PHÁT HUY ĐÀ CHUYỂN BIẾN TỐT CỦA NĂM 1992,
ĐẨY NHANH NHỊP ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1993
(Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Võ Văn Kiệt
trình bày tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa IX, ngày 10-12-1992)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 1993, trong đó đã kiểm điểm tình hình thực hiện các nhiệm vụ do kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa VIII đề ra cho năm 1992, đã phân tích các thuận lợi, khó khăn trước mắt và kiến nghị nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng phát triển cùng với các chính sách, giải pháp lớn đối với toàn bộ nền kinh tế và từng ngành chủ yếu trong năm 1993.
Trong bản báo cáo này, tôi xin trình bày một số nhận định tổng quát và những chủ trương quan trọng.
1. Cục diện mới về kinh tế - xã hội
Năm 1992 kết thúc với thắng lợi tương đối toàn diện về kinh tế, là năm đầu tiên chúng ta đạt và thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu đã được Quốc hội thông qua.
So với năm 1991, thu nhập quốc dân năm 1992 tăng khoảng 5,3%; sản lượng công nghiệp tăng 14,5 - 15%; sản lượng nông nghiệp tăng 4,4%; sản lượng lương thực đạt khoảng 24 triệu tấn, tăng 9%; đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước tăng 25%; đầu tư trực tiếp của nước ngoài được thực hiện tăng 73%; thu ngân sách trong nước tăng 82%; xuất khẩu tăng 19%.
Năm 1991, chúng ta đã trụ được trước thử thách hết sức gay gắt khi nền kinh tế chưa ra khỏi khủng hoảng và lạm phát, lại bị cắt đứt nguồn viện trợ to lớn của Liên Xô (cũ) và Mỹ vẫn duy trì cấm vận. Năm 1992, chúng ta càng khẳng định khả năng và bản lĩnh vượt qua thử thách đó. Nền kinh tế đã tự trang trải được các nhu cầu thiết yếu về vật tư, hàng hóa bằng sức của mình và thông qua trao đổi mậu dịch với bên ngoài. Những trở ngại do chính sách cấm vận của Mỹ gây ra không bao vây, cô lập được nước ta, không ngăn cản được các nước mở rộng quan hệ với Việt Nam. Xuất khẩu hai năm qua tăng nhanh mặc dù quan hệ kinh tế - thương mại với thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu giảm sút đột ngột. Từ khi có Luật đầu tư, đã có 40 nước đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với số vốn đăng ký theo dự án được cấp giấy phép trên 5 tỷ đôla Mỹ; riêng năm 1992, gấp hơn 2 lần năm trước, và có những dự án tương đối lớn (ngoài dầu khí) được đầu tư ở cả miền Nam và miền Bắc.
Vừa đương đầu và vượt qua thử thách mới, chúng ta vừa đẩy lùi một bước quan trọng lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Nếu như năm 1990 và năm 1991, còn lạm phát ở mức gần 70% mỗi năm (tức là bình quân một tháng 4,4%), thì năm 1992, đã kéo xuống còn 15% (bình quân một tháng 1,2%); tính từ tháng 3 năm 1992 tới nay, chỉ số giá bình quân một tháng chỉ còn 0,5%. Giá trị đồng tiền và tỷ giá hối đoái đi vào ổn định. Sản xuất nông, công nghiệp và xuất khẩu tăng trưởng vượt dự kiến và đang có đà phát triển, chấm dứt thời kỳ suy thoái trong một số ngành và khu vực kinh tế. Cân đối vật tư được bảo đảm tốt hơn, dự trữ quốc gia được bổ sung, tăng thêm khả năng ứng phó với những biến động bất thường của thị trường. Giảm lạm phát đồng thời phát triển kinh tế tương đối toàn diện với nhịp độ khá cao trong hoàn cảnh đầy thử thách là một thành tựu nổi bật của năm 1992.
Các hoạt động khoa học, giáo dục, văn hóa, thông tin, y tế, thể dục thể thao, và việc thực hiện các chính sách xã hội trong năm qua cũng có những tiến bộ mới. Đời sống của nhân dân giảm bớt khó khăn, một bộ phận đông đảo được cải thiện rõ rệt; nạn di tản bằng thuyền gần như chấm dứt.
Nhà nước ta kiên trì chính sách đối ngoại cởi mở và mềm dẻo, chủ trương giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng, đã góp phần tích cực giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực. Trong tình hình an ninh, quốc phòng có những diễn biến phức tạp mới, chính sách đó đã được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi trên thế giới. Đồng thời, các biện pháp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm an ninh, quốc phòng cũng được tăng cường.
Hoạt động ngoại giao tiếp tục được mở rộng theo hướng tích cực, chủ động và kết hợp tốt hơn với quan hệ kinh tế đối ngoại và sự hợp tác quốc tế về khoa học, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao…
Những thành tựu và tiến bộ đạt được trong năm 1992 là kết quả tổng hợp của quá trình đổi mới theo đường lối, chính sách do Đảng và Nhà nước ta đề ra và ngày càng cụ thể hóa với bước đi phù hợp với điều kiện thực tế, tạo được sự đồng tình, nhất trí cao trong xã hội. Việc thể chế hóa đường lối đổi mới trong Hiến pháp ban hành năm 1992, cùng với việc bầu cử Quốc hội và thành lập Chính phủ khóa mới tăng cường thêm cơ sở chính trị ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù còn phải tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế tổ chức và quản lý, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, song mô hình mới về xây dựng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta đang hình thành ngày càng rõ nét thông qua sự kiểm nghiệm trong thực tiễn và được cuộc sống khẳng định.
Trong những nguyên nhân đưa tới thành tựu của năm 1992, cần phải kể đến kết quả của quá trình đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong những năm qua; nhờ đó, năng lực sản xuất của một số ngành quan trọng được tăng thêm, đặc biệt là lương thực, dầu thô, điện đã góp phần quyết định vào việc bảo đảm những cân đối cơ bản để duy trì và phát triển sản xuất.
Sự chỉ đạo, điều hành của hệ thống nhà nước có những tiến bộ mới, và có thêm kinh nghiệm trong việc sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô, không còn nhiều bỡ ngỡ như những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường.
Trong khi khẳng định những thành tựu và tiến bộ, chúng ta cần nhận rõ tình hình kinh tế còn có những mặt yếu, chưa ổn định, nổi lên là: hiệu quả của nền kinh tế nói chung còn kém, tỷ lệ tích lũy đầu tư còn nhỏ; năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm chế biến kém sức cạnh tranh; thị trường tiêu thụ còn hẹp, việc quản lý lại có nhiều sơ hở, kém hiệu lực, chưa ngăn chặn được buôn lậu và hàng giả, gây khó khăn lớn cho sản xuất; ngân sách còn thâm hụt lớn, lưu thông tiền tệ chưa thông suốt, thị trường vốn chậm phát triển; việc sắp xếp lại và chấn chỉnh quản lý khu vực quốc doanh, đổi mới hợp tác xã và chính sách đối với kinh tế hộ nông dân, kinh tế gia đình, kinh tế cá thể và tư nhân triển khai thực hiện chậm, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất toàn xã hội.
Đáng chú ý là tình hình xã hội chuyển biến chậm và còn tồn tại nhiều vấn đề lớn, có mặt nghiêm trọng. Trong khi chưa tạo được bước tiến rõ nét về giải quyết việc làm trong xã hội, tiền lương trong khu vực hành chính sự nghiệp, đời sống của một số vùng đồng bào dân tộc chưa chặn được sự xuống cấp của các cơ sở giáo dục, y tế, thì điều đáng lo ngại là nhiều tệ nạn xã hội phát triển, đặc biệt là tệ mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc. Những tệ nạn đó là sản phẩm của lối sống đồi trụy, chịu ảnh hưởng của văn hóa độc hại và là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới trộm cắp, tội phạm hình sự, mất an ninh xã hội.
Nhìn chung, đời sống xã hội, kể cả hoạt động của các cơ quan nhà nước chưa đi vào trật tự, kỷ cương theo pháp luật, chưa đẩy lùi được tệ tham nhũng, trốn thuế, kinh doanh gian dối.
Tình hình thực tế làm bộc lộ rõ những khó khăn, phức tạp đồng thời chỉ ra những mặt yếu kém trong sự quản lý nhà nước mà chúng ta phải khắc phục khi chuyển sang kinh tế thị trường để hạn chế tính tự phát và tác động tiêu cực của nó.
Bước vào năm 1993, chúng ta không đánh giá thấp những khó khăn còn phải vượt qua. Bên cạnh việc tiếp tục khắc phục những mặt yếu kém còn tồn tại, cần lường trước những diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, nhất là trong khu vực, luôn luôn cảnh giác với những âm mưu và hành động phá hoại, cản trở bước đi lên của ta. Song nhìn tổng quát, những chuyển biến tích cực trong những năm qua, nhất là năm 1992, đang mở ra cục diện mới về kinh tế - xã hội, tạo ra thế mới với những khả năng và cơ hội thuận lợi cho sự phát triển.
Ở trong nước, thành tựu đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng kinh tế làm vợi bớt nỗi lo thường xuyên phải bù đắp những thiếu hụt và phải đối phó với những cơn sốt về giá, tỷ giá. Chuyển biến về kinh tế đưa tới kết quả cụ thể trong đời sống làm tăng thêm niềm tin và tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Trong các ngành và các thành phần kinh tế, đã xuất hiện những nhân tố mới chứng minh còn nhiều khả năng khai thác và phát huy mạnh mẽ hơn tiềm lực của nền kinh tế.
Trong quan hệ quốc tế, hình ảnh Việt Nam thật sự đổi mới, vượt qua thử thách, đứng vững và đi lên bằng sức của mình đang gây ấn tượng tốt trong dư luận thế giới. Chính sách đối ngoại cởi mở và những lợi thế về kinh tế của đất nước ta đang thu hút sự quan tâm đầu tư, kinh doanh của nhiều nước, kể cả các công ty Mỹ.
So với một, hai năm trước đây, tuy lực của ta chưa tăng nhiều nhưng thế của ta đã khác trước. Cục diện hiện nay mở ra nhiều khả năng và cơ hội mới cho việc bổ sung những nhân tố phát triển mà chúng ta đang thiếu như vốn và công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý. Việc biến những khả năng đó thành hiện thực phụ thuộc chủ yếu vào nỗ lực chủ quan của chúng ta, trước hết là: tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách một cách đồng bộ và triệt để, phát huy mọi tiềm năng tích lũy, đầu tư trong nước, thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, tạo ra sức mạnh và các điều kiện bên trong cho phép thu hút, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Cơ hội mới không chỉ đem tới thuận lợi mà còn đặt trách nhiệm cho chúng ta phải kịp thời nắm lấy, không bỏ lỡ.
Tình hình và khả năng thực tế vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho đất nước ta mở rộng quy mô đầu tư xây dựng, đẩy nhanh hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước xung quanh, vượt ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Năm 1993, phải tiếp tục đẩy lùi khủng hoảng, kiểm soát lạm phát, tạo cơ sở vững chắc hơn cho sự ổn định kinh tế - xã hội và bảo đảm ổn định chính trị, đồng thời phấn đấu đạt một bước phát triển mới, cao hơn, tạo đà tiến lên mạnh mẽ trong những năm sau. Theo tinh thần đó, dự án kế hoạch nhà nước năm 1993 đã đề ra các nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xuất khẩu, huy động cao nhất các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn bên ngoài để tăng nhanh đầu tư phát triển, xúc tiến việc xây dựng các công trình then chốt. Những vấn đề cấp bách về đời sống và xã hội được giải quyết tích cực hơn; đồng thời chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành Giáo dục, Đào tạo, Y tế, Văn hóa, Nghệ thuật, Thông tin. Công tác đối ngoại phải tiếp tục tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Cùng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta luôn luôn chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững trật tự, an toàn xã hội. Dự toán ngân sách nhà nước năm 1993 cũng được bố trí theo hướng phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ và yêu cầu nêu trên.
Dưới đây là mấy vấn đề lớn mang ý nghĩa then chốt trong những nhiệm vụ, chính sách và giải pháp phải thực hiện trong năm 1993.
2. Triệt để tiết kiệm, khai thác mọi nguồn đầu tư phát triển
Mục tiêu chiến lược đến năm 2000 tăng gấp đôi tổng sản phẩm trong nước (GDP) so với năm 1990, đòi hỏi nền kinh tế phải được đầu tư trong 10 năm khoảng 40 tỷ đôla Mỹ, riêng năm năm 1991 - 1995, khoảng 12 - 14 tỷ. Muốn thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước chung quanh thì nhịp độ tăng trưởng còn phải cao hơn, quy mô đầu tư lớn hơn. Quy mô đó đương nhiên gắn liền với yêu cầu đầu tư có hiệu quả.
Hai năm: 1991, 1992, tính chung mọi nguồn chỉ mới đầu tư được khoảng 2 tỷ, chủ yếu là dựa vào nguồn vốn bên ngoài và thu khấu hao cơ bản. Thu nhập quốc dân sản xuất của nước ta mới chỉ trang trải được quỹ tiêu dùng, thu ngân sách trong nước cũng chỉ đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên, chưa có tích lũy. Muốn đẩy nhanh nhịp độ phát triển, phải xoay chuyển cho được tình hình này, trước hết là toàn xã hội phải ra sức tiết kiệm, mở rộng đầu tư.
Phải chăng khi thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn rất thấp, chưa thể nói đến tích lũy vốn trong nước ? Đúng là nước ta còn nghèo, song khả năng tiết kiệm để đầu tư trong toàn xã hội không nhỏ. Nhân dân ta vốn thông minh, cần kiệm, có đủ chí làm giàu. Nếu chúng ta có chính sách đúng, tạo được môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển thì mọi người sẽ bỏ tiêu pha lãng phí, ra sức tiết kiệm để làm giàu, sẽ không cất giữ vàng và đôla, sẽ đưa vốn vào sản xuất - kinh doanh sinh lợi trước khi xây nhà mới khang trang, mua sắm các đồ dùng đắt tiền, sẽ đưa công sức, trí tuệ, tiền vốn vào những hoạt động sinh lãi bằng hiệu quả thực tế chứ không chạy theo kinh doanh chụp giật, nhất thời. Mặt khác, trong khi ngân sách còn eo hẹp, chi cho đầu tư phát triển rất có hạn, thì tài sản và vốn của Nhà nước lại bị sử dụng lãng phí, bị đục khoét khá phổ biến. Sự tiêu xài hoang phí, ăn nhậu vô độ diễn ra hàng ngày trong lúc nhiều cơ sở sản xuất đang thiếu vốn, không ít người có công với nước còn chật vật về cuộc sống, nhiều trẻ em đang thiếu dinh dưỡng. Hoang phí bằng tiền của mình đã đáng trách. Song, phổ biến hiện nay là tình trạng hoang phí bằng tiền của Nhà nước hoặc đục khoét vào nguồn thu ngân sách; phải coi đó như tội phá hoại mà toàn xã hội cần lên án. Chính phủ sẽ ra lệnh cấm những khoản chi xa hoa, lãng phí trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước, trước hết là về liên hoan chè chén, quà cáp, “phong bì” trong các dịp hội họp, hội thảo, kỷ niệm, tiếp khách và tăng thuế đánh vào những mặt hàng xa xỉ, nhất là hàng xa xỉ nhập khẩu. Sự nhất trí của Quốc hội, sự đồng tình của nhân dân là yếu tố quan trọng bảo đảm cho quyết định ấy được thực hiện nghiêm chỉnh.
Cùng với các biện pháp hành chính, phải giáo dục sâu sắc lòng tự hào dân tộc và ý thức cần kiệm xây dựng đất nước. Tinh thần dân tộc và lòng yêu nước đã động viên toàn dân ta đứng lên giành độc lập, rửa nỗi nhục mất nước. Ngày nay, tinh thần ấy phải thôi thúc mọi người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài đoàn kết, hòa hợp, chung sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, dứt khoát tiến lên hiện đại, thoát ra khỏi nỗi nhục đói nghèo, quyết tránh nguy cơ bị tụt hậu. Vì sao còn đói, vì sao mà nghèo, phải làm gì để gia đình mình, đất nước mình giàu lên và có cuộc sống văn minh hơn? Câu hỏi đó phải là nỗi trăn trở của mỗi người, mỗi gia đình, của từng thôn xóm, đường phố của từng địa phương và của cả dân tộc.
Nhà nước cam kết thực hiện nhất quán và triệt để chính sách kinh tế nhiều thành phần, bảo đảm cho mọi người, mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu được tự do kinh doanh theo pháp luật, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi đồng thời hướng dẫn, hỗ trợ cho các nỗ lực đầu tư phát triển.
Chúng ta đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài nhưng lại chưa có Luật đầu tư trong nước và trong thực tế, khá nhiều cấp, nhiều ngành đã gây không ít khó khăn, phiền hà, làm giảm nhiệt tình của những nhà đầu tư trong nước. Chính sách ưu đãi đầu tư trong nước không thể thấp hơn so với đầu tư nước ngoài và trong một số lĩnh vực, phải có mức khuyến khích mạnh hơn. Chính phủ sẽ xây dựng và ban hành ngay các văn bản pháp quy (lúc đầu là văn bản dưới luật, rồi sẽ bổ sung, hoàn chỉnh thành luật trình Quốc hội) quy định rõ chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và cấp hoặc cho thuê đất đối với các hoạt động đầu tư mang lại nhiều hiệu quả, thu hút nhiều lao động, khai thác và sử dụng tốt nguồn tài nguyên của đất nước. Lợi nhuận của các doanh nghiệp đưa vào tái đầu tư được miễn thuế; những cơ sở sản xuất mới đi vào hoạt động, diện tích mới khai hoang, mới trồng rừng, trồng cây công nghiệp được miễn thuế một số năm. Đồng thời, các ngành và các địa phương phải tăng cường hướng dẫn các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư phát triển phù hợp với nhu cầu của thị trường. Vì sao lâu nay các diễn đàn, các cuộc hội thảo, các dự án gọi vốn đầu tư chỉ chú ý tới các nhà kinh doanh nước ngoài? Việc này là cần thiết và phải tiếp tục làm nhiều hơn nữa, nhưng điều không bình thường là chưa quan tâm tới các doanh nghiệp và nhà kinh doanh trong nước. Đó là một thiếu sót lớn cần phải sửa chữa ngay.
Kinh tế quốc doanh cần được tiếp tục củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, thực hiện vai trò chủ đạo bằng năng suất, chất lượng, hiệu quả, chứ không phải dựa vào bao cấp và độc quyền. Trước mắt, phải tích cực thực hiện chủ trương sắp xếp và đăng ký lại các doanh nghiệp nhà nước, chỉ đạo chặt chẽ việc thí điểm cổ phần hóa một số xí nghiệp để mở rộng từng bước. Những xí nghiệp không cần duy trì hình thức quốc doanh như một số cơ sở bán lẻ, ăn uống, khách sạn nội địa, dịch vụ thông thường thì có thể cho thuê dài hạn, chuyển nhượng cho tập thể hoặc tư nhân kinh doanh. Nhà ở do Nhà nước quản lý, trừ một số công thự cho nhu cầu cần thiết, còn thì nên hóa giá, tính cả giá đất sử dụng để bán theo chính sách thống nhất, hợp lý, ưu tiên cho những người đang ở. Những chính sách đó không chỉ thu về cho Nhà nước một số vốn để đầu tư cho những mục tiêu cần thiết mà điều quan trọng là bảo đảm cho tài sản được bảo vệ và sử dụng tốt hơn.
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân, phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung Luật đất đai, triển khai việc Nhà nước giao đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận, bổ sung đồng bộ chính sách tín dụng, chính sách khuyến nông, chính sách bảo trợ tiêu thụ nông sản để nông dân yên tâm, mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất. Tiếp tục phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân, đồng thời, đẩy mạnh việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hợp tác xã, thật sự phát huy tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ xã viên.
Đối với kinh tế cá thể, tư nhân, cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử trong chính sách cụ thể, áp dụng nguyên tắc bình đẳng trong tín dụng, khuyến khích đầu tư phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Nhà nước biểu dương và xã hội hoan nghênh những doanh nghiệp tư nhân thu hút nhiều lao động, kinh doanh có hiệu quả theo pháp luật, đóng góp nhiều cho ngân sách. Đặc biệt khuyến khích kinh tế gia đình nhằm tận dụng sức lao động và vốn vào việc cải tạo, khai thác đất vườn, phát triển chăn nuôi và các nghề tiểu thủ công, dịch vụ quy mô nhỏ, đa dạng.
Mọi nguồn vốn dù nhỏ của nhân dân cần được huy động vào sản xuất kinh doanh, trở thành vốn sống sinh lời bằng nhiều hình thức: người có vốn tự đầu tư hoặc góp cổ phần, mua cổ phiếu, hoặc gửi quỹ tiết kiệm, đóng quỹ bảo hiểm.
Trong năm 1993, cần xúc tiến hình thành và phát triển thị trường vốn mà nòng cốt là các ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại (kể cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài) thật sự hoạt động theo phương thức kinh doanh, thu hút vốn để cho vay với lãi suất theo cơ chế thị trường. Ngân hàng phải tìm mọi biện pháp đáp ứng nhu cầu vay vốn để phát triển của các thành phần kinh tế, mở rộng dần các hình thức cho vay trung hạn, dài hạn, trường hợp cần thiết có thể vay vốn nước ngoài để cho vay trong nước theo lãi suất chấp nhận được. Cần khắc phục sớm tình trạng ngoại tệ được gửi ra ngân hàng nước ngoài để hưởng lãi trong khi các cơ sở trong nước rất thiếu vốn, thậm chí phải đi vay lãi rất nặng. Nơi nào còn nạn cho vay nặng lãi trong nhân dân thì đó là tội của ngân hàng nơi đó.
Bằng các chính sách và biện pháp đó, năm 1993, phải đánh dấu một bước phát triển mạnh về tỷ lệ tích lũy đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân. Điều đó không mâu thuẫn mà ngược lại, tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài.
Chúng ta đang đứng trước các khả năng mới, to lớn hơn để tranh thủ vốn viện trợ phát triển của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nhà kinh doanh nước ngoài. Tuy nhiên, các khả năng đó chỉ trở thành hiện thực và đưa lại hiệu quả tốt khi chúng ta khẩn trương chuẩn bị và tạo các điều kiện cần thiết như: giải quyết nợ của quỹ tiền tệ quốc tế và các khoản nợ nước ngoài đến hạn trả để khai thông việc thu hút vốn bên ngoài; quy hoạch các địa bàn trọng điểm để có căn cứ khoa học cho việc bố trí các công trình quan trọng, tránh những sai lầm gây hậu quả lâu dài; chuẩn bị các dự án đầu tư được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên căn cứ vào tầm quan trọng, khả năng giải quyết vốn và mức độ chuẩn bị; cải thiện môi trường đầu tư; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đáp ứng kịp yêu cầu mở rộng kinh tế đối ngoại; xác định cơ chế và trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, hoàn trả đúng thời hạn về phía người nhận vốn đối với mọi nguồn vốn ngoài nước, đặc biệt là vốn vay.
Cơ chế đầu tư cũng cần đổi mới để bảo đảm hiệu quả và khả năng trả nợ. Ngân sách nhà nước chỉ cấp phát vốn đầu tư cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng không thu hồi được vốn và phải thực hiện nghiêm ngặt, kiểm soát chặt chẽ quy trình đầu tư, ngăn chặn thất thoát và lãng phí. Đối với các công trình xây dựng cở sở hạ tầng có thể thu hồi một phần hoặc toàn bộ vốn, Nhà nước đầu tư một phần để hỗ trợ, còn chủ yếu là huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước, kể cả hình thức vay vốn hoặc gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, cho phép thu phí để hoàn vốn và bảo đảm việc chuyển đổi ra ngoại tệ cho số tiền trả nợ nước ngoài hoặc số tiền nhà đầu tư nước ngoài được chuyển về nước theo Luật đầu tư. Phải triển khai mạnh theo hướng này để xây dựng nhanh kết cấu hạ tầng. Các công trình sản xuất, kinh doanh do trong nước hoặc nước ngoài đầu tư phải dựa hoàn toàn vào vốn tự có, vốn góp cổ phần hoặc vốn vay. Nhà nước không cấp phát nhưng có thể hỗ trợ cho những công trình cần thiết bằng một phần vốn tín dụng ưu đãi.
Trong kế hoạch đầu tư năm 1993, các công trình trọng điểm quốc gia có tầm quan trọng đặc biệt để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển theo mục tiêu chiến lược đến năm 2000. Đối với những công trình trọng điểm nhất thiết phải làm năm nay thì phải tìm cho được nguồn vốn để đầu tư. Trường hợp cần thiết, phải vay để đầu tư nếu bảo đảm hiệu quả và khả năng trả nợ. Báo cáo kế hoạch đã nêu danh mục các công trình này và giải trình về từng công trình mới quan trọng nhất cần xin ý kiến Quốc hội như thủy điện Yaly, đường ống dẫn khí, nhà máy phân đạm, cảng nước sâu ở phía Bắc và phía Nam, một số công trình giao thông huyết mạch.
3. Kiểm soát lạm phát, ổn định tài chính tiền tệ
Trên cơ sở những chuyển biến tốt của năm 1992, chúng ta cần tiến thêm một bước quyết định trong lĩnh vực này để thúc đẩy quá trình hình thành đồng bộ kinh tế thị trường, sử dụng tốt công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhất và tạo môi trường ổn định cho đầu tư phát triển.
Năm 1993, có thể và cần phải tiếp tục hạ thấp tốc độ lạm phát xuống dưới 15%, phấn đấu sớm đi tới mức dưới hai con số, bảo đảm sức mua thực tế của tiền lương theo chế độ mới sẽ áp dụng trong năm, đồng thời giảm rủi ro, bất trắc về mặt bằng giá đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Giải pháp quan trọng nhất là cân đối ngân sách theo phương thức mới đi đôi với đổi mới chính sách tiền tệ.
Mặc dù ngân sách năm 1993 phải đáp ứng nhiều khoản chi lớn nhưng chúng ta kiên quyết không phát hành tiền để chi mà phải dựa vào tăng thu và các nguồn vay. Hiện nay, tỷ lệ thu ngân sách so với tổng sản phẩm trong nước còn rất thấp, song hướng tăng thu không phải là nâng thuế suất mà chủ yếu là cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, hợp lý, vừa dễ thu, vừa kích thích sản xuất kinh doanh để mở rộng nguồn thu. Năm 1993, phải áp dụng thuế trị giá gia tăng trong một số lĩnh vực có điều kiện và rút kinh nghiệm mở rộng dần, điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu, thuế xăng dầu, xây dựng lại các loại thuế trước bạ, mua bán, kế thừa tài sản… Thiết lập kỷ luật tài chính doanh nghiệp, phát triển các dịch vụ kế toán, kiểm toán. Bài trừ tham nhũng trong hệ thống thu thuế đi đôi với ngăn chặn buôn lậu.
Trong cân đối ngân sách, các khoản chi thường xuyên phải dựa hoàn toàn vào nguồn thu các loại thuế và phí, cùng với nguồn viện trợ không hoàn lại cho nhu cầu tiêu dùng. Dứt khoát không vay để chi thường xuyên. Phải phấn đấu tạo nguồn thu trong nước không những đủ trang trải chi thường xuyên mà còn dư để trả nợ và đầu tư phát triển. Năm 1993, chi thường xuyên có nhiều nhu cầu lớn, cấp bách như thực hiện chế độ lương mới, bảo đảm mức chi cần thiết cho quốc phòng, an ninh đáp ứng tốt hơn yêu cầu về giáo dục, văn hóa, y tế và chính sách xã hội. Do đó, phần trả nợ nước ngoài, hầu hết là nợ lưu cữu từ trước, còn phải dựa vào nguồn vay. Chi cho phát triển, ngoài phần sử dụng thu khấu hao cơ bản, chủ yếu cũng phải vay trong và ngoài nước. Chúng ta phải nâng cao hiểu biết về cơ chế tài chính quốc tế để lựa chọn các nguồn vay, có quy chế chặt chẽ về sử dụng vốn vay để bảo đảm hiệu quả và khả năng trả nợ.
Đối với ngân sách địa phương, cần giao cụ thể, ổn định các khoản thu và nhiệm vụ chi. Khoản thu nào giao cho địa phương, thì địa phương được giữ toàn bộ, kể cả khi tăng thu vượt kế hoạch. Xóa bỏ việc định tỷ lệ điều tiết hàng năm đối với từng địa phương. Tất cả các địa phương đều phải phấn đấu hết mức để tự cân đối thu chi, ít nhất cũng phải tự trang trải được nhu cầu chi thường xuyên của mình, và có phần đóng góp nhiều cho Trung ương. Ngân sách Trung ương chỉ hỗ trợ thêm cho một số ít địa phương đặc biệt khó khăn, chủ yếu là bổ sung chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi.
Chính sách tiền tệ phải được tiếp tục đổi mới nhằm mục tiêu vừa ổn định mặt bằng giá và tỷ giá hối đoái, vừa bảo đảm đủ phương tiện thanh toán cho lưu thông hàng hóa và dịch vụ thông suốt, không để xảy ra ách tắc. Việc điều hòa khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông phải chuyển từ cách ấn định trước theo kế hoạch chủ quan sang xử lý linh hoạt theo tín hiệu của thị trường; dùng các công cụ quản lý nghiệp vụ ngân hàng để tăng hay giảm việc cung ứng tiền tệ thay cho sự can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính.
Cơ chế và chính sách mới về tiền tệ đòi hỏi phải phân biệt dứt khoát chức năng của Ngân hàng Trung ương và của các ngân hàng thương mại theo Pháp lệnh đã ban hành. Là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, Ngân hàng Trung ương có nhiệm vụ chính là ổn định giá và tỷ giá, là người cho vay cuối cùng trong hệ thống tín dụng, không có chức năng kinh doanh. Việc kinh doanh tiền tệ, tín dụng thuộc chức năng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng này phải thật sự chuyển sang hạch toán kinh doanh, mở rộng hoạt động theo phương hướng đã nói ở phần trên. Xúc tiến việc cải tổ hệ thống ngân hàng theo Pháp lệnh, đổi mới đồng bộ từ cơ chế, tổ chức bộ máy đến phương thức hoạt động, xác định mối quan hệ theo đúng chức năng giữa Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại, giữa ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp và nhân dân.
Hiện nay, đã có khả năng áp dụng cơ chế mua bán ngoại tệ bình thường và duy trì một tỷ giá thực tế, ổn định. Đó là cơ sở để thực hiện nguyên tắc trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam; ngoại tệ không còn là phương tiện thanh toán trong nước, các doanh nghiệp không nhất thiết phải có xuất mới có nhập. Như vậy, chính sách tiền tệ của ta mới thật sự chủ động, từng bước làm cho tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi được. Đây là tiền đề quan trọng làm cho thị trường trong nước thông suốt với thị trường thế giới, tạo thuận lợi lớn cho đầu tư phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại.
4. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa, xã hội
Sắp tới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng sẽ họp bàn về văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, y tế, kế hoạch hóa gia đình, xác định những quan điểm, phương hướng cần quán triệt trong các lĩnh vực này. Về phần Nhà nước, Chính phủ có trách nhiệm trong việc xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách để mở rộng các hoạt động đó, bằng nguồn kinh phí của Nhà nước và bằng nhiều nguồn khác, kể cả từ nước ngoài; trong đó hết sức chú trọng phát huy khả năng tham gia hoạt động và đóng góp của các tập thể và cá nhân.
Ở đây, tôi xin báo cáo với Quốc hội về một số vấn đề rất bức xúc về văn hóa, xã hội.
Chúng ta khẳng định nền văn hóa dân tộc là thành quả kết tinh mấy ngàn năm lịch sử phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam. Thành quả ấy đã làm nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh dân tộc ta, làm cho dân tộc ta tồn tại, phát triển và làm rạng rỡ đất nước ta, mặc dầu luôn luôn phải đối phó với những khó khăn cực kỳ to lớn. Thực tiễn ngày càng chứng minh rõ, văn hóa - giáo dục là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; thế nhưng, sự quan tâm của Nhà nước ta lâu nay đối với lĩnh vực này rõ ràng là chưa đầy đủ.
Trong năm 1993 và những năm tiếp theo, chúng ta tiếp tục phấn đấu kiên trì để xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đi liền với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, làm giàu thêm vốn văn hóa của dân tộc. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phải khẳng định mạnh mẽ những nhân tố, những giá trị cao đẹp của xã hội ta, kiên quyết phê phán và đẩy lùi các tệ nạn xã hội đang phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Bằng nhiều biện pháp đồng bộ, phải phê phán và khắc phục lối sống chạy theo đồng tiền và những thị hiếu không lành mạnh, tình trạng nhiều hủ tục, mê tín được phục hồi đang làm xói mòn nếp sống văn hóa, tinh thần và đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta; trừng trị nghiêm khắc những vụ phạm pháp trong việc lan truyền những thứ văn hóa, nghệ thuật độc hại dưới nhiều hình thức ở trong nước và từ nước ngoài vào.
Cần kiên quyết bài trừ nạn nghiện hút, gái điếm, cờ bạc, v.v. đang phát triển ở các đô thị và cả ở một số vùng nông thôn. Những tệ nạn này đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội, vì nó không chỉ trái với đạo đức truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế mà sâu xa hơn, còn gây hại cho sức khỏe của nhân dân, làm suy yếu tiềm lực con người, để lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế hệ mai sau. Để kéo dài các tệ nạn đó là không thể chấp nhận được; nhất thiết mỗi ngành, mỗi cấp phải có đầy đủ trách nhiệm thực hiện các biện pháp đã đề ra, như: xóa bỏ việc trồng cây thuốc phiện, chọn các cây khác thay thế và thực hiện các chính sách bảo đảm đời sống; tổ chức có hiệu quả việc cai nghiện, xử lý nghiêm khắc các vụ vận chuyển và tiêu thụ thuốc phiện. Xóa bỏ ngay các ổ mại dâm, các tổ chức kinh doanh gái điếm, nghiêm trị thẳng tay bọn chủ chứa và những kẻ tiếp tay cho chúng. Bằng các biện pháp thiết thực, có hiệu quả, giải quyết sớm tình trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ đang sống trên các hè phố, ở các bến tàu, bến xe. Không phải ai khác, mà chính là Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, trực tiếp là cấp quận, phường, xã phải cùng với các cơ quan chức năng có trách nhiệm nắm lại tình hình các tệ nạn xã hội trên địa bàn của mình và thực hiện ngay các biện pháp để khắc phục.
Dưới đây, xin trình bày một số điểm về vấn đề việc làm và tiền lương:
Năm 1992, Nhà nước đã bổ sung cơ chế chính sách và hỗ trợ cho người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Phương thức tài trợ theo dự án đã thu được hiệu quả tốt hơn cách cấp phát theo lối hành chính. Bên cạnh những cố gắng của Nhà nước, chúng ta đã bước đầu khơi dậy khả năng của mỗi người, mỗi gia đình, các đoàn thể và tổ chức xã hội tự giải quyết và giúp đỡ nhau giải quyết những khó khăn về việc làm và đời sống. Thực tiễn năm 1992 đã chỉ rõ khả năng còn rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng xã hội hóa với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Kết quả và kinh nghiệm năm 1992 với nhiều hình thức phong phú cần được các ngành, các địa phương tổng kết để triển khai có hiệu quả hơn trong năm 1993.
Vấn đề việc làm cần phải và có thể giải quyết một bước tích cực hơn, gắn với các chủ trương đẩy mạnh tích lũy đầu tư phát triển dựa vào phát huy khả năng của từng người, từng gia đình, từng đơn vị cơ sở; Nhà nước hỗ trợ chủ yếu bằng việc xây dựng kết cấu hạ tầng và cho vay với điều kiện ưu đãi. Từ kinh nghiệm thực tế, năm 1993, cần triển khai mạnh mẽ, kịp thời hơn việc ngân sách tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tập trung trước hết vào các dự án khai hoang, trồng rừng và cây công nghiệp, phủ xanh đất trống, đồi trọc và các dự án phát triển các cơ sở và hoạt động sản xuất -kinh doanh quy mô nhỏ. Trong vấn đề giải quyết việc làm, cần đặc biệt quan tâm những người đã được đào tạo chuyên môn qua các trường, lớp vì điều này có ảnh hưởng lớn đến tinh thần học tập, ý chí tiến thủ trong xã hội. Một mặt, hệ thống giáo dục đào tạo cần điều chỉnh cơ cấu tuyển sinh, nâng cao chất lượng, và đổi mới phương thức đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội, phù hợp với sự phát triển năng động của kinh tế thị trường. Mặt khác, cần có chương trình đặc biệt bổ túc những kiến thức cần thiết cho những người đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và đại học đang thiếu việc làm để bổ sung cán bộ cho những lĩnh vực đang thiếu. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các cơ quan xúc tiến khẩn trương việc này.
Chế độ lương mới là bước nối tiếp quá trình cải cách tiền lương sau khi đã thực hiện về cơ bản việc tiền tệ hóa các chế độ hiện vật đưa vào tiền lương trong năm 1992. Yêu cầu chính của chế độ lương mới là bảo đảm thu nhập hợp lý giữa các ngành, các cơ quan hành chính, sự nghiệp, đồng thời, khắc phục tính chất bình quân trong chế độ lương cũ. Ai cũng biết, với tiền lương hiện nay, các cơ quan đều phải tìm thêm thu nhập bổ sung cho công nhân viên chức của mình. Nguồn thu nhập này có nơi nhiều, nơi ít. Cách làm, dù chính đáng, cũng gây hệ quả bất lợi về trật tự, kỷ cương. Chế độ lương mới nhằm bảo đảm nguồn thu nhập ổn định, đủ sống cho những người hưởng lương đi đôi với xóa bỏ những khoản thu nhập ngoài lương không đúng chế độ, lấy từ ngân sách nhà nước. Đây là một bước cải thiện đối với những người không có hoặc chỉ có rất ít thu nhập bổ sung. Đồng thời, lần này cũng xây dựng và áp dụng hệ thống thang, bậc lương mới, nới rộng khoảng cách giữa các bậc nhằm khuyến khích nâng cao hiệu suất, phát triển tài năng. Có thể nói, thực chất của việc thực hiện chế độ lương mới trong năm 1993 là điều chỉnh hợp lý quan hệ về tiền lương trong khu vực hành chính, sự nghiệp. Chúng ta chưa thể đặt vấn đề tăng lương thoát ly điều kiện thực tế, khi hiệu quả của nền kinh tế và năng suất lao động xã hội còn thấp, khi bộ máy nhà nước chưa được kiện toàn hợp lý.
Đối với khu vực kinh tế quốc doanh, tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất - kinh doanh của từng đơn vị, song, đơn giá tiền lương trong sản phẩm sẽ chịu ảnh hưởng của chế độ lương mới. Khu vực hành chính sự nghiệp, mặc dù chiếm tỷ lệ cao về số lao động đã qua đào tạo có hệ thống vẫn có mức tiền lương bình quân thấp hơn khu vực sản xuất - kinh doanh. Chúng ta còn phải chấp nhận tình trạng đó. Khi khu vực sản xuất - kinh doanh phát triển, nâng cao hiệu quả, tạo nguồn tăng thu cho ngân sách, mới có thể điều chỉnh chế độ tiền lương phù hợp với thang bậc giá trị trong xã hội.
Sau khi Quốc hội quyết định chủ trương và nguyên tắc, Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo chặt chẽ các bước thực hiện chế độ lương mới, đặc biệt là kết hợp tốt việc sắp xếp biên chế, xây dựng chế độ công chức và tiêu chuẩn chức danh, tạo ra kỷ luật làm việc mới trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp. Các bước tiến hành phải phù hợp với tiến độ thu ngân sách, không gây đột biến giá cả. Cùng với việc thực hiện chế độ lương mới đối với những người đang làm việc, cần xây dựng chính sách toàn diện đối với cán bộ xã, phường, giải quyết những bất hợp lý trong việc thực hiện chế độ hưu trí, giảm khó khăn về đời sống cho những người nghỉ hưu và những người hưởng trợ cấp theo chính sách xã hội.
5. Tiến hành cải cách hành chính; tăng cường trật tự, kỷ cương
Trong thời gian qua, hệ thống bộ máy hành chính nhà nước đã có phần đóng góp tích cực vào những thành tựu của công cuộc đổi mới, đồng thời cũng có trách nhiệm lớn đối với những nhược điểm, khuyết điểm trong sự chỉ đạo, điều hành. Nền hành chính quốc gia chưa được tổ chức lại một cách căn bản để bảo đảm quản lý nhà nước theo cơ chế mới, kể cả về tổ chức, bộ máy, quy chế làm việc và năng lực phẩm chất của đội ngũ công chức. Chính vì vậy, cải cách hành chính là một nhiệm vụ rất bức thiết. Đương nhiên, đây là việc phải làm trong nhiều năm, nhưng trong năm 1993, phải bắt đầu ngay bằng những việc thiết thực.
Nội dung cải cách hành chính ở nước ta phải nhằm vào các cơ quan hành chính chủ yếu là Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và các Sở chuyên môn ở cấp tỉnh, theo hướng: tập trung quyền hành pháp vào Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, xây dựng nền hành chính có hiệu lực, hiệu quả, chống mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, địa phương, bản vị.
Đó là một nền hành chính dân chủ, sát với nhân dân, giải quyết nhanh chóng mọi công việc theo yêu cầu của nhân dân, bảo đảm quyền tập trung của Chính phủ, đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã trong việc xử lý những vấn đề kinh tế và xã hội trên địa bàn của mình. Phân định rành mạch hoạt động quản lý nhà nước ở các Bộ, các Ủy ban nhân dân, các Sở với hoạt động quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước.
Nền hành chính quốc gia phải được thể chế hóa và quy định bằng hệ thống luật pháp hành chính để điều chỉnh các mối quan hệ hình thành trong quá trình quản lý nhà nước, phân định các hoạt động hành chính tác nghiệp quản lý nhà nước đối với hoạt động hành chính tài phán, xem xét các khiếu nại, tranh chấp của công dân với cơ quan nhà nước và giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Điều đó đòi hỏi sớm thiết lập Tòa án Hành chính. Đồng thời, phải xúc tiến đào tạo một đội ngũ công chức nhà nước thành thạo nghề nghiệp, trong sạch và được đãi ngộ thích đáng.
Trong năm 1993, trên cơ sở Luật tổ chức Chính phủ, phải quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn Bộ trưởng, trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền địa phương (các cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, xã, phường). Chỉ có xác định rõ nội dung quản lý nhà nước ở từng cấp và chức trách của mỗi công chức nhà nước, thì mới đưa hoạt động quản lý nhà nước vào nền nếp, để cơ quan hành chính nhà nước sát hơn với cơ sở và với dân.
Rà soát và bãi bỏ ngay các thủ tục gây phiền hà cho dân, hoàn thiện các thủ tục trong các lĩnh vực chủ yếu như đăng ký kinh doanh, đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, công chứng nhà nước, khiếu nại và tố cáo, v.v.. Các thủ tục phải được công bố rộng rãi và cán bộ, công chức xử lý công việc có trách nhiệm giúp cho người dân hiểu những quy định có liên quan đến công việc cần giải quyết với cơ quan nhà nước.
Mỗi cấp hành chính quản lý nhà nước phải nâng cao trách nhiệm trong việc xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương mình, phải nhanh chóng khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời quần chúng, tác phong bàn giấy vẫn còn khá đậm nét ở nhiều cấp hành chính. Ủy ban nhân dân xã là cấp gần dân nhất, cần nắm chắc tình hình tới từng hộ gia đình, khuyến khích những người làm giàu hợp pháp, giúp đỡ và tạo điều kiện sản xuất, ổn định đời sống cho những người đang còn khó khăn. Các cấp chính quyền trước hết là huyện và xã phải từ đặc điểm cụ thể mà suy nghĩ sâu sắc hơn về hướng làm giàu của địa phương mình, nhất là về các biện pháp khai thác các lợi thế, các tiềm năng của địa phương, động viên và tổ chức các tầng lớp nhân dân địa phương vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở ngay địa phương mình.
Trong việc giải quyết khó khăn về vốn, phải khắc phục thói quen từ cơ chế bao cấp cũ, trông chờ, ỷ lại vào nguồn của Nhà nước cấp hoặc cho vay ưu đãi. Phải xác định hướng giải quyết chủ yếu và trước hết là động viên nguồn sức lao động và tiền vốn trong nhân dân địa phương, kể cả liên doanh, liên kết với địa phương khác, với thân nhân ở nước ngoài và các công ty nước ngoài.
Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, thiết lập trật tự, kỷ cương là một yêu cầu rất cấp bách trong quản lý nhà nước. Năm 1993, phải tích cực rà soát các văn bản pháp luật hiện hành, kịp thời ban hành các văn bản phục vụ việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, tư pháp cũng như lĩnh vực pháp luật bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công dân, bảo đảm mở rộng quan hệ hợp tác và giao lưu quốc tế, v.v.. Chúng ta phấn đấu đẩy mạnh quá trình lập pháp của Nhà nước ta, tăng cường hiệu lực pháp chế, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Xin nói thêm về cuộc đấu tranh ngăn chặn và bài trừ tham nhũng, buôn lậu và tiêu pha lãng phí của công. Cuộc đấu tranh này, một mặt, nhằm xóa bỏ một tệ nạn nhức nhối đang được dư luận xã hội quan tâm, mặt khác là nhằm xây dựng trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước.
Chúng ta đã nói nhiều về vấn đề này. Yêu cầu đặt ra là phải bắt tay vào hành động cương quyết và liên tục, dứt khoát không đánh trống bỏ dùi, quyết giành cho được kết quả quan trọng trong năm 1993, tăng thêm niềm tin và khí thế đấu tranh bài trừ triệt để tệ nạn này.
Tiếp theo báo cáo về Chương trình hành động của Chính phủ mới trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội tháng 9 năm nay, Chính phủ đã ban hành quyết định về những biện pháp cấp bách và xác định rõ trách nhiệm gắn với quyền hạn của người lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành trong cuộc đấu tranh ngăn chặn và bài trừ tham nhũng, buôn lậu (Quyết định này đã được sao gửi tới các đại biểu Quốc hội để báo cáo). Bộ Chính trị cũng ra chỉ thị để chỉ đạo các cấp ủy tổ chức và động viên các cơ sở Đảng và cán bộ, đảng viên, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia cuộc đấu tranh này.
Năm 1993, có những yếu tố mới cần phát huy để thực hiện có kết quả các biện pháp đã đề ra:
Một là, Quốc hội và Chính phủ có chương trình xây dựng và sửa đổi, bổ sung luật và các văn bản pháp quy, các cơ chế, chính sách nhằm bịt những kẽ hở mà bọn tham nhũng, buôn lậu lợi dụng để đục khoét tài sản, vốn và nguồn thu ngân sách, đồng thời bổ sung những quy định về xét xử và thi hành án đối với bọn phạm tội, nghiêm trị những kẻ ngoan cố, khoan hồng với những người biết hối lỗi, tự khai báo.
Hai là, việc thực hiện chế độ lương mới đi liền với sắp xếp lại bộ máy và biên chế theo chế độ công chức và quy chế công vụ góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, loại trừ các cách tạo thu nhập không hợp pháp viện lý do về đời sống của công nhân viên chức mà bọn tham nhũng thường núp sau bình phong đó để trục lợi.
Ba là, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới và chỉnh đốn Đảng đang được triển khai thực hiện có tác động rất quan trọng thúc đẩy các tổ chức và các cơ sở Đảng tăng cường giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên, thanh lọc những phần tử biến chất, trước hết là bọn tham nhũng, buôn lậu và những kẻ bao che cho chúng.
Bốn là, các cơ quan nhà nước không còn phải dồn tâm trí nhiều như trước cho việc đối phó với những biến động bất thường do khủng hoảng và lạm phát gây ra, đã xác định rõ trách nhiệm của mỗi ngành, mỗi cấp trong việc ngăn chặn và bài trừ tham nhũng, buôn lậu, đã xây dựng chương trình cụ thể để triển khai nhiệm vụ này một cách tích cực, khẩn trương và với trách nhiệm đầy đủ.
Như vậy, chúng ta có căn cứ để loại bỏ tâm trạng hoài nghi, nâng cao lòng tin của toàn xã hội đối với quyết tâm của Đảng và Nhà nước cũng như đối với khả năng tiến hành đến cùng cuộc đấu tranh này. Kết quả thực tế của cuộc đấu tranh ngăn chặn và bài trừ tham nhũng, buôn lậu là một nhân tố quan trọng cả về kinh tế, chính trị và tâm lý xã hội cho việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của năm 1993 và cho sự phát triển tương lai của đất nước.
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Kết thúc năm 1992, Chính phủ đã kiểm điểm hoạt động của mình, vui mừng nhận thấy những tiến bộ trong sự chỉ đạo, điều hành, đã có phần đóng góp vào những thành tựu về kinh tế - xã hội trong năm qua. Chính phủ cũng nhận thức sâu sắc rằng, những nhiệm vụ nặng nề, những chủ trương quan trọng phải thực hiện trong năm 1993 đòi hỏi phải khắc phục những mặt yếu, những thiếu sót, nâng cao hơn nữa năng lực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đáp ứng kịp yêu cầu của cuộc sống đang sôi động trên đất nước ta, xứng đáng với lòng mong mỏi và sự tin cậy của nhân dân.
Chúng tôi xác định những khâu quan trọng cần cải tiến trong hoạt động của Chính phủ là: không ngừng nâng cao kiến thức và năng lực sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô để thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước, tránh những sai lầm, thiếu sót gây trở ngại cho quá trình chuyển sang kinh tế thị trường; kiên quyết hơn nữa trong việc từ bỏ sự can thiệp không đúng chức năng vào hoạt động kinh doanh, tăng cường chỉ đạo các công tác trọng tâm, dành nhiều thì giờ tiếp xúc với thực tế ở địa phương và cơ sở; hết sức coi trọng và làm rõ trách nhiệm cá nhân đồng thời phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên Chính phủ.
Việc tăng cường sự giám sát, giúp đỡ của Quốc hội cùng với sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là một yếu tố quan trọng giúp Chính phủ cải tiến công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1993 được Quốc hội thảo luận và quyết định trong kỳ họp này không chỉ định hướng cho các mặt hoạt động mà còn động viên, cổ vũ toàn dân ta nêu cao lòng tự hào và truyền thống quật cường của dân tộc, phát huy những thành tựu đã đạt được, kịp thời tận dụng các cơ hội mới để đưa đất nước tiến nhanh trên con đường đổi mới, chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu.
Chúng ta có đủ căn cứ để tin tưởng rằng năm 1993 sẽ đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trên đất nước ta.
Xin cảm ơn sự chú ý theo dõi của các đồng chí đại biểu Quốc hội.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội