VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 1 1992-1993


BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ NĂM 1993 QUA 6 THÁNG ĐẦU NĂM
 

(Do Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ
Phan Văn Khải, trình bày tại kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khoá IX, ngày 16-6-1993)

Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo với Quốc hội tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1993 qua 6 tháng đầu năm.

Một tuần sau khi Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 2 ra Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1993, Chính phủ đã dành phiên họp cuối năm 1992 vào ngày 29 và 30 tháng 12 để xác định chương trình hoạt động năm 1993 gồm 10 công tác lớn nhằm thực hiện nghị quyết của Quốc hội. Các Bộ và các cơ quan khác thuộc Chính phủ đã xây dựng chương trình công tác của ngành, triển khai thực hiện ngay từ đầu năm. Từ ngày 01 đến 04 tháng 02, Chính phủ mở Hội nghị các Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc giao kế hoạch và phân bổ ngân sách cho các ngành Trung ương và các địa phương được tiến hành sớm hơn mọi năm. Đối với một số công tác quan trọng cần phối hợp nhiều ngành như chống tham nhũng và buôn lậu, cải cách tiền lương, xử lý những vấn đề nảy sinh ở biển Đông… Chính phủ đã thành lập ban chỉ đạo với chương trình hoạt động thường xuyên.

Hàng quý, Chính phủ đều dành một phiên họp để kiểm điểm tình hình thực hiện chương trình công tác đã đề ra và bàn chủ trương, biện pháp khắc phục các thiếu sót, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh.

Trong báo cáo này, tôi xin trình bày những nét lớn về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1993 qua 6 tháng đầu năm và những vấn đề cần tập trung giải quyết để thực hiện thắng lợi Nghị quyết kỳ họp thứ 2 của Quốc hội. Báo cáo cụ thể về một số mặt công tác mà Quốc hội quan tâm đã được các Bộ trưởng gửi tới các đồng chí đại biểu.

I- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 1993 QUA 6 THÁNG ĐẦU NĂM

Trong 6 tháng qua, tình hình đất nước tiếp tục chuyển biến tốt, nhưng chưa vững chắc, còn những mặt yếu và khó khăn lớn phải khắc phục.

Đà chuyển biến tốt thể hiện tương đối toàn diện trên các mặt hoạt động, với những nét nổi bật dưới đây:

Một là, sản xuất và lưu thông tiếp tục phát triển khá.

Sản lượng thóc vụ Đông Xuân tuy giảm khoảng 6% so với cùng kỳ năm 1992, nhưng vẫn cao hơn tất cả các năm trước đó. Hoa màu, một số cây công nghiệp nhất là cây lâu năm, chăn nuôi, trồng rừng, đánh bắt và chế biến thủy sản đều tăng khá so với cùng kỳ năm trước.

Sản xuất công nghiệp tăng 10,2% với nhịp độ phát triển tương đối đều cả trong khu vực quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh, ở các trung tâm công nghiệp và các thành phố lớn. Bên cạnh sự phát triển liên tục của công nghiệp năng lượng, nguyên vật liệu và một số sản phẩm tiêu dùng có thị trường tiêu thụ, đã bắt đầu có một số sản phẩm cơ khí chế tạo vươn lên được trong môi trường cạnh tranh như máy động lực, máy biến thế, máy kéo nhỏ, thiết bị phụ tùng, hàng cơ khí tiêu dùng.

Những công trình quan trọng của kế hoạch năm 1993 như đường dây 500 KV, thủy điện sông Đà, Thác Mơ, Vĩnh Sơn, đường Bắc Thăng Long - Nội Bài, đường băng sân bay Tân Sơn Nhất nhìn chung bảo đảm được tiến độ xây dựng.

Xuất khẩu tăng 17,5 so với cùng kỳ năm trước, trong đó gạo, chè, rau quả, thịt, thủy sản, hàng dệt và may mặc tăng trên 20%. Nhập khẩu tăng 32% song không vượt kim ngạch xuất khẩu; nhu cầu của nền kinh tế về thiết bị và nhiều loại vật tư được đáp ứng tốt hơn.

Vận tải và lưu thông hàng hóa tiếp tục được mở rộng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 14,7% (chưa loại trừ yếu tố giá) so với cùng kỳ năm trước, với mặt hàng phong phú, giá cả tương đối ổn định.

Đời sống của nhân dân bớt khó khăn, một bộ phận tăng thu nhập.

Hai là, công tác quản lý và điều hành tài chính - tiền tệ có bước tiến mới, góp phần ổn định dần tình hình kinh tế.

Thu ngân sách 6 tháng đầu năm tăng 45% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, thu từ kinh tế quốc doanh, thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng trên 50%, thuế xuất nhập khẩu gấp 2,6 lần. Trong điều kiện giá tương đối ổn định, đó là mức tăng thu trong nước cao nhất từ trước đến nay. Chi ngân sách tăng 76% so với cùng kỳ năm trước, với mức bội chi ngân sách bằng 41,3% mức Quốc hội cho phép và được bù đắp bằng các nguồn vay, không dựa vào phát hành.

Việc điều hòa lưu thông tiền tệ vừa coi trọng yêu cầu kiềm chế lạm phát, vừa có tiến bộ trong việc khắc phục tình trạng ách tắc, chậm trễ trong thanh toán cũng như trong việc ổn định giá vàng và đôla, không để xảy ra những biến động bất thường khi đưa ra lưu hành tiền mới và ngân phiếu thanh toán có mệnh giá cao hoặc khi điều chỉnh lãi suất tín dụng.

Những tiến bộ đó cùng với sự phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đã đẩy lùi thêm một bước tốc độ lạm phát. Chỉ số giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 5 tháng đầu năm nay tăng bình quân một tháng 0,9% (so với 2,5/tháng trong 5 tháng đầu năm 1992). Kết quả này tác động tốt đến sản xuất và đời sống, góp phần tăng thêm sự ổn định kinh tế - xã hội.

Ba là, các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa, y tế, xã hội, được tăng cường chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, đã có những chuyển biến rõ nét hơn trước trên một số mặt quan trọng.

Số học sinh các cấp học đều tăng; tỷ lệ học sinh bỏ học và lưu ban giảm. Các trường nội trú cho con em dân tộc thiểu số phát triển nhanh. Phong trào học nghề, học ngoại ngữ không ngừng mở rộng.

Việc sắp xếp lại các viện nghiên cứu khoa học tiến hành chậm, song đã thực hiện được bước đầu nhằm gắn nghiên cứu với đào tạo và ứng dụng. Các hoạt động quản lý khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường được tăng cường có hiệu quả hơn.

Báo chí và các nhà xuất bản được sắp xếp lại, chú trọng nâng cao chất lượng cả về nội dung và hình thức, giảm các văn hóa phẩm có nội dung xấu. Sự nghiệp thông tin có bước phát triển mới với việc phủ sóng truyền thanh, truyền hình đến phần lớn các huyện trong cả nước, kể cả miền núi vùng cao, đảo xa.

Trong công tác bảo vệ sức khỏe của nhân dân, việc xây dựng cơ sở y tế xã, phòng chống sốt rét, chống bướu cổ, tiêm chủng cho trẻ em được đẩy mạnh với sự chú ý tới vùng cao, vùng xa đô thị.

Hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em đã triển khai công tác tuyên truyền vận động, đồng thời, quan tâm giúp đỡ nuôi dạy các trẻ em bị tật nguyền và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được mở rộng và đi vào vận động đúng đối tượng, tăng nhanh số người tự nguyện hạn chế sinh đẻ.

Hoạt động thể dục thể thao có bước phát triển về phong trào quần chúng trong các lứa tuổi, chủ yếu là ở thành thị, đồng thời, chú ý bồi dưỡng lực lượng vận động viên nòng cốt thông qua việc tổ chức nhiều hình thức thi đấu ở trong nước và tham gia thi đấu quốc tế; đã tạo những điều kiện tương đối thuận lợi cho đội ngũ vận động viên tham gia Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ XVII.

Các chương trình. Dự án giải quyết việc làm được xây dựng và thực hiện tích cực hơn đi liền với việc mở rộng mạng lưới các trung tâm xúc tiến tạo việc làm và dạy nghề.

Phong trào xóa đói giảm nghèo được triển khai ở hầu hết các địa phương, với sự hưởng ứng tham gia của đông đảo nhân dân, bước đầu đưa lại kết quả thiết thực.

Nghị quyết của Chính phủ ban hành đầu năm về phòng, chống ma túy, chống tệ mại dâm, phòng chống bệnh SIDA đang được triển khai thực hiện.

Việc thanh tra và phát hiện các vụ tham nhũng, buôn lậu được đẩy mạnh hơn trước. Một số vụ vi phạm được xử lý nghiêm theo pháp luật mới bổ sung.

Bốn là, an ninh - quốc phòng được giữ vững trước những diễn biến phức tạp mới từ bên ngoài và hoạt động phá hoại, gây rối ở bên trong nước ta. Chúng ta đã kết hợp các hình thức đấu tranh chính trị, ngoại giao, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước trong khu vực và dư luận thế giới đối với chủ trương giải quyết các vấn đề còn tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, không làm cho tình hình phức tạp thêm. Lực lượng bảo vệ an ninh và phòng thủ đất nước được tăng cường, kịp thời phát hiện và trừng trị những phần tử phá hoại từ bên ngoài móc nối với bọn xấu ở bên trong. Đối với một số ít kẻ lợi dụng tôn giáo để phá rối an ninh, trật tự xã hội, Nhà nước ta đã giải quyết có lý, có tình, đúng pháp luật, phân biệt những hành vi phạm pháp với hoạt động tôn giáo, được đông đảo các nhà tu hành, các tín đồ và nhân dân đồng tình. Đối với các tội phạm hình sự, việc phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử được tiến hành kịp thời hơn trước.

Năm là, quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng và tăng cường trên nền tảng của những thành tựu đổi mới và chính sách đối ngoại đúng đắn, đi đôi với các hoạt động tích cực về ngoại giao và kinh tế đối ngoại.

Trong 6 tháng đầu năm nay, nhiều hoạt động ngoại giao được chủ động tiến hành đưa lại kết quả tích cực, góp phần tăng cường sự hiểu biết và quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nước ta và nhiều nước trên thế giới; nổi lên là các cuộc đi thăm chính thức của Thủ tướng Chính phủ ta tại Nhật Bản, Cộng hòa Triều Tiên, Niu Dilân, Ôxtrâylia, của Chủ tịch Quốc hội đi thăm Philíppin, các cuộc đi dự hội thảo quốc tế và đi thăm làm việc ở một số nước của các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước; các cuộc đi thăm Việt Nam của Tổng thống Pháp, của Chủ tịch Đảng kiêm Thủ tướng Lào, của một số nhà hoạt động chính trị cấp cao Bỉ, Liên bang Nga, Liên bang Đức, Hà Lan, Trung Quốc, Thái Lan, v.v..

Chúng ta cũng tỏ rõ thiện chí hợp tác với chính quyền Mỹ trong việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, coi đó là vấn đề thuần túy nhân đạo; phía Mỹ cũng phải có trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề người Việt Nam mất tích trong chiến tranh. Các đoàn đại diện của chính quyền Mỹ cũng như những người Mỹ thuộc các giới đến Việt Nam thừa nhận điều đó và tỏ rõ thái độ tích cực đối với việc xóa bỏ chính sách cấm vận của Mỹ.

Dư luận thế giới, kể cả nhân dân Mỹ đều thấy rõ chính sách cấm vận của Mỹ tuy có gây trở ngại nhưng không ngăn cản được sự phát triển quan hệ hợp tác, kinh doanh của các nước với Việt Nam.

Sang năm nay, nguồn viện trợ phát triển của bên ngoài, tuy chưa được khai thông hoàn toàn, vẫn tiếp tục tăng thêm cả về số nước và số tiền tài trợ. Các tổ chức tài chính quốc tế đã cùng chúng ta chuẩn bị một số dự án để mở tín dụng ưu đãi khi quan hệ được khai thông.

Trong 6 tháng đầu năm, có thêm 110 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 1.648 triệu USD, gấp hơn 2 lần cùng kỳ năm trước, trong đó có những dự án trên 100 triệu USD của các công ty lớn, đa quốc gia. Một nét mới nữa là các nhà đầu tư nước ngoài đã chú ý nhiều hơn đến miền Bắc.

Kiều bào ta ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc. Hội nghị Việt kiều đầu xuân năm nay mở ra một giai đoạn mới trong chính sách và công tác vận động đối với kiều bào, tăng thêm niềm tin của kiều bào vào công cuộc đổi mới và tiền đồ của đất nước, vào chính sách hòa hợp, đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, thúc đẩy và tạo điều kiện cho kiều bào góp phần giúp gia đình và xây dựng quê hương, đất nước.

Nhìn chung lại, có thể nói đà chuyển biến tốt của năm 1992 tiếp tục được phát huy trong 6 tháng đầu năm nay cả về bề rộng và bề sâu. Điều đó chứng tỏ những thành tựu và tiến bộ đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới không phải nhất thời, ngẫu nhiên. Một lần nữa, ý chí quật cường và sức sáng tạo của dân tộc ta lại thể hiện rõ khi đất nước đứng trước những thử thách gay gắt. Công cuộc đổi mới đã khơi dậy các tiềm năng của đất nước và con người Việt Nam, đồng thời, tranh thủ được sự đồng tình, giúp đỡ và hợp tác ngày càng tăng cường của bên ngoài. Những thành tựu trong 6 tháng qua cũng chứng minh sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự quản lý và điều hành của Chính phủ và các ngành, các địa phương đã có thêm kiến thức và kinh nghiệm trong tiến trình đổi mới, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Chính phủ tăng cường quan hệ làm việc với các cơ quan của Quốc hội, có tiến bộ trong sự chỉ đạo và phối hợp các ngành và các đoàn thể, quan tâm kiểm tra và làm việc trực tiếp với các địa phương.

Trong khi khẳng định những thành tựu và tiến bộ, chúng ta cần đánh giá nghiêm túc những mặt yếu làm cho bước tiến thiếu đồng bộ và vững chắc, cần thấy hết những khó khăn to lớn còn phải vượt qua để thực hiện thành công nhiệm vụ mà Quốc hội đã đề ra cho năm 1993.

Sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đang gặp khó khăn về vốn, công nghệ và thị trường. Hàng nhập lậu chưa ngăn chặn được vẫn là mối nguy đối với nhiều ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa được phát huy đầy đủ. Việc cải cách khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tiến hành chậm. Việc quản lý tài sản công còn lỏng lẻo, kém hiệu quả. Đầu tư cho phát triển còn rất thấp và tăng chậm. Nhiều công trình quan trọng về xây dựng cơ sở hạ tầng chưa tạo được nguồn vốn để triển khai. Những mặt yếu đó nếu không được khắc phục, không những hạn chế tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm trước mắt mà cả lâu dài.

Tình hình tài chính - tiền tệ còn những nhân tố chưa vững chắc, trong đó nổi lên những khó khăn về cân đối ngân sách và quan hệ giữa giá nông sản với giá hàng công nghiệp, dịch vụ. Giá cả một số mặt hàng, đặc biệt là xi măng, sắt thép xây dựng gần đây tăng đột biến chủ yếu là do thiếu sót trong điều hòa cung - cầu.

Những tiến bộ về giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội mới ở mức hạn chế dần tình trạng sa sút, chưa tạo nên được chuyển biến mạnh mẽ và rộng khắp, nhất là đối với vùng cao, vùng sâu và những người nghèo. Tình trạng thiếu việc làm còn gay gắt, nhất là đối với tầng lớp thanh niên. Kết quả đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu còn thấp. Việc ngăn chặn các tệ nạn xã hội chưa đưa lại kết quả rõ rệt.

An ninh chính trị, trật tự xã hội và việc bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải còn phải tiếp tục đối phó với nhiều tình huống phức tạp, đặc biệt là những hành động xâm phạm biên giới, lãnh hải và những mưu toan phá hoại trong nội địa.

Tình hình thế giới và khu vực bên cạnh xu thế tích cực, còn có những nhân tố mất ổn định và những diễn biến bất lợi cho nước ta. Chúng ta kiên trì chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác với tất cả các nước, chủ trương giải quyết những vấn đề tồn tại hoặc mới nảy sinh trong quan hệ với các nước thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Đối với Campuchia, chúng ta chủ trương xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Song, phải thấy trước tình hình còn diễn biến phức tạp. Việc tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc phát triển đòi hỏi phải rất tỉnh táo, kiên trì.

Đất nước ta đang đứng trước những khó khăn do lịch sử để lại hoặc do tác động của bên ngoài. Đồng thời, có những khó khăn, những mặt yếu do khuyết điểm của công tác lãnh đạo và quản lý, nổi lên là:

Việc đổi mới chính sách và thể chế không đi kịp với đòi hỏi và diễn biến thực tế của cuộc sống. Tiến trình đổi mới còn thiếu cách nhìn toàn diện và sự phối hợp đồng bộ; có những chủ trương, chính sách chưa được cụ thể hóa nhất quán với đường lối đổi mới như trong một số chính sách đối với nông dân, trong cách giải quyết đối với kinh tế quốc doanh, trong việc đổi mới chính sách tài chính - tiền tệ - tín dụng…

Sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Ngay việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị định cũng thường chậm trễ và có trường hợp không khớp, gây khó khăn và tạo ra sơ hở trong quá trình thực hiện. Một số công tác lớn như chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống lãng phí, tiết kiệm chi tiêu, tinh giản biên chế, v.v. chưa được sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện thường xuyên, nghiêm túc của các ngành, các địa phương nên kết quả đạt thấp.

Những khuyết điểm đó gắn liền với tình trạng trì trệ, chậm đổi mới trong bộ máy nhà nước. Công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp mới ở bước chuẩn bị. Đội ngũ cán bộ và công chức chưa thật sự thoát khỏi thói quen của cơ chế cũ, không đi kịp yêu cầu đổi mới. Đó là trở lực lớn đối với tiến trình đổi mới và sự phát triển của đất nước.

Chính phủ nhận rõ phần trách nhiệm của mình trong những khuyết điểm nêu trên và rất hoan nghênh ý kiến đóng góp của nhân dân, của các cử tri đòi hỏi Chính phủ, các đại biểu Quốc hội, các ngành, các cấp làm tròn trách nhiệm của mình.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN PHẢI GIẢI QUYẾT ĐỂ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ NĂM 1993
VÀ CHUẨN BỊ CHO NĂM 1994

Bước vào 6 tháng cuối năm, tình hình nhiều mặt ở trong nước đang có đà thuận lợi. Song, việc phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ năm 1993 không dễ dàng, thuận chiều vì còn nhiều việc lớn dồn vào tháng cuối năm và tình hình còn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định.

Trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội và chương trình công tác đề ra từ đầu năm, trong 6 tháng tới, Chính phủ cần tập trung chỉ đạo và giải quyết một số lĩnh vực có ý nghĩa then chốt đối với việc hoàn thành nhiệm vụ năm 1993. Tôi xin phép không nhắc lại tất cả các chủ trương, biện pháp đã báo cáo với Quốc hội khi bàn định nhiệm vụ năm 1993 mà chỉ trình bày một số vấn đề quan trọng cần bổ sung cách giải quyết qua thực tiễn 6 tháng đầu năm.

1. Cải thiện tình hình tài chính - tiền tệ, khắc phục những nhân tố gây mất ổn định và cản trở sự phát triển

Trong lĩnh vực này, nổi lên vấn đề ngân sách và giá cả.

a) Về ngân sách:

Sau nhiều năm cắt giảm chi ngân sách để kiềm chế lạm phát, năm nay chúng ta chủ trương vừa tiếp tục đẩy lùi lạm phát, vừa tăng chi ngân sách để đáp ứng những nhu cầu không thể lùi được. Mức chi được Quốc hội duyệt tăng 62% so với năm 1992 (chưa loại trừ yếu tố giá), trong đó những khoản tăng nhiều là đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện chế độ lương mới, giải quyết việc làm và phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chi cho việc nghiên cứu, khai thác, bảo vệ lãnh hải và hải đảo. Nguồn thu trong nước dự tính tăng chậm hơn (tăng 34% so với năm 1992), nên ngân sách bội chi nhiều hơn. Mức thiếu hụt ngân sách tương đương tổng số chi cho đầu tư phát triển được bù đắp bằng vay dân và vay nước ngoài (chủ yếu là tín dụng ưu đãi).

Qua 6 tháng đầu năm, kế hoạch thu ngân sách được thực hiện tốt hơn các năm trước và mức bội chi không vượt quá giới hạn cho phép, trong khi lạm phát thấp hơn cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, nhiệm vụ thực hiện kế hoạch ngân sách 6 tháng cuối năm còn rất nặng nề.

Nhiều khoản chi lớn mới thực hiện ở mức thấp trong nửa năm đầu, nay dồn vào những tháng tới như thực hiện chế độ lương mới, chi giải quyết việc làm và phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Về đầu tư xây dựng cơ bản, việc cấp vốn trong những tháng đầu năm chưa bảo đảm được tiến độ thi công; còn một số công trình quan trọng cần khởi công trong năm 1993 nhưng đầu năm chưa cân đối đủ nguồn vốn (như thủy điện Yaly, công trình đường ống dẫn khí…). Nhu cầu vốn của các công trình đang xây dựng tăng lên khá nhiều cũng gây khó khăn lớn cho cân đối ngân sách. Ngoài ra, còn phải tính đến những khoản chi đột xuất do thiên tai, do những diễn biến phức tạp ở biên giới cũng phải được trù liệu trước. Tính chung lại, nhiệm vụ chi ngân sách trong 6 tháng cuối năm lớn hơn nhiều so với 6 tháng đầu năm.

Như vậy, cân đối ngân sách sẽ căng thẳng hơn và áp lực đối với giá cả cũng tăng lên.

Trong những biện pháp mà Bộ Tài chính đã nêu trong báo cáo trình Quốc hội, tôi muốn trình bày rõ thêm mấy điểm:

- Giải pháp quan trọng nhất là tăng thu để bảo đảm nhu cầu chi ngân sách. Hướng chính để tăng thu không phải là tăng mức thuế. Trong năm 1993, có tăng thuế suất một số hàng nhập khẩu, song tinh thần chung là cải cách từng bước hệ thống thuế theo hướng đơn giản, hợp lý, dễ thu, giảm mức thuế để khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm nuôi dưỡng và mở rộng nguồn thu. Dự thảo Luật về thuế sử dụng đất thay cho thuế nông nghiệp trình Quốc hội trong kỳ họp này được xây dựng theo tinh thần đó. Thuế trị giá gia tăng đang được chuẩn bị áp dụng ở các doanh nghiệp có điều kiện, thay cho thuế doanh thu.

- Yêu cầu trước mắt là thực hiện nghiêm chỉnh các Luật thuế đã ban hành. Khả năng tăng thu còn lớn trong tất cả các lĩnh vực và các thành phần kinh tế. Trong khu vực quốc doanh, tình trạng nợ đọng thuế cần phải được tích cực giải quyết cùng với việc thanh toán công nợ giai đoạn 2. Tình trạng tiêu xài lạm vào tài sản, tiền vốn của Nhà nước, hạch toán không minh bạch để trả lương, thưởng cao và giảm mức thuế phải nộp vẫn còn khá phổ biến. Thuế xuất, nhập khẩu tăng nhanh do điều chỉnh thuế suất một số mặt hàng nhưng tình trạng trốn, lậu thuế còn nghiêm trọng, nhất là thuế nhập khẩu. Điều đó không những làm giảm nguồn thu thuế nhập khẩu mà nguy hại hơn, còn phá hoại sản xuất trong nước, và do đó thu hẹp nguồn tích lũy của toàn bộ nền kinh tế. Số hộ và doanh thu chịu thuế của khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng hơn trước, song chênh lệch rất lớn về mức thu bình quân một hộ giữa các địa phương có điều kiện kinh tế tương tự như nhau chứng tỏ mức thất thu còn lớn.

Trên cơ sở phân tích khả năng thực tế, Chính phủ quyết tâm chỉ đạo tăng thu trong nước cả năm vượt trên 11% so với mức Quốc hội thông qua để đáp ứng nhu cầu chi theo kế hoạch và các khoản chi mới phát sinh, đồng thời bù đắp một phần thiếu hụt ngân sách. Những địa phương vượt kế hoạch thu đã giao, được giữ lại theo tỷ lệ Chính phủ đã công bố để bổ sung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra chi tiêu ngân sách, chống thất thoát, lãng phí, đặc biệt là đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản và ở các ngành, các địa phương có số chi ngân sách lớn. Cần kiểm tra xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm cụ thể đối với từng công trình mà vốn đầu tư tăng lên nhiều so với dự toán.

Các khoản chi thường xuyên cần phải rất chặt chẽ theo đúng tiêu chuẩn và kế hoạch đã phân bổ. Tình trạng chi tiêu lãng phí vào liên hoan, các ngày lễ, hội nghị, hội thảo, tiếp khách, quà cáp, v.v, chưa hề giảm bớt trong các xí nghiệp, cơ quan nhà nước và cả các đoàn thể là điều không thể chấp nhận được. Cần quy định chặt chẽ các khoản chi này và từng cơ quan, xí nghiệp phải công bố cho quần chúng biết để kiểm tra, giám sát cùng với các cơ quan chức năng. Phải đấu tranh khắc phục thói quen hễ gặp khó khăn, thiếu kinh phí là yêu cầu Nhà nước cấp và của Nhà nước thì “càng xin được nhiều càng tốt”. Vừa qua, Chính phủ kiểm tra một số nơi bị thiên tai, thấy không ít trường hợp địa phương báo cáo mức thiệt hại lớn hơn nhiều lần so với thực tế để xin Chính phủ trợ cấp. Một số doanh nghiệp nhà nước, khi kinh doanh thuận lợi không phòng ngừa lúc khó khăn, khi sản phẩm khó tiêu thụ thì giải pháp đầu tiên là yêu cầu Nhà nước hỗ trợ vốn hoặc xin miễn thuế, bù lỗ. Một số ví dụ đó cho thấy cơ chế tài chính cần phải tiếp tục đổi mới để tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các ngành, địa phương và cơ sở.

b) Về ổn định giá:

Do chi ngân sách tăng nhanh, trong đó phần chi tiền mặt khá lớn nên việc điều hòa lưu thông tiền tệ và cân đối tiền - hàng cần được chỉ đạo chặt chẽ, phối hợp đồng bộ để ngăn ngừa đột biến giá cả trong 6 tháng cuối năm, thực hiện mục tiêu đưa chỉ số giá trong cả năm xuống dưới 15%.

Cơ quan tài chính và ngân hàng phải phối hợp chặt chẽ trong việc chi trả, đi đôi với các biện pháp thu hút tiền gửi để giảm áp lực đối với giá cả. Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm và có quyền chủ động phát hành và điều hòa lưu thông tiền tệ, song không được vượt mức khống chế quy định cho cả năm.

Để cân đối tiền - hàng, cần có biện pháp tăng nhanh mức lưu chuyển hàng hóa, nhất là những mặt hàng đang có nhu cầu lớn như xi măng, thép xây dựng, xăng dầu, hàng thực phẩm công nghiệp, một số mặt hàng tiêu dùng, kể cả hàng nhập khẩu, phát triển du lịch trong dịp hè và các dịch vụ khác. Ngành Thương nghiệp, Ngân hàng và các ngành sản xuất phải phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong việc điều hòa cung cầu những mặt hàng chủ yếu, không để tái diễn tình trạng đột biến giá một số mặt hàng đáng lẽ có thể tránh được như đối với một số loại vật liệu xây dựng trong thời gian qua. Quan hệ giữa giá nông sản và giá công nghệ phẩm cần được theo dõi chặt chẽ và có biện pháp xử lý khi giá cả biến động bất lợi cho nền kinh tế.

Việc ổn định tỷ giá hối đoái phải tính đến cung - cầu ngoại tệ, sự biến động sức mua của đồng tiền Việt Nam và của ngoại tệ, bảo đảm khuyến khích xuất khẩu, đồng thời kiểm soát lạm phát, thúc đẩy việc sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh vòng quay ngoại tệ. Với nguồn thu ngoại tệ tiếp tục tăng, Ngân hàng có điều kiện và cần phải áp dụng cơ chế mua bán ngoại tệ bình thường, thuận tiện, thực hiện quyết định của Chính phủ về mở rộng chính sách cho vay ngoại tệ không chỉ ngắn hạn mà cả trung hạn để khuyến khích các doanh nghiệp vay nhập thiết bị và vật tư sản xuất. Có thể dành một phần ngoại tệ cho vay nhập hàng tiêu dùng mà trong nước có nhu cầu để tăng nhanh vòng quay ngoại tệ. Với mức thuế nhập khẩu đã điều chỉnh, việc nhập hàng tiêu dùng, kể cả một số mặt hàng cao cấp không những đáp ứng nhu cầu thực tế của các tầng lớp dân cư mà còn là một yếu tố kích thích sản xuất - kinh doanh, nâng cao năng lực chế tạo và sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước; đồng thời làm tăng thêm nguồn thu ngân sách.

Giá cả và tỷ giá là chính sách quan trọng, nhạy cảm trong cơ chế quản lý vĩ mô mà chúng ta còn chưa có nhiều kinh nghiệm, nên cách xử lý phải thận trọng, đi từng bước, vừa làm vừa theo dõi chặt tác động tới sản xuất, thị trường và giá cả để điều chỉnh kịp thời.

2. Đẩy mạnh đầu tư phát triển

Báo cáo của Thủ tướng thay mặt Chính phủ trình bày tại kỳ họp tháng 12 năm 1992 của Quốc hội đã nêu rõ: “Tình hình và khả năng thực tế vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho đất nước ta mở rộng quy mô đầu tư xây dựng, đẩy nhanh hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước xung quanh, vượt ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển”.

Chúng ta biết rằng nhịp độ phát triển kinh tế phụ thuộc vào mức đầu tư có hiệu quả gắn với công nghệ mới. Việc đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế cũng là nhằm khơi dậy và thu hút các nguồn lực vào đầu tư phát triển.

Mấy năm qua, tỷ lệ tích lũy đầu tư tuy có tăng nhưng chậm, còn rất thấp và phần lớn dựa vào nguồn vốn bên ngoài. Xoay chuyển tình hình này là một vấn đề then chốt đối với hiện tại và tương lai của đất nước ta, dân tộc ta.

Báo cáo của Chính phủ trong kỳ họp trước của Quốc hội đã trình bày rõ phương hướng, chủ trương, chính sách đẩy mạnh đầu tư phát triển. Tôi chỉ xin nêu thêm một số việc chính cần làm trong 6 tháng cuối năm và chuẩn bị cho năm 1994:

a) Trước hết, đối với các công trình then chốt của nền kinh tế, đặc biệt là công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cần phải chuẩn bị khẩn trương các dự án khả thi, xác định thứ tự ưu tiên và tìm cho được nguồn vốn để thực hiện, đón trước các khả năng mới trong việc tranh thủ nguồn viện trợ phát triển. Cơ quan tài chính phải bảo đảm cấp vốn đúng tiến độ theo dự toán đã duyệt cho những công trình được xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách.

b) Việc xây dựng và thể chế hóa chính sách khuyến khích và hướng dẫn đầu tư trong nước cần được xúc tiến nhanh hơn để ban hành và triển khai thực hiện từ năm nay.

Chính sách đối với nông dân gắn với chủ trương phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn tác động trực tiếp tới 10 triệu hộ, chiếm 80% dân số, góp phần rất quan trọng ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn và trên cả nước, tạo tiền đề tăng tốc độ phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa trong thời gian tới, như đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phân tích trong bài phát biểu ngày 3 tháng 6 năm 1993 tại Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII bàn về kinh tế - xã hội nông thôn. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5 cùng với Luật đất đai (sửa đổi) và Luật thuế sử dụng đất được Quốc hội thảo luận và quyết định trong kỳ họp lần này sẽ tạo nên sức bật mới ở nông thôn mà chúng ta cần phát huy kịp thời ngay từ 6 tháng cuối năm này. Việc triển khai thực hiện các quyết định đó cần được chỉ đạo chặt chẽ, phối hợp các ngành, các cấp, nhằm phát huy sự đồng tình và tính tích cực của nông dân, tăng cường đoàn kết nông thôn, ngăn ngừa những hiện tượng có thể gây cản trở hoặc tranh chấp.

Những việc cần làm ngay là:

- Khẩn trương cụ thể hóa và thực hiện dứt điểm, chủ trương giao đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài theo quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 và quy định của Luật đất đai sửa đổi, phấn đấu hoàn thành trên phạm vi cả nước từ nay đến giữa năm 1994. Việc này đòi hỏi bức xúc phải đổi mới công tác quản lý nhà nước về đất đai. Trước đây chúng ta giao việc quản lý đất canh tác cho các hợp tác xã; nay Ủy ban nhân dân xã, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền huyện và cơ quan quản lý ruộng đất, phải chủ trì, phối hợp với Ban quản trị hợp tác xã và Hội Nông dân để thực hiện tốt việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho hộ nông dân.

Để tiết kiệm quỹ đất nông nghiệp vốn rất có hạn, cần sớm bổ sung một số chính sách cụ thể về chuyển nhượng và nộp thuế đối với việc mua quyền sử dụng đất nông nghiệp dùng vào mục đích khác.

- Chuẩn bị ngay phương án tính thuế sử dụng đất theo Luật mới, công bố sớm để thi hành từ năm 1994. Khi triển khai thực hiện Luật này, cần làm rõ chính sách thuế ưu đãi đối với những vùng, lĩnh vực, cây, con cần khuyến khích đầu tư và đối với những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

- Tạo một bước chuyển biến mới trong việc thực hiện nghị định của Chính phủ về công tác khuyến nông, khuyến lâm. Trước mắt cần huy động một số cán bộ khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ ở các cơ quan, viện, trường, cơ sở quốc doanh, lập thành các nhóm công tác xuống tận làng bản và các hộ nông dân hướng dẫn phát triển sản xuất, áp dụng kỹ thuật mới; ưu tiên đưa đến vùng cao, vùng biên giới, vùng bỏ cây thuốc phiện chuyển sang cây trồng khác, vùng có nhiều đồng bào du canh, du cư. Chính phủ dành một phần quỹ phát triển kinh tế để trợ cấp thêm, bảo đảm điều kiện sinh hoạt, đi lại, làm việc cho các cán bộ này có thể ổn định công tác ở cơ sở trong một thời gian cần thiết, đưa lại kết quả thiết thực.

- Mở rộng nhanh hơn nữa tín dụng nông thôn. Trong 6 tháng qua, tín dụng ngân hàng cho kinh tế tập thể và tư nhân, chủ yếu là nông dân, tăng nhanh hơn khu vực quốc doanh là điều hợp lý, nhưng chưa đáng hài lòng vì tỷ lệ cho vay đối với nông dân và kinh tế tư nhân vẫn còn quá thấp, mới chiếm 22% tổng số dư nợ, và mới dừng lại ở hình thức cho vay ngắn hạn. Mặt yếu này cần phải tích cực khắc phục trong thời gian tới, đi đôi với việc tăng quyền chủ động cho các ngân hàng kinh doanh điều chỉnh kịp thời lãi suất tiền gửi và cho vay, thực hiện tốt chủ trương vay để cho vay, giảm các thủ tục phiền hà, loại trừ cho được tệ cho vay nặng lãi bắt chẹt nông dân. Tín dụng ưu đãi cho nông dân nghèo cần phải có cơ chế riêng.

Việc hình thành thị trường vốn, tiến tới thị trường chứng khoán trong nền kinh tế cần phải có kế hoạch, bước đi tích cực và hợp lý, bảo đảm điều kiện cho các thị trường này phát triển lành mạnh và hoạt động có hiệu quả.

c) Thị trường tiêu thụ là một yếu tố rất quan trọng mà mọi cơ sở sản xuất, mọi dự án đầu tư đều phải quan tâm nghiên cứu, chủ động tìm cách giải quyết phù hợp với đòi hỏi của thị trường trong nước và ngoài nước. Trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến, Nhà nước, trước hết là cơ quan thương mại các cấp và các hiệp hội kinh doanh cần coi trọng việc tổ chức dịch vụ thông tin thị trường, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người sản xuất nhỏ nâng cao năng lực tiếp thị, tìm và tạo thị trường. Cần chú trọng nghiên cứu, khai thác thị trường trong nước, đi sâu vào nhu cầu, thị hiếu của các vùng, các đối tượng tiêu dùng. Đặc biệt chú trọng nâng cao sức mua của nông dân, tạo ra thị trường rộng lớn tiêu thụ hàng công nghiệp, cả tư liệu sản xuất và sản phẩm tiêu dùng. Điều đó phụ thuộc trước hết vào việc tiêu thụ nông sản, với chính sách hỗ trợ cho nông dân khi giá thị trường không đủ bù chi phí sản xuất, tránh được tình trạng đầu cơ ép giá của các khâu trung gian, kể cả của các công ty quốc doanh. Hình thức hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ổn định, lâu dài giữa các cơ sở chế biến và kinh doanh nông sản với nông dân là một biện pháp quan trọng cần được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ.

Để giành được thị trường, các cơ sở sản xuất phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, đồng thời Nhà nước và toàn xã hội phải kiên quyết ngăn chặn hàng nhập lậu, trốn thuế. Chính phủ tăng cường chỉ đạo các ngành, các cấp, trước hết là các ngành và địa bàn trọng điểm, thường xuyên nắm tình hình, rút kinh nghiệm để có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn, phát hiện và xử lý bọn buôn lậu, đối phó với hàng nhập lậu bán phá giá.

Nhà nước cần xóa bỏ những thủ tục và quy định lỗi thời, tạo thuận lợi cho các nhà kinh doanh tiếp cận với thị trường bên ngoài. Việc tăng cường quan hệ với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế thông qua các hiệp định chính phủ là điều kiện mở đường cho các doanh nghiệp chen chân vào thị trường quốc tế. Bộ Thương mại cùng với Phòng Thương mại và Công nghiệp, các hiệp hội xuất khẩu cần phối hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp tìm và tạo ra bạn hàng ổn định, lâu dài, nhất là đối với việc tiêu thụ các sản phẩm xuất khẩu có khối lượng lớn. Các cơ quan Thương vụ ở nước ngoài trước đây hoạt động theo cơ chế Nghị định thư giữa hai Chính phủ, nay cần đổi mới cả tổ chức và phương thức hoạt động theo cơ chế mới.

d) Đầu tư trực tiếp của nước ngoài là một nguồn rất quan trọng bổ sung vốn và chuyển giao công nghệ. Đi đôi với việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư có sức cạnh tranh với các nước trong khu vực, làm tốt việc thu hút vốn, thẩm định và xét duyệt dự án, cần chú trọng nhiều hơn đến việc kiểm soát, hỗ trợ quá trình thực hiện dự án, rút ngắn thời gian từ khi cấp giấy phép tới khi dự án hoàn thành xây dựng đi vào hoạt động, tăng cường kiểm tra việc chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường. Từ năm 1994, kế hoạch cân đối kinh tế hằng năm phải tính đến các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang xây dựng, các cơ sở đã và sẽ đi vào hoạt động trong năm. Số cơ sở này sẽ tăng nhanh trong thời gian tới nên ngay từ bây giờ phải tổng kết tình hình của các đơn vị đã hoạt động để xác định rõ chức năng và trách nhiệm quản lý nhà nước đối với từng loại (liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước ngoài).

3. Phát huy mạnh hơn đà chuyển biến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cùng với bước tiến trong sự ổn định và phát triển kinh tế và những cố gắng tăng kinh phí tài trợ của Nhà nước, kết hợp với sự tham gia và đóng góp của nhân dân đang tạo đà chuyển biến mới trong toàn bộ lĩnh vực văn hóa, xã hội, bao gồm các hoạt động giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, y tế, thể dục thể thao, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, dân số và kế hoạch hóa gia đình, thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước và các chính sách bảo hiểm, cứu trợ xã hội.

Đà chuyển biến đó cần được phát huy mạnh hơn nữa để khắc phục về cơ bản tình trạng xuống cấp và nâng dần trình độ phát triển trong các lĩnh vực này, trước hết, trong sự nghiệp nâng cao dân trí và thể chất của dân tộc là cở hạ tầng xã hội quan trọng nhất cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của đất nước.

Nghị quyết của Trung ương Đảng, của Quốc hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1993 đã đề ra các chủ trương, chính sách và biện pháp. Về phần trách nhiệm của Chính phủ cùng với các Bộ hữu quan, cần coi trọng việc xây dựng thể chế nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách đó; áp dụng cơ chế bảo đảm cho các Bộ quản lý ngành được quyền chủ động và có trách nhiệm cao hơn đối với kinh phí dành cho toàn ngành; chỉ đạo việc thực hiện sát hợp với từng vùng, đặc biệt quan tâm đến miền núi, vùng đồng bào dân tộc và vùng có nhiều khó khăn. Từ năm 1994, kế hoạch nhà nước phải coi trọng việc xây dựng và hướng dẫn các chỉ tiêu phát triển xã hội, kết hợp chặt chẽ sự phát triển kinh tế - xã hội ngay trong kế hoạch và ngân sách hàng năm.

Cần đẩy mạnh hơn nữa việc “xã hội hóa” các hoạt động trong lĩnh vực xã hội, động viên và tổ chức tốt sự tham gia của các tầng lớp nhân dân cả về công sức và kinh phí, phát huy những mặt tốt đã làm được, khắc phục những mặt còn yếu như giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường, chấp hành các quy định bảo đảm an toàn xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật… Ở đây, sự phối hợp với chế độ trách nhiệm rõ ràng giữa các đoàn thể nhân dân với các cấp chính quyền và các cơ quan chuyên môn là một nhân tố có ý nghĩa quyết định.

Tôi xin trình bày thêm hai vấn đề:

a) Giải quyết việc làm vẫn là một yêu cầu bức xúc của xã hội, đặc biệt là của lớp thanh niên bước vào cuộc sống tự lập. Trong 6 tháng tới, cần đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai các dự án giải quyết việc làm, đặc biệt là các dự án phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chủ yếu tập trung cho vùng trung du, miền núi, Tây Nguyên. Đi đôi với việc đẩy mạnh đầu tư phát triển ở trong nước là hướng quan trọng nhất tạo việc làm, cần tìm thêm thị trường xuất khẩu lao động và chú ý bảo hộ lợi ích của người đi làm việc ở nước ngoài.

Cần xây dựng chính sách, quy chế giải quyết việc làm cho những thanh niên được đào tạo khi ra trường, không để thả nổi như hiện nay.

b) Tình trạng nhiễm HIV/SIDA đã tới mức báo động. Số người nhiễm HIV được phát hiện đã tới con số gần 500 và đã có 7 người chết vì SIDA. Con số này không thể xem thường vì chỉ mới tính trong số người có điều kiện kiểm tra và nhất là vì mức tăng của nó rất nhanh theo cấp số nhân, gắn liền với sự phát triển nạn ma túy và mại dâm.

Thực tiễn cho thấy rõ phải tiến hành đồng thời việc ngăn ngừa và bài trừ ma túy, mại dâm, phòng chống HIV/SIDA với những biện pháp đồng bộ về giáo dục, kinh tế và hành chính, với ý thức coi việc nhiễm HIV/SIDA là hiểm họa đối với dân tộc. Việc phòng chống bệnh này phải đặt lên hàng đầu trong nhiệm vụ ngăn chặn các tệ nạn xã hội và phải tìm hiểu kinh nghiệm của những nước đã thành công trong việc này để lựa chọn các biện pháp hữu hiệu phù hợp với hoàn cảnh của nước ta.

4. Xúc tiến công cuộc cải cách hành chính

Trong phần này, tôi xin trình bày 3 vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau: cải cách hành chính, thực hiện chế độ lương mới và chống tham nhũng.

a) Tiến trình đổi mới đòi hỏi bức xúc phải tiến hành công cuộc cải cách hành chính, khâu trung tâm của quá trình cải cách bộ máy nhà nước, có quan hệ chặt chẽ với cải cách kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị.

Mục tiêu của cải cách hành chính là xây dựng hệ thống cơ quan hành chính có hiệu lực với bộ máy hợp lý và đội ngũ công chức có năng lực và trong sạch, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Nội dung cải cách hành chính bao gồm nhiều vấn đề lớn, phức tạp, phải giải quyết từng bước.

Căn cứ vào Hiến pháp, phải xác định rõ thẩm quyền hành chính, từ đó quy định thẩm quyền của từng cấp và mối quan hệ giữa các cấp hành chính từ Chính phủ và các Bộ đến chính quyền cấp tỉnh, thành phố, cấp huyện, quận, cấp xã, phường.

Phân định chức năng hành chính điều hành và chức năng hành chính tài phán (xử lý các tranh chấp giữa các cơ quan và giữa các cơ quan với công dân).

Sắp xếp bộ máy hành chính từng cấp theo hướng tinh giản, hoạt động đúng chức năng, đúng thẩm quyền.

Xây dựng quy chế công chức với chức danh, tiêu chuẩn từng loại được xác định rõ, làm căn cứ cho việc đào tạo, tuyển dụng, sắp xếp đi đôi với việc thực hiện chế độ lương mới.

Xây dựng chế độ công vụ; định rõ trách nhiệm và quyền hạn cho các loại công chức khi giải quyết công việc có liên quan đến lợi ích của công dân.

Cải tiến tổ chức và hoạt động của các công sở theo hướng áp dụng từng bước tin học và nâng cao kỹ thuật văn bản hành chính.

Cải cách hành chính phải phù hợp và phục vụ tốt cải cách kinh tế. Hai cuộc cải cách đó quan hệ chặt chẽ với nhau và thuộc trách nhiệm trực tiếp của Chính phủ, trước hết là của Thủ tướng.

Trong năm nay phải hình thành tổ chức và tập hợp đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt giúp Thủ tướng chỉ đạo hai cuộc cải cách này, trước hết là xây dựng chương trình tiến hành từng bước và tổ chức nghiên cứu các vấn đề chuẩn bị cho các quyết định ở tầm Chính phủ về cải cách kinh tế và cải cách hành chính. Công tác nghiên cứu phải huy động và tập hợp được trí tuệ của các cơ quan và các cá nhân am hiểu, chú ý tận dụng các kết quả nghiên cứu đã đạt được, đặc biệt là các đề tài khoa học có liên quan đến các lĩnh vực này.

b) Trong công cuộc cải cách hành chính, việc xây dựng quy chế công chức đi liền với thực hiện chế độ lương mới.

Trong hoàn cảnh kinh tế chưa ổn định, tình hình tài chính chưa lành mạnh, nhiệm vụ đẩy lùi lạm phát còn nặng nề, Chính phủ đã trình kỳ họp thứ 2 của Quốc hội thông qua phương án thực hiện từng bước chế độ lương mới, với mức lương tối thiểu và bội số tiền lương trong từng bước.

Thực hiện quyết định của Quốc hội, Chính phủ đã xây dựng hệ thống thang lương, bảng lương, mức lương, phụ cấp lương đối với các viên chức hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp đối với người nghỉ hưu, các đối tượng hưởng chính sách xã hội và đối với cán bộ xã, phường. Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh - Xã hội đã có báo cáo riêng về việc thực hiện chế độ lương mới gửi tới các đại biểu Quốc hội.

Tôi xin trình bày thêm về việc áp dụng hệ thống ngạch, bậc lương mới trong bước thực hiện từ 01-4-1993. Hệ thống này có mấy điểm mới nhằm khắc phục tính chất bình quân và những bất hợp lý trong chế độ lương cũ: phân biệt lương của những người giữ chức vụ qua bầu cử và những công chức được bổ nhiệm; mọi công chức được sắp xếp vào ngạch, bậc lương, nếu giữ cương vị lãnh đạo thì hưởng thêm phụ cấp chức vụ; phân biệt ngạch lương theo trình độ, năng lực công tác và bậc lương trong từng ngạch theo thâm niên. (Người làm việc lâu năm nhưng không đủ trình độ để chuyển ngạch thì chỉ được nâng bậc).

Tuy được nghiên cứu xây dựng khá công phu với sự tham gia của tất cả các ngành có liên quan. Song tương quan về lương là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm; lại áp dụng vào một đội ngũ cán bộ, nhân viên gồm nhiều thế hệ, có quá trình đào tạo, trưởng thành khác nhau, trong điều kiện mới bắt đầu cải cách hành chính, chưa xây dựng được quy chế công chức và tiêu chuẩn chức danh một cách đầy đủ, rõ ràng. Do đó, trong việc xếp ngạch, bậc lương để thực hiện chế độ lương mới cần có cách làm phù hợp với tình hình thực tế, tránh nóng vội, rũ rối, gây phức tạp trong quan hệ nội bộ. Mặt khác, cần coi các quy định về ngạch, bậc lương chưa phải là cố định mà sẽ được bổ sung, điều chỉnh nhằm khắc phục những vướng mắc, bất hợp lý phát hiện được trong quá trình thực hiện.

c) Trong mục tiêu cải cách hành chính, làm trong sạch bộ máy, vấn đề chống tham nhũng đi đôi với chống buôn lậu là một yêu cầu bức xúc mà toàn xã hội đều quan tâm. Tuy tệ nạn này diễn ra trên diện rộng, song tập trung chủ yếu trong hệ thống hành chính.

Ban chỉ đạo chống tham nhũng đã có báo cáo trình Quốc hội.
Ở đây, tôi chỉ trình bày bổ sung một số điểm được nhận thức rõ thêm qua thực tiễn tiến hành cuộc đấu tranh này.

Trong 6 tháng qua, Ban chỉ đạo đã giúp Chính phủ thường xuyên theo dõi, tập hợp tình hình, đề ra biện pháp thúc đẩy cuộc đấu tranh ngăn ngừa và bài trừ tham nhũng. Tiếng nói của báo chí cũng hỗ trợ tích cực hơn cho cuộc đấu tranh này. Đối với các vụ vi phạm đã phát hiện, trách nhiệm của Chính phủ là chỉ đạo việc xử lý trong phạm vi hành chính; việc truy tố, xét xử thuộc chức năng của cơ quan Kiểm sát, Tòa án. Yêu cầu đặt ra là phải xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, không dung thứ kẻ tội phạm, song cũng không được xử oan. Kết luận về tội phạm phải dựa trên chứng cứ xác thực, không chỉ căn cứ vào dư luận và phải đề phòng những thông tin sai lạc, một chiều.

Mặc dù việc phát hiện và xét xử các vụ và người vi phạm cần phải tiếp tục tiến hành kiên quyết hơn, song, thực tiễn cho thấy rõ cần phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm giải quyết vấn đề từ gốc và phải đề cao trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các địa phương thì mới ngăn ngừa và bài trừ được nạn tham nhũng.

Suy đến cùng, hầu hết các vụ tham nhũng đều đục khoét vào tài sản của Nhà nước, làm thất thoát nguồn thu ngân sách và đều dựa vào những sơ hở, những chỗ bất hợp lý, không phù hợp với quy luật trong cơ chế chính sách. Một ví dụ rất rõ là khi còn cơ chế bao cấp qua giá và tín dụng thì không thể bài trừ được tình trạng lợi dụng ăn chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất.

Vì thế, phải đi sâu nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót dễ bị lợi dụng tham nhũng tài sản, vốn của Nhà nước. Đồng thời, tránh khuynh hướng thiên về dùng mệnh lệnh hành chính cấm đoán làm tăng thêm các hoạt động kinh tế ngầm. Đây là một công việc rất phức tạp. Trước mắt, cần giải quyết những vấn đề dưới đây:

- Tài nguyên và tài sản quốc gia phải có giá, có cơ chế quản lý chặt chẽ, sao cho mọi của cải quốc gia và của Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm và có lợi ích trong việc bảo tồn và phát triển. Cần thực hiện ngay chủ trương này đối với những tài sản của Nhà nước đang bị xâm phạm nghiêm trọng như đất đai, nhà cửa, vốn đầu tư, tài sản doanh nghiệp. Những thứ gì xét thấy không cần giữ hình thức sở hữu nhà nước thì có thể chuyển thành sở hữu tư nhân hoặc tập thể.

- Thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh trong những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, thu hẹp diện phải xin phép quá nhiều cơ quan, nhiều cấp, giảm các thủ tục không cần thiết gây phiền hà, sách nhiễu. Trước mắt, cần xem xét ngay các chế độ, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, hành nghề, cấp giấy phép và phân bổ hạn ngạch xuất nhập khẩu, các thủ tục và lệ phí về chuyển nhượng, sang tên, chia, cho nhà ở và tài sản khác, về xuất nhập cảnh… Luật pháp, chế độ, thể lệ trong kinh doanh và quan hệ dân sự phải được công bố cho mọi người biết; công dân và các cơ quan, công chức nhà nước đều có trách nhiệm thực hiện.

Cơ quan nhà nước trực tiếp giải quyết công việc nào của dân phải niêm yết các thủ tục, giấy tờ cần có đối với công việc đó và phải giúp cho dân hiểu những quy định có liên quan đến việc đó. Công dân có quyền biết tên và chức vụ của người công chức xử lý công việc của mình. Khắc phục tệ “cửa quyền” là một yêu cầu quan trọng của công cuộc cải cách hành chính, góp phần chống tham nhũng.

- Cải cách từng bước hệ thống thuế, đổi mới phương thức thu thuế, khắc phục tình trạng tính thuế theo lối “mặc cả”, hạn chế các ngoại lệ miễn giảm thuế. Chế độ phạt tiền đối với các vi phạm hành chính cũng phải sửa đổi theo hướng đó.

- Xúc tiến việc thành lập Tòa án Kinh tế và Tòa án Hành chính để giải quyết theo thủ tục pháp lý các tranh chấp giữa các doanh nghiệp, giữa công dân với cơ quan nhà nước. Phát triển các dịch vụ, tư vấn pháp lý.

Đi sâu vào cơ chế, chính sách trong từng lĩnh vực, còn nhiều vấn đề cụ thể khác nữa cần giải quyết. Những vấn đề nêu trên chưa phải là tất cả, song việc giải quyết cũng không đơn giản, một phần do chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm, một phần do đụng chạm đến lợi ích của những người, những bộ phận đang lợi dụng những sơ hở của cơ chế, chính sách, đang muốn bám giữ “đặc quyền”. Vì thế, công việc này vừa đòi hỏi phải điều tra, nghiên cứu một cách khoa học vừa là một cuộc đấu tranh chống bảo thủ, cửa quyền. Tinh thần này cần được thấu suốt trong việc chuẩn bị các dự án luật và pháp lệnh theo chương trình xây dựng luật đã được Quốc hội thông qua.

Cùng với việc phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 1993, năm nay cần chuẩn bị sớm kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách năm 1994. Nội dung chuẩn bị cần chú ý mấy yêu cầu:

- Điều tra, phân tích khả năng đầu tư phát triển trong nước của các thành phần kinh tế trong các lĩnh vực và thăm dò khả năng thu hút vốn ngoài nước đặc biệt là nguồn viện trợ phát triển. Đẩy mạnh việc xây dựng quy hoạch các địa bàn trọng điểm, lập các dự án khả thi của các công trình trọng điểm, trước hết là các công trình dựa vào nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước.

- Lựa chọn và tiến hành điều tra, nghiên cứu những vấn đề kinh tế và xã hội cần làm sáng tỏ cho việc xây dựng kế hoạch và hoạch định chính sách như: nguồn thu nhập, mức sống, cơ cấu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư ở các vùng; điều tra xã hội học về thực trạng thiếu việc làm, về nhu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp thanh niên, v.v..

- Xác định và xúc tiến việc sửa đổi, bổ sung các chính sách và cơ chế làm cơ sở cho một bước phát triển cao hơn về kinh tế - xã hội cùng với ngân sách tương ứng với bước phát triển ấy.

- Cân đối vật tư chủ yếu và tài chính tiền tệ gối đầu cho năm sau.

Nội dung công việc chuẩn bị cần lập thành chương trình có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan ở Trung ương và một số tỉnh, thành phố để thực hiện. Với cách làm đó, chúng ta nâng cao dần chất lượng kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách trình ra Quốc hội, đồng thời, bảo đảm sớm hơn việc giao kế hoạch và phân bổ ngân sách cho các ngành, các địa phương.

Với sự lãnh đạo của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, với sự giám sát, hỗ trợ của Quốc hội cùng với sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Chính phủ cố gắng phát huy những tiến bộ đã đạt được, và khắc phục những nhược điểm, khuyết điểm trong sự chỉ đạo, điều hành để làm tròn trách nhiệm của mình. Chúng ta tin tưởng rằng đà chuyển biến tốt trong 6 tháng đầu năm sẽ tiếp tục động viên sức mạnh của toàn dân để vượt qua những khó khăn, trở lực, thực hiện thắng lợi nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1993 và chuẩn bị tốt hơn cho sự phát triển của đất nước trong những năm tới.

Xin cảm ơn sự chú ý theo dõi của các đồng chí đại biểu Quốc hội.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội