mọi mặt cũng như việc đánh giá phẩm chất, năng lực cán bộ, việc bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Tòa án thì không ai làm tốt bằng chính ngành Tòa án. Nếu Luật tổ chức Tòa án nhân dân vẫn giao cho Bộ Tư pháp quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức thì không tránh khỏi sự lủng củng và không quy được trách nhiệm rõ ràng khi các Tòa án địa phương không hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, vì nhiệm vụ chính trị do cán bộ thực hiện, nhưng cán bộ thì lại do ngành khác quản lý.Vấn đề này không phải chỉ ngành Tòa án thấy rõ, mà nhiều ngành khác và nhiều cơ quan chủ chốt ở địa phương cũng đã thấy rõ, nhiều đoàn kiểm tra của Hội đồng Nhà nước trong những năm gần đây cũng đã thấy rõ và đã báo cáo với Hội đồng Nhà nước về vấn đề này.

Trước đây, trong quá trình thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp cũng đã có ý kiến là cần “đổi mới việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương sao cho các Tòa án nhân dân địa phương không bị phụ thuộc nhiều vào các cơ quan hành chính về tổ chức, cán bộ, tiền lương, kinh phí hoạt động … như hiện nay. Do đó, cần xem xét sửa đổi Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, giao việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về tổ chức cho Tòa án nhân dân tối cao” (xem trang 2 bản giải trình về Dự thảo sửa đổi các điều về Tòa án nhân dân, ngày 31-12-1990 của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp).

d) Có ý kiến cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức thì có thể khó thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Theo chúng tôi, quy định nguyên tắc này là để khi xét xử, các Thẩm phán và Hội thẩm có quyền và có trách nhiệm căn cứ vào quy định của pháp luật, đối chiếu với các tình tiết và các chứng cứ của vụ án để giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan và công minh; không ai được can thiệp trái pháp luật vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Nhưng Thẩm phán và Hội thẩm cũng không được để cho bất cứ lý do gì chi phối làm ảnh hưởng đến tính đúng đắn, khách quan và công minh đối với các phán quyết của mình.

Nhưng nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập…” không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng và sự hướng dẫn của Tòa án cấp trên, nhất là của Tòa án nhân dân tối cao, vì sự lãnh đạo của Đảng và sự hướng dẫn của Tòa án cấp trên là để bảo đảm cho các Thẩm phán và Hội thẩm phát huy quyền độc lập xét xử và xét xử được đúng pháp luật. Hơn nữa, trong điều kiện nước ta hiện nay và trong những năm tới, khi mà hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ và chưa hoàn chỉnh, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm còn có những mặt hạn chế, nên sự hướng dẫn của Tòa án cấp trên là rất cần thiết để giúp cho các Tòa án cấp dưới xét xử được đúng pháp luật, tránh được nhiều hậu quả do xét xử sai gây ra.

Việc hướng dẫn của Tòa án cấp trên đối với các Tòa án cấp dưới là theo quy định của pháp luật. Điều 20 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 đã quy định: “Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử…”.

Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 6 tháng 12 năm 1988 đã nhấn mạnh là: “Tòa án nhân dân tối cao phải tăng cường công tác… hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp xét xử kịp thời và nghiêm minh những vụ án hình sự nghiêm trọng và những việc tranh chấp dân sự phức tạp…” sự hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu là bằng các văn bản hướng dẫn chung như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán, thông tư … Nhưng đối với một số vụ án mà Tòa án cấp dưới thấy có khó khăn, vướng mắc, tự mình không thể giải quyết tốt được nên đã yêu cầu Tòa án cấp trên hướng dẫn thì Tòa án cấp trên có trách nhiệm góp ý kiến. Tòa án cấp trên chỉ góp ý kiến về phương hướng và cách giải quyết chứ không ra lệnh hay áp đặt quyết định của mình đối với Tòa án cấp dưới. Tòa án cấp dưới hoàn toàn độc lập khi xét xử, toàn quyền quyết định việc xử lý và tự chịu trách nhiệm về mọi quyết định của mình.

Việc hướng dẫn các Tòa án địa phương áp dụng pháp luật và đường lối xét xử, dù Tòa án nhân dân tối cao có quản lý hay không quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức, thì Tòa án nhân dân tối cao vẫn phải làm, không một cơ quan nào có thể làm thay được.

d) Các Tòa án nhân dân địa phương đã trải qua thời kỳ Tòa án nhân dân tối cao quản lý cả tổ chức và nhiệm vụ (từ 1960 đến 1981) và thời kỳ Bộ Tư pháp quản lý về mặt tổ chức (từ 1982 đến nay) nên hiểu rõ hơn ai hết việc Bộ Tư pháp hay Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức thì tốt hơn. Nguyện vọng chung của hầu hết các Tòa án nhân dân địa phương là mong muốn được Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương cả về nhiệm vụ chuyên môn và tổ chức, cán bộ.

Với các căn cứ nói trên, chúng tôi xin trình Quốc hội phương án bỏ quy định tại Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, giao trở lại cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức để tạo thuận lợi cho việc xây dựng ngành Tòa án ngày càng vững mạnh đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phương án này được thể hiện ở các điều 26, 32, 39, 41 và 44 của Dự án Luật (trong khung).

Chúng tôi rất mong được Quốc hội thảo luận cho ý kiến để chúng tôi sửa chữa, bổ sung hoàn chỉnh Dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân để Quốc hội xem xét và quyết định.

 

CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
PHẠM HƯNG


 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội